Chuyên đề Những giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành Thủy sản Nghệ An

Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh , mỗi đơn vị đều phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Tuy nhiên có vốn nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả mới là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi ngành kinh tế.

Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn là việc cần thiết nhằm thể hiện chất lượng công tác sử dụng vốn, đồng thời đánh giá hiệu quả của nó để có các biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Hiệu quả sử dụng vốn hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mà hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế – chính trị – xã hội, phong tục tập quán, tính mùa vụ nên hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không nằm ngoài sự ảnh hưởng của các nhân tố đó.

 

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển ngành Thủy sản Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước gần 80 triệu thì đay là một thị trường lớn, trong khi nu cầu của nhân dân ngày không ngừng nâng cao về chất cũng như về lượng. Việc hội nhập của đất nước cũng là điều kiện thuận lợi giúp cho ta có thể tranh thủ các nguồn vốn, đưa công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào đẻ phát triển cơ sở hạ tầng cũng như lực lượng sản xast. Những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, lực lượng sản xuất trong những năm qua và sắp tới cũng là tiền đề cho sự phát triển tiếp theo. Hơn nữa sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với hàng loạt chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển ngành thủy sản trong những năm gần đây, cùng với việc củng cố xây sựng quan hệ sản xuất BVMT và BVNL thủy sản sẽ tạo điều kiện tốt cho ngành phát triển sau này. Nguồn lực lao động : Mặc dù so với nhu cầu, trình độ dân trí còn thấp, nhưng so với mặt bằng các nước láng giềng đang phát triển thì trình độ dân trí nước ta cao hơn. Dân ta có truyền thống nghề cá lâu đời, cần cù sáng tạo. Với chiến lược đào tạo nhân lực của Đảng và Nhà nước ta, đây sẽ là tiền đề cho sự phát triển đầu thế kỷ XXI. Đặc biệt, độ tuổi lao động ở tỉnh Nghệ An vùng nông thôn nghề cá là rất lơn, đáp ứng nhu cầu lao cho công cuộc HĐH - CNH. I.1.2 - Cơ cấu của ngành Thủy sản Nghệ An Sở Thủy sản Nghệ An chịu trách nhiệm nắm bắt tình hình sản xuất thủy sản trến địa bàn tỉnh báo cáo trực tiếp với UBND tỉnh kết quả đạt được và những nhu cầu đòi hỏi của các cơ sở sản xuất, từ đó sẽ giúp cho UBND định hướng phát triển kinh té thủy sản trong những năm tiếp theo. Sở cụ thể hóa các chỉ tiêu, lập phương án tổng quan phát triển ngành cá, có những biện pháp cụ thể giúp tháo gỡ những khó khăn cho các đơn vịn sản xuất, đưa ngành kinh doanh Thủy sản tiến lên những nấc thang mới. Các phòng Thủy sản ở các huyện sau khi phân cấp quản lý cho huyện, vẫn quan hệ gắn bó với Sở Thủy sản. Có những đơn vị trực thuộc Sở Thủy sản Nghệ An : Công ty Thủy sản Nghệ An, Công ty dịch vụ Thủy sản Diễn Châu, Công ty Thủy sản Quỳnh Lưu, Công ty xuất nhập khẩu thủy sản Nghệ An, Công ty giống nuôi trồng thủy sản Nghệ An, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Trung tâm khuyến ngư, xí nghiệp đánh bắt cá Cử Hội. I.1.3 - Thực trạng phát triển ngành Thủy sản Nghệ An trong những năm qua. Kết quả đạt được từ năm 2000 - 2002 Danh mục ĐVT 2000 2001 2002 Tổng sản lượng Tấn 37.5000 39.300 43.000 - Khai thác Tấn 29.000 30.000 32.000 - Nuôi Tấn 8.500 9.300 11.000 Tổng giá trị SP Tr.đ 265.000 360.000 420.000 - Giá trị xuất khẩu USD 10.000.000 12.000.000 15.000.000 - Quốc doanh USD 4.800.000 6.000.000 7.000.000 - CB nước mắm Tr.lít 10 12 13 - Nạp ngân sách Tr.đ 7.700 10.200 12.150 Trong 5 năm qua có thể nói ngành thủy sản Nghệ An gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Sự bất lợi về thời tiết không những làm ảnh hưởng đến năng suất khai thác, nuôi trồng, mà còn gây thiệt hại cho ngư dân về người và của. Hậu quả của tình trạng khai thác bất hợp lý kéo dài của những năm trước, của sự suy giảm nguồn lợi vùng lộng… Tuy nhiên cũng có thể nói đây cũng là khẳng định sự chuyển mình của ngành thủy sản Nghệ An. Những định hướng đã được vạch ra và khẳng định trong năm 2000 - 2001 (như về đầu tư mới, nâng cấp sửa chữa tàu thuyền, xây dựng trạm giống mới…) mặc dù năm 2000 sản lượng đánh cá không đạt được như mong muốn nhưng ngành vẫn kiên trì thực hiện. Kết quả đạt được trong 2 năm 2000 - 2002 đã khẳng định tính đúng đắn của định hướng. Trước hết về cơ cấu tàu thuyền : Đây là những năm chuyển đỏi mạnh về cơ cấu tàu thuyền theo hướng tăng quy mô sản xuất, sắm mới những thuyền có mã lực lớn phụ vụ công tác đánh bắt xa bờ, giảm bớt tàu thuyền con. So với năm 1999, tổng tàu thuyển giảm 356 chiếc nhưng tổng công suất tăng 32.000 mã lực. Thuyền thủ công giảm từ 449 chiếc xuống còn 80 chiếc, loại 30 - 90CV tăng từ 62 chiếc lên 832 chiếc, trong đó loại lớn hơn 90CV năm 1999 chỉ có 108 chiếc thì nay toàn tỉnh đã có 274 chiếc với công suất 36.600CV. Bên cạnh sự phát triển đội tàu khơi từ chương trình khai thác vùng khơi của Chính phủ, nhân dân Nghệ An thực sự thấy được tính hiệu quả, sự cần thiết của việc đầu tư thay đổi công nghệ tiên tiến chế biến, khai thác thủy sản nên đã mạnh dạn vay vốn đóng mới nhiều tàu có công suất mã lực lớn. Hơn nữa, những thiết bị khai thác hàng hải hiện đại như dò cá, thông tin vô tuyến, định vị vệ tinh… Không những chỉ trng bị ở những đội tàu khơi mà đã phổ biến trang bị cho các loại tàu khác, nhất là huyện Quỳnh Lưu, Cửa Lò, Nghi Lộc. Có thể nói, Nghệ An là một tỉnh chuyển đổi nhanh cơ cấu tàu thuyền và có đội tàu khơi vào loại lơn nhất ở miền Bắc. Hơn nữa, trong những năm qua cơ cấu nghề nghiệp cũng được chuyển đổi nhanh chóng, nhiều nghề mới có hiệu quả được phát hiện như : Nghề vây rút chì kết hợp ánh sáng, rê khơi, rê tầng đáy, giã tôm nhiều lưới, chụp mực… Ngư dân đã sử dụng nhiều nghề, chuyển đổi ngư trường để khai thác và đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Chính vì thế sản lượng khai thác năm 2000 đạt 37.500 tấn, tăng 3% so với kế hoạch, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước, năm 2001 đạt 39.300 tấn, năm 2002 đạt 42.000 tấn. Đây là sản lượng khá cao so với các tỉnh có bờ biển dài hơn ( Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Nam Định). Một điều quan trọng là sản lượng khai thác vùng khơi tăng nhanh. Về nuôi trồng: đây cũng là những năm ngành triển khai mạnh mẽ các chương trình khuyến nông, khuyến ngư để mở rông diện tích nuôi, mở rộng cơ cấu con giống mới có giá trị kinh tế, chuyển giao công nghệ nuôi xen canh tác loại cá có giá trị kinh tế cao như: ba ba, trê lai, rô phi đơn tính, bống trượng. Nhiều mô hình cá lúa, lông bè trên sông, trên biển được mở rộng. Công ty giống và các cơ sở tư nhân đã tích cực cung ứng con giống có chất lượng cao và kịp thời cho nhân dân. Trong những năm qua, diện tích nuôi trồng đã tăng từ 13.000 ha năm 2000 lên 13.750 năm 2002, sản lượng 8.000 tấn năm 2000 lên 9.200 tấn năm 2002. Một điều có ý nghĩa to lớn là trong những năm qua nuôi trồng thuỷ sản đã trở thành một nghề chính của dân không những ở các huyện vùng biển, đồng bằng mà còn phát triển rầm rộ ở các huyện miền núi. Nuôi cá đã được nhân rộng và có phong trào khá lớn như ở Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Quế Phong… Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn miền núi, góp phần xóa đói giảm nghèo và phục vụ chương trình xóa cây thuốc phiện ở miền núi. Trong nuôi trồng thủy sản mặn lợ, nhiều năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong khâu công nghệ, giống, thức ăn, nhưng việc nuôi tôm có chiều hướng phát triển tốt. Đặc biệt là sau chuyến đi thăm quan các tỉnh Nam Trung Bộ và các buổi tập huấn của chuyên gia Thái Lan, nhiều hộ ngư dân đã thay đổi suy nghĩ và đã đầu tư theo phương thưc nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh. Nhờ có hệ thống thủy lợi được đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước và các chính sach hỗ trợ phát triển của tỉnh mà năm 2002 nhân dân toàn tỉnh đã đầu tư và phát triển được trên 100ha diện tích nuôi tôm thâm canh, có nhiều hộ đạt năng suất cao. Đây là thành tích ban đầu nhưng chắc chắn nghề nuôi tôm ở Nghệ An sẽ trở thành mũi nhọn phát triển của ngành. Về cế biến : Mặc dù các doanh nghiệp trong những năm qua gặp khó khăn về thiết bị, thị trường, vốn. Nhưng với nổ lực cao nên đã đạt được những kết quả khả quan : Kim nghạch xuất khẩu tăng từ10 triệu USD lên 12 triệu năm 2001 và đến năm 2002 ước đạt 15 triệu USD, trong đó quốc doanh tăng từ 4,8 triệu USD năm 2000 lên 5,6 triệu USD, đến năm 2001 là 6,93 triệu USD. Trong khi một số doanh nghiệp chế biến tỉnh bạn bị giải thể thì ở tỉnh Nghệ An vẫn đứng vững, có hiệu quả, góp phần tiêu thụ sản phẩm cho ngư dân. Hơn nữa, chế biến nhân dân đang hoạt động rộng khắp, nhiều hộ gia đình tổ hợp, HTX sản xuất với quy mô lớn. Trong những năm qua các thành phần kinh tế trong tỉnh đã chế biến được khoảng 10 triệu lít nước mắm (năm 2000), 12triệu lít (năm 2001) và 13 triệu lít (năm 2002), sản phẩm dần chiếm lĩnh thị trường nội tỉnh. Như vật, kể cả chế biến sản phẩm xuất khẩu, các đơn vị chế biến trong tỉnh đẫ tiêu thụ được khoảng 50% sản lượng khai thác. Song song với sự phát triển của khai thác, nuôi trồng, chế biến, lĩnh vực dịch vụ cũng được quan tâm và phát triển mạnh. Trong những năm qua, các đơn vị đóng sửa tàu thuyền, cơ khí, dá lạnh đều được hồi phục nhanh chóng và phát triển. Các đơn vị như Hải Châu, Châu Hưng, Nghi Thiết đang vận hành thông suốt. Dưới sự chỉ đạo tư vấn, giúp đỡ của ngành, từ chỗ chỉ đóng loại nhỏ đến nay các đơn vị trên đã có khả năng đóng được tàu có công suất đến 500CV. Hàng năm đóng trong và ngoài tỉnh gần 300 tàu lớn nhỏ. Qua các đợt tập huấn tuyên truyền, nhân dân đã hiểu và quen với công nghệ bảo quản hiện đại. Máy sản xuất đá lạnh đã mọc lên khắp nơi trong tỉnh. Từ con só không đến nay tỉnh đã có 92 máy đá với tổng công suất 402,6tấn/ngày và nhiều cơ sở xây dựng khao bảo quản với quy mô tương đối lớn (kho có dung tích 20 khối) đáp ứng nhu cầu bảo quản sản phẩm cho ngư dân. Trong những năm qua ngành cũng đẩy mạnh công tác quan hệ đối ngoại, tranh thủ mọi vốn đầu tư. Chính những việc làm này cộng với sự quan tâm đúng đắn của Tỉnh ủy, UBND tỉnh mà ngành Thủy sản đã được đầu tư một số công trình lớn như : Cảng cá Cửa Hội, Bến cá Lạch Quèn, Bến cá Lạch Vạn, Trồng rừng ngập mặn, nâng cấp nhà máy chế biến đông lạnh, chuyển đổi cơ cấu sản xuất… đã được chỉ dịnh là một tỉnh thí điểm và đã triển khai dự án của các tổ chức : DANIDA, SIDA, UNDP (về nâng cao trình độ quản lý, quy hoạch nuôi trồng thủy sản, về phát triển vùng Bắc Trung Bộ, về phát triển nuôi cá thay cây thuốc phiện…). Đã liên kết với Viện Thủy sản I xây dựng trung tâm nghiên cứu tại Nghệ An. Đây chính là tiền đề quan trọng cho bước phát triển tiếp theo trong những năm sau. Về xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất : Đây là nững năm có sự chuyển đổi mạnh mẽ, các doanh nghiệp nhà nước ngày càng được củng cố phát triển. Một số đơn vị khó khăn đã được vực đậy và bước đầu kinh doanh có hiệu quả : Công ty Thủy sản Nghệ An, Công ty XNK TS Nghệ An, Xí nghiệp dánh ca Cửa Hội. Các dơn vị có hiệu quả vẫn giữ vững xu hướng phát triển như : Công ty Thủy sản Diễn Châu, Công ty Thủy sản Quỳnh Lưu. Hiện nay, 3 công ty chế biến thủy sản nội địa đã được chuyển sang công ty cổ phần. Nhờ có sự chuẩn bị và có bước đi thích hợp cho nên cả 3 doanh nghiệp sau khi chuyển đổi đều phát triển tốt. Bên cạnh đó, các đơn vị thuộc thành phần kinh tế hợp tác cũng được quan tâm. Việc đầu tư đac được gắn với công tác chuyển đổi, củng cố và xây dựng quan hệ sản xuất. Do vậy, hiện nay đã thành lập được 61 HTX (năm 2001), có 4 loại HTX trong đó : - HTX khai thác thủy sản : 54 đơn vị - HTX Chế biến : 4 đơn vị - HTX đóng thuyền tàu : 3 đơn vị Ngoài ra cả tỉnh còn có trên 1.700 tổ hợp, tập đoàn, công ty TNHH, Ngành Thủy sản đã có một phòng chuyên theo dõi, tư vấn cho các đơn vị trong quá trình chuyển đổi và xây dựng (đặc biệt trong xây dựng điều lệ, quy chế quản lý), trong việc tổng kết mô hình, hội thảo để tìm ra con đường đi thích hợp. Khuyến khích các đơn vị xây dựng mô hình HTX vừa khai thác cùng với chế biến - dịch vụ vừa phát huy tiềm năng và hiệu quả đầu tư. Về tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian qua, nhờ có phát triển về mọi mặt cho nên ,về cơ bản, lao động có việc làm, thu nhập của nhân dân ngày càng được nâng cao. Lao động khai thác có thu nhập bình quân 500.000 - 600.000đ/tháng, lao động chế biến thu nhập 600.000 - 700.000đ/tháng, lao đông đóng sửa tàu thuyền thu nhập 800.000đ/tháng. Tình hình trị an, an ninh vùng biển được giữ vững, các tệ nạn ngày càng được giảm. Nhiều tụ điểm kinh tế - Văn hóa - xã hội vùng ven biển ngày càng phát triển. Nói tóm lại trong những năm qua về cơ bản các chỉ tiêu của ngành đều đạt và vượt. Tuy vậy nhìn lại hoạt động của ngành vẫn có nhiều vấn đề tồn tại cần khắc phục, đó là : - Tốc độ tăng trưởng bình quân chưa cao, có lĩnh vực còn quá thấp là nuôi tôm và chế biến xuất khẩu. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số đơn vị còn thấp, có những đơn vị còn làm ăn thua lỗ (đặc biệt là trong khai thác). Cơ cấu trong khai thác và trong hệ thống kinh tế thủy sản còn mất cân đối. Đoa là sự mất cân đối trong khai thác vùng lộng với khai thác vùng khơi, chế biến phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu của lượng khai thác và nuôi trồng được. Chế biến xuất khẩu còn chậm, giá trị xuất khẩu còn thấp. Cơ sở hạ tầng còn thiếu, yếu có mặt chưa có nhu cầu cảng, bến cá. Nuôi trồng phát triển về bề rộng nhưng năng suất thấp, lãng phí diện tích mặt nước. Thiếu tính quy hoạch, đặc biệt là nuôi mặn lợ. Viịe hình thành vùng thâm canh nuôi tôm còn quá chậm. - Kinh tế HTX phát triển mạnh nhưng trong quá trình hoạt động còn nhiều lúng túng, đặc biệt trong khâu quản lý của đội ngũ HTX đánh cá xa bờ chưa xứng với quy mô của lực lượng sản xuất. Tình trạng xã viên bỏ ra HTX còn diễn ra, tỷ lệ trả nợ cho Nhà nước thấp. - Công tác bảo vệ nguồn lực thủy sản đã được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao. - Lĩnh vực khuyến ngư tiếp cận với mảng khai thác và nuôi trồng mặn lợ còn kém. Những bài học kinh nghiệm và nguyên nhân tồn tại : Những bài học kinh nghiệm : Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, quản lý chuyên ngành. Phát huy quyền tự chủ, dân chủ của cơ sở. Hoạt động hướng về cơ sở. Trên cơ sở định hướg quy hoạch tổng thể, kiên trì thực hiện không nóng vội, chắp vá. Trong khai thác lấy đơn vị thuỳen nghề làm đơn vị hạch toán độc lập, đảm bảo đa nghề trên một đơn vị tàu thuyền. Kết hợp khai thác - chế biến - dịch vụ trong một đơn vị kinh tế. Trong đầu tư khai thác cần có bước đi thích hợp với năng lực và trình độ của dân, tăng cường vốn tự có trong cơ cấu vốn đầu tư. Trong nuôi trồng, giảm quy mô diện tích nuôi trên một hộ gia đình để tăng hiệu quả; phù hợp với trình độ và năng lực vốn và trình độ quản lý. Trong chế biến quan tâm hàng xuất khẩu nhưng cần coi trọng thị trường trong nước. Trong xây dựng thành phần kinh tế hợp tác, đặc biệt chú trọng tính tự nguyện, tự chịu trách nhiệm vốn của xã viên, tác động tuyên truyền chứ không được gò ép, hình thức. Nguyên nhân tồn tại : Những tồn tại trên đây có những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau : - Tính đặc thù của thủy sản là phụ thuộc vào thiên nhiên tác động mạnh đến quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa ngành Thủy sản là ngành có nhu cầu đầu tư cao, rủi ro lớn nên gây khoa khăn chó quá trình đầu tư phát triển. - Xuất phát điểm của ngành thấp, chậm. Hậu quả của những năm đầu chuyển đổi cơ chế mà quản lý bị buông lỏng như trong khai thác và bảo vệ nguồn lợi. - Cán bộ chưa nhạy bén trong cơ chế thị trường, cán bộ và công nhân cơ sở hầu hết chưa qua đào tạo chính quy. Vấn đè cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn còn bất cập với nhu cầu thực tế. Tổ chức bộ máy của một số doanh nghiệp chưa phù hợp. Đội ngũ kỹ thuật, nhất là kỹ thuật khai thác, chế biến và nuôi trồng mặn lợ còn yếu kém và thiếu. - Trong nuôi trồng, việc hình thành trung tâm giống còn chậm, chất lượng giống chưa cao. Công tác giao đất cho dân theo NĐ 85/Cp còn nhiều lúng túng, chưa triển khai kịp thời nhằm tạo điều kiện cho dân trong việc vay vốn. - Một số cơ chế chính sách chưa phù hợp, chưa khuyến khích được sự phát triển. Nguyên nhân này, một phần do công tác tham mưu, một phần do cơ chế chính sách từ TW. Chính sách đầu tư của Tỉnh cho lĩnh vực nuôi tôm, con giống tôm chưa thỏa đáng do phát triển nuôi thâm canh còn gặp nhiều khoa khăn. - Vấn đề chỉ đạo của cơ quan quản lý Nhà nước còn thiếu kiên quyết, chưa đáp ứng được thực tế. Vấn đề quy hoạch tổng kết thực tiễn chưa sát thực. Việc xây dựng mô hình và tổng kết mô hình chưa có hiệu quả và chưa kịp thời. Trong nuôi tôm việc triển khai công nghệ tiên tiến kém hiệu quả. Mô hình xây dựng được nhưng không có tính lan truyền. Tính hợp tác trong chế biến xuất khẩu chưa cao, nhất là trong việc tìm kiếm thị trường đầu ra và nguyên liệu. Trình độ dân trí thấp, điều kiện kinh tế xã hội còn yếu kém. Tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng so với tiềm năng, so với đòi hỏi thì sự phát triển còn thấp, nhất là trong nuôi tôm và chế biến xuất khẩu ở các doanh nghiệp Nhà nước. I.2 - Nhu cầu vốn đầu tư trong những năm qua. Trong những năm gần đây (2000, 2001, 2002) ngành Thủy sản Nghệ An nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ để cải tiến sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm mang kim ngạch xuất khẩu lớn về cho tỉnh nhà. Chính vì vậy nhu cầu đầu tư ngày một tăng, đầu tư cụ thể vào các công trình theo số liệu các bảng sau : (Các số liệu thu được tư Sở kế hoạch đầu tư Nghệ An) Nhu cầu vốn năm 2001 cho ngành thủy sản nghệ an ĐV : Triệu đồng TT Tên công trình Tổng số Trong đó Vốn NS Vốn khác Tổng cộng 126.249 57,949 68,3 1 Cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá 16.000 16.000 0 2 Nuôi trồng thủy sản 45.000 21.000 24.000 3 Xây dựng trại SX giống 11.395 8.095 3.300 4 Trạm kiểm dịch 200 200 5 Chế biến xuất khẩu 18.000 18.000 6 Khai thác 23.000 23.000 7 Vốn hỗ trợ 7.304 7.304 8 Kinh phí đào tạo 300 300 9 Vốn sự nghiệp Thủy sản 3.650 3.650 10 Vốn lưu động 1.000 1.000 11 Nhà làm việc 400 400 Nhu cầu vốn năm 2002 cho ngành thủy sản nghệ an ĐV : Triệu đồng TT Tên công trình Tổng số Trong đó Vốn NS Vốn khác Tổng cộng 155.765 79.889 75.876 1 Cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá 19.000 19.000 2 Nuôi trồng thủy sản 48.735 23.000 25.735 3 Xây dựng trại giống 16.441 12.152 4.289 4 Trạm kiểm dịch 200 200 5 Chế biến xuất khẩu 27.000 4.500 22.500 6 Khai thác 28.259 6.307 21.952 7 Vốn hỗ trợ 6.130 6.130 8 Kinh phí đầo tạo 5.000 4.000 1.000 9 Vốn sự nghiệp Thủy sản 3.100 3.100 10 Vốn lưu động 1.600 1.200 400 11 Nhà làm việc 300 300 Nhu cầu vốn năm 2003 cho ngành thủy sản nghệ an ĐV : Triệu đồng TT Tên công trình Tổng số Trong đó Vốn NS Vốn khác Tổng cộng 172.285 78.523 93.762 1 Cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá 17.352 15000 2.532 2 Nuôi trồng thủy sản 52.471 22.000 30.471 3 Xây dựng trại giống 19.544 14.300 5.244 4 Trạm kiểm dịch 5 Chế biến xuất khẩu 32.354 8.466 23.888 6 Khai thác 34.912 5.245 29.667 7 Vốn hỗ trợ 7.500 7.500 8 Kinh phí đầo tạo 3.000 2.500 500 9 Vốn sự nghiệp Thủy sản 2000 2000 10 Vốn lưu động 2.400 940 11 Nhà làm việc 572 572 II - Thực trạng huy động vốn đầu tư để phát triển nuôi trồng thủy sản Nghệ An. II.1 - Mức độ huy động vốn trong những năm qua. II.1.1 - Vốn huy động thông qua hệ thống Ngân hàng. Nhìn chung hình thức này có chiều hướng phát triển một cách mạnh mẽ và gặt được nhiều kết quả trong những năm từ 2000 - 2002 tăng lên một cách đáng khích lệ. Mặt khác nhờ tăng cường huy động các nguồn vốn trung và dài hạn cơ cấu nguồn vốn đã thay đổi một cách rõ rệt nhất. Nguồn vốn tiền gửi kỳ hạn (tiết kiệm có kỳ hạn, trái phiếu NHTM, kỳ phiếu) chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn vốn huy động. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, xây dựng cơ bản được nâng dần lên. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Nông thôn ngày càng là địa chỉ tin cật của khách hàng gửi tiền và vì vậy khách hàng đến gửi tiền ngày càng đông. II.1.2 - Huy động vốn tư nước ngoài Nhà nước có chính sách mở rộng quan hệ bang giao với các nước khác về lĩnh vực kinh tế trong đó có quan điểm mở rộng chính sách đầu tư. Chính vì vật mà ngày càng đông các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam, số tiền vốn ở nguồn này đổ vào Nghệ An tăng qua từng năm. Đặc biệt là hiệ có các việt kiều đang có xu hướng đàu tư tiền vào công trình và đầu tư tái sản xuất, có hướng trở lại địa phương sinh sống. II.1.3 - Huy động vốn dân tự đóng góp Vùng đồng bằng Nghệ An đất chật người đông, diện tích đất canh tác trong nông nghiệp nông thôn còn ít. Để tự giải quyết việc làm nhiều người dân đã tự bỏ vốn đầu tư thâm canh sản xuất, tạo ra ngành nghề mới. Trong đó nghề đánh bắt nuôi trồng Thủy sản được chú trọng. Mức độ huy động được qua các năm gần đây được thể hiện trong các bảng số liệu sau đây : (Số liệu lấy từ Sở Kế hoạch đầu tư Nghệ An) Mức huy động vốn đầu tư cho ngành Thủy Nghệ An Tỷ đồng TT Nguồn vốn Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Ngân sách nhà nước 12,78 16.834 11,48 2 Bộ, ngành TW trong tỉnh 21,37 26,44 29,56 3 Tín dụng ĐTPT Nhà nước 10,69 14,38 16,84 4 Đầu tư của các DNNN 33,74 36,71 40,22 5 ĐT trực tiếp nước ngoài 0 0 3,36 6 Dân cư và DN NQD 29,13 35,44 37,24 7 ĐT của dân 4,68 6,74 10,59 Tổng cộng : 112,39 136,44 149,29 Xét hiệu quả huy động : - Lượng vốn huy động được ngày càng tăng. Năm 2000, huy động được 112,39 triệu đồng, năm 2001 huy động được 136,44 triệu đồng, năm 2002 huy động được 149,29 triệu đồng. - Tỷ lệ vốn huy động được so với nhu cầu cần đầu tư là : Lượng vốn huy động được Hiệu quả đầu huy động VĐT : = (H) Lượng vốn cần thiết phải đầu tư 112,39 Hiệu quả đầu huy động VĐT : = = 89% (2000) 126,249 136,44 Hiệu quả đầu huy động VĐT : = = 87% (2001) 155,765 149,29 Hiệu quả đầu huy động VĐT : = = 86,7% (2002) 172,285 II.2 - Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của công ty Thủy sản Nghệ An Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh , mỗi đơn vị đều phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Tuy nhiên có vốn nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả mới là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi ngành kinh tế. Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn là việc cần thiết nhằm thể hiện chất lượng công tác sử dụng vốn, đồng thời đánh giá hiệu quả của nó để có các biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mà hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế – chính trị – xã hội, phong tục tập quán, tính mùa vụ… nên hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không nằm ngoài sự ảnh hưởng của các nhân tố đó. Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn của ngành lần lượt xem xét tình hình sử dụng và hiệu quả của từng loại vốn sản xuất kinh doanh . II.2.1 - Hiệu quả sử dụng vốn cố định Là tập thể các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh nên vốn cố định của ngành chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Việc sử dụng vốn cố định có hiệu quả hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Từ những năm mới thành lập, các DN trực thuộc ngành đã chủ động đầu tư mua sắm một số tài sản cố định phục vụ cho việc mở rộng kinh doanh (tàu đánh cá, công nghệ máy móc chế biến, xe vận chuyển, xây dựng kho tàng, trụ sở…) Cụ thể năm tại thời điểm 31/12/2001 nguyên giá tài sản cố định là 228.352.206.400 đồng trong đó của nhà cửa vật kiến trúc là 83.636.852.800 đồng, dụng cụ sản xuất là 121.115.875.600 đồng. Thiết bị dụng cụ quản lý là 23.599.472.000 đồng. Sang năm 2002 hoạt động đầu tư , mua sắm mới cũng vẫn được tiến hành. Tổng tài sản cố định đến ngày 31/12/2002 là 241.087.691.000 đồng tăng lên 34.235.484.600 đồng chủ yếu là do mua sắm mới thiết bị dụng cụ quản lý và nhà cửa vật kiến trúc. Tuy nhiên việc sử dụng vốn có hiệu quả được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng vốn cố định Đơn vị : Triệu đồng chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2001/2002 2001 2002 +/- % 1.Vốn cố định bình quân  172.500 299.100 126.600 73,39 2. Doanh thu 745.750 831.100 85.350 11,4 3. Lợi nhuận 5.275 7.965 2.690 27,5 4. Hiệu suất 4,3 2,8 -1,53 -34,8 5. Hiệu quả 0,03 0,04 0,01 0,3 Doanh thu Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh tạo được bao nhiêu đồng doanh thu. Năm 2001 cứ một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra 4,3 triệu đồng doanh thu. Đến năm 2002 một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh tạo ra 2,8 triệu đồng doanh thu như vậy là giảm 34,8% so với năm 2001. Như vậy ngành đầu tư tài sản cố định vào sản xuất kinh doanh đã không đem lại kết quả như mong muốn. Sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để xem xét ảnh hưởng của các nhân tố tới sự thay đổi hiệu suất vốn cố định . Năm 2002 so với năm 2001 mức ảnh hưởng của doanh thu tới hiệu suất là: 831.100 745.750 D2002/2001= - = 0,5 triệu đồng 172.500 172.500 Mức ảnh hưởng của vốn cố định : 831.100 831.100 D2002/2001 (DT)= - - = - 2,03 triệu đồng 299.100 172.500 Do đó hiệu suất sử dụng vốn cố định năm 2002 so với năm 2001 là: 0,5 + (- 2,03 ) = -1,53 triệu đồng Như vậy do doanh thu tăng 85.350 triệu đồng (11,4 %) làm hiệu suất tăng 0,5 triệu đồng và vốn cố định tăng 126.600 triệu đồng (73,39%) làm hiệu suất giảm 2,03 triệu đồng. Bởi vậy hiệu suất sử dụng vốn cố định năm 2002 so với năm 2001 giảm 1,53 triệu đồng tức là giảm 34,8%. * Hiệu quả sử dụng vốn cố định Do tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn cố định cho sản xuất kinh doanh nên trong thời gian qua tình hình sử dụng vốn của ngành có nhiều khả quan. Cụ thể năm 2002 có cao hơn năm 2001 là 25 triệu đồng tức là tăng 0,3 %. Từ công thức Lợi nhuận Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Vốn cố định bình quân Sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để xem xét mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới hiệu quả sử dụng vốn cố định . Năm 2001 so với năm 2000 mức độ ảnh hưởng của lợi nhuận tới hiệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12111.DOC
Tài liệu liên quan