Doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ từ 20 - 25% trong tổng nhu cầu vay vốn trung dài hạn. Trong 3 năm 1995, 1996, 1997 tỷ lệ này hầu như không thay đổi (chỉ xấp xỉ trên dưới 20%). Nhưng đến năm 1998 tỷ lệ này tăng khá nhanh (từ 21,8% năm 1997 lên 25,2% năm 1998). Đối chiếu với tổng nguồn vốn mà Ngân hàng có thể đáp ứng cho nhu cầu vay vốn trung dài hạn ta thấy doanh số cho vay này cũng rất khiêm tốn so với khả năng cho vay của Ngân hàng. Năm 1995 Ngân hàng có 205 tỷ VND có thể sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn nhưng doanh số cho vay thực tế chỉ là 56 tỷ VND (bằng 27%). Năm 1998 Ngân hàng cũng chỉ mới sử dụng hết 36,3% nguồn vốn dành để cho vay trung dài hạn. Điều này chứng tỏ Ngân hàng rất thận trọng trong việc lựa chọn dự án đầu tư, sàng lọc khách hàng. Sở dĩ doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn nhỏ bé so với nhu cầu của khách hàng cũng như với tiềm lực của Ngân hàng là do sự tác động của một loạt các nhân tố từ phía doanh nghiệp, phía Ngân hàng cũng như từ phía môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp luật.
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng thẩm định và phân tích rủi ro tại Ngân hàng công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân tích nội dung tài chính và rủi ro của dự án trên cơ sở phương pháp hiện giá các dòng tiền ( Present Value ) hay còn gọi là phương pháp hiện tại hoá (Actualisation Method ). Phương pháp này có độ chính xác cao so với phương pháp thông thường ( Conventional Method ), nhưng lại đòi hỏi phức tạp hơn về phương pháp tính toán. Do đó, vấn đề đặt ra là phải xây dựng được các phần mềm chuyên dùng thích hợp với bản chất kinh tế đòi hỏi của việc phân tích...Để đáp ứng mục tiêu này, trong các phần mềm phổ thông của các hãng máy tính lớn trên thế giới đã đưa vào những công cụ căn bản như “Các hàm tài chính “ trong các bảng tính điện tử tiện dụng như Microsoft EXCEL hay trong LOTUS .v.v. Để tính các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản như PV, NPV, IRR... Tuy nhiên mức độ còn đơn giản và khả năng kết nối dữ liệu, khả năng hoàn thành một hệ thống các bước tính toán để cho ra kết quả cuối cùng còn chưa cao. Thời gian gần đây, Một số Viện Đại học và các NHTM nước ngoài, đã nghiên cứu và cho ra đời một số phần mềm chuyên dụng để quản trị và phân tích dự án có hiệu quả khá cao như Microsoft Project, Project Analysis... đang được các nhà đầu tư và xây dựng áp dụng rộng rãi.
3.3 Vấn đề con người trong công tác phân tích rủi ro dự án.
Xét cho cùng, việc phân tích rủi ro dự án trên cơ sở các thông tin đầu vào bằng các công cụ tin học hiện đại cũng chỉ là một cách thức cụ thể hoá những ý tưởng của các chuyên gia thẩm định mà thôi. Các kết luận quan trọng rút ra từ các tính toán đó đương nhiên phải do các chuyên gia tự quyết định. Như vậy, con người là nhân tố quan trọng nhất trong quá trình thẩm định và phân tích rủi ro dự án. Nhận thức được điều này, các NHTM nước ngoài rất quan tâm đến việc đào tạo các chuyên gia thẩm định dự án có trình độ cao, tức là những người có kiến thức rộng về nhiều mặt như: thị trường, giá cả, trình độ tổng quan về kinh tế - kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ, nhân văn... Đồng thời có khả năng khai thác , sử dụng tốt các công cụ tin học được trang bị. Muốn vậy, các NHTM rất chú ý trong khâu tuyển dụng cán bộ. Hơn nữa, đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn cho cán bộ thẩm định của ngân hàng, thông qua các khoá đào tạo do các Giảng viên đại học, các chuyên gia có kinh nghiệm trong công tác thẩm định thực hiện.
III. Một số phương pháp phân tích rủi ro trong thẩm định tài chính DAĐT.
1. Phương pháp phân tích độ nhạy (Sensitivity Analysis).
Hiệu quả của dự án phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố được dự báo trong khi lập dự án. Đã là dự báo thì có thể bị sai lệch nhất là những biến động xảy ra trong tương lai xa. Vì vậy thẩm định dự án của ngân hàng cần phải đánh gia được sự ổn định của các kết quả tính toán hiệu quả của dự án, nói khác đi là cần phải phân tích độ nhạy của dự án. Trong phân tích độ nhạy, kinh nghiệm của các chuyên gia thẩm định là hết sức quan trọng bởi vì chỉ có các chuyên gia với kinh nghiệm tích luỹ được của mình mới dự kiến được khả năng nhân tố nào có thể biến đổi và biến dổi với mức độ bao nhiêu so với giá trị ban đầu.
Trong phân tích độ nhạy người ta dự kiến một số tình huống thay đổi, những rủi ro trong tương lai làm cho giá nguyên vật liệu tăng, giá thuê nhân công tăng, sản lượng giảm, doanh thu giảm...rồi từ đó tính lại các chỉ tiêu hiệu quả như: T, NPV, IRR,...nếu các chỉ tiêu đó sau khi tính lại vẫn đạt yêu cầu thì dự án được coi là ổn định và được chấp thuận. Ngược lại dự án bị coi là không ổn định ( độ nhạy cảm cao ) buộc phải xem xét điều chỉnh tính toán lại mới được đầu tư.
Để phân tích độ nhạy của dự án, thông thường người ta thực hiện qua 4 bước sau:
- Bước 1: Xác định xem những nhân tố nào có khả năng biến động theo chiều hướng xấu ( Để xác định được xu hướng này, cần căn cứ vào các dự báo, các số liệu thống kê và đặc biệt là kinh nghiệm thực tiễn của các chuyên gia là cực kỳ quan trọng ).
- Bước 2 : Trên cơ sở các nhân tố đã lựa chọn, dự đoán biên độ biến động có thể xảy ra ( Minimum và Maximum là bao nhiêu so với giá trị chuẩn ban đầu ).
- Bước 3 : Chọn một phương pháp đánh giá độ nhạy nào đó ( Như phân tích độ nhạy theo chỉ tiêu NPV hoặc IRR chẳng hạn ).
- Bước 4 : Tiến hành tính toán lại NPV hoặc IRR theo các biến số mới, trên cơ sở cho các biến số tăng giảm cùng một tỷ lệ % nào đó ( Chú ý là khi ta dùng các phương pháp khác nhau để phân tích độ nhạy, các kết quả đưa ra cũng có sự khác biệt về mặt số học. Tuy nhiên, các kết luận về mặt kinh tế thì vẫn không có gì thay đổi ).
Độ nhạy của một nhân tố tác động đến dự án có thể tính theo công thức sau đây:
D Fi
E = ---------------
D Xi
Trong đó :
E là hệ số độ nhạy
DFi là mức biến động của chỉ tiêu đánh giá
DXi là mưc biến động của nhân tố ảnh hưởng.
Ví dụ:
Từ một DAĐT, qua phân tích độ nhạy có kết quả thể hiện ở bảng sau:
Các yếu tố thay đổi
IRR(%)
Tỷ lệ % thay đổi của DIRR
Chỉ số độ nhạy
Trường hợp cơ sở
6,00
0
0
Vốn đầu tư tăng 10%
5,85
2,5
0,25
Chi phí khả biến tăng 10%
4,00
33,0
3,30
Giá bán SP giảm 10%
5,50
8,33
0,83
Thời gian thu lợi chậm 10%
5,2
13,33
1,33
Như vậy độ nhạy cao nhất ở nhân tố chi phí khả biến và thời gian thu lợi nhuận. Do đó, cần đặc biệt quan tâm đến 2 yếu tố này. Phải tìm mọi biện pháp giảm thấp (tiết kiệm) các chi phí khả biến và đảm bảo việc tiêu thụ sản phẩm đúng tiến độ đẻ có lợi nhuận như dự kiến.
Kết quả của việc phân tích độ nhạy sẽ cho ta biết nhân tố nào trong dự án cần được nghiên cứu kỹ, cần thu thập đủ thông tin để phòng ngừa và quản trị rủi ro xảy ra trong quá trình khai thác dự án.
Phân tích độ nhạy là một kỹ thuật phân tích rủi ro dự án tương đối giản đơn. Tuy nhiên, nhược điểm chính của kỹ thuật này là chưa tính đến xác suất có thể xảy ra của các biến rủi ro và nó cũng không thể đánh giá được cùng một lúc sự tác động của tất cả các biến rủi ro đến dự án.
2. Phương pháp phân tích tình huống.
Mặc dù phân tích độ nhạy là kỹ thuật phân tích rủi ro khá phổ biến, tuy nhiên nó cũng có những hạn chế như đã chỉ ra ở trên. Do đó, trong thẩm định và phân tích rủi ro dự án người ta còn sử dụng phương pháp phân tích tình huống. Phân tích tình huống là kỹ thuật phân tích rủi ro kết hợp cả hai nhân tố là tính đến xác suất xảy ra của các biến rủi ro và sự tác động của chính biến đó đối với dự án. Trong sự phân tích này đòi hỏi phải xem xét cả một tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu từ đó so sánh với trường hợp cơ sở. Tức là ta tính toán lại NPV hoặc IRR trong điều kiện tốt và xấu sau đó so sánh với các giá trị làm chuẩn (giá trị cơ sở).
Ví dụ:
Một dự án sau khi tiến hành dự kiến các tình huống có thể xảy ra có kết quả theo như bảng sau:
Tình huống
Xác suất (Pi)
Số lượng bán
Giá bán
NPV
(1000USD)
Xấu nhất
0,25
150000
15.000
-5761
Cơ sở
0,50
200000
20000
6996
Tốt nhất
0,25
250000
25000
23397
Chúng ta tính NPV mong đợi như sau:
3
NPVmong đợi = ồ Pi ( NPVi )
i = 1
Thay số liệu từ bảng trên vào ta có:
= (0,25* - 5761)+(0,5*6996)+(0,25*23397) = 7907
s NPV = ệ ồ Pi (NPVi - NPV mong đợi )2
Thay số vào ta có kết quả là s NPV = 10349
sNPV 10349
CV NPV = ---------------------- = ------------------------ = 1,3
NPV mong đợi 7907
Hệ số biến thiên của dự án được so sánh với hệ số biến thiên của các dự án trung bình của doanh nghiệp hay NHTM đã tiến hành thẩm định từ đó xác định được mức độ rủi ro tương đối của dự án đang xem xét. Chẳng hạn các dự án được lấy ra so sánh có hệ số biến thiên là 1,1. Như vậy, người thẩm định có thể kết luận rằng dự án đang xem xét có mức độ rủi ro cao hơn các dự án so sánh.
Tuy nhiên, phân tích tình huống vẫn tồn tại những nhược điểm như không thể xác định được tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau của các yếu tố và chỉ phân tích được mộtvài khả năng ( biến cố ) rời rạc, trong khi thực tế có thể có vô số khả năng kết hợp có thể xảy ra giưã các biến của dự án.
3. Phương pháp phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE CARLO.
Khắc phục nhược điểm của các phương pháp phân tích rủi ro nói trên, người ta áp dụng phương pháp phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE CARLO. Tức là phân tích rủi ro dự án dưới sự tác động đồng thời của tất cả các nhân tố gây ảnh hưởng, có tính đến xác suất xảy ra và mức độ biến thiên của từng nhân tố tác động đó.
Khác với phân tích độ nhạy, phân tích rủi ro theo mô phỏng MONTE CARLO xem xét đồng thời sự kết hợp của nhiều yếu tố tác động. Khác với phân tích tình huống, phân tích rủi ro MONTE CARLO tính đến sự tác động qua lại ( tương hỗ ) giữa các nhân tố đó. Chính vì những khả năng nói trên mà phân tích MONTE CARLO có một phạm vi ứng dụng hết sức rộng rãi.
Phân tích rủi ro mô phỏng MONTE CARLO có thể trình bày theo sơ đồ sau đây:
Nội dung các bước như sau:
- Bước 1: Lựa chọn các biến ( nhân tố ) rủi ro đưa vào phân tích.
Bước này căn cứ vào kinh nghiệm của các chuyên gia để dự đoán các biến (Các nhân tố ) có thể xảy ra rủi ro từ đó đưa vào tính toán sự tác động của chúng đến các chỉ tiêu tài chính dự án như NPV, IRR...( có thể chọn một số hoặc thậm chí tất cả các nhân tố đầu vào, đầu ra có thể của dự án ).
- Bước 2: Lựa chọn khoảng biến động của các biến rủi ro.
Trong bước này, các chuyên gia có thể dự kiến và đưa vào mức Minimum và Maximum của khả năng biến động của các biến rủi ro ( còn gọi là biên độ của giá trị rủi ro ).
- Bước 3: Phân tích độ nhạy và phân tích mô phỏng MONTE CARLO bằng phần mềm chuyên dùng.
Sau khi có đủ các dữ kiện đầu vào, sử dụng phần mềm chuyên dùng để xử lý trên máy tính, sau đó in kết quả ra dưới dạng các báo cáo và các đồ thị.
- Bước 4: Phân tích kết quả tính toán và đưa ra kết luận của chính người phân tích rủi ro dự án.
Như vậy, để phân tích rủi ro theo phương pháp này cần có các điều kiện căn bản là người phân tích phải được trang bị máy tính, phần mềm chuyên dụng và đặc biệt là phải được đào tạo tốt về kỹ năng sử dụng máy đồng thời, phải có những kinh nghiệm nhất định trong công tác thẩm định mới có thể có được nhưng kết luận đúng đắn và có giá trị.
Hiện nay, một số Trường đại học và Viện nghiên cứu trên thế giới đã áp dụng mô phỏng MONTE CARLO để đưa ra một số phần mềm chuyên dùng cho phân tích rủi ro như phần mềm Risk Master của Đại học Harvard University; Phần mềm Gestion des Risque - version 1.2 của Đại học UQAM (Université de Québec à Montréal) v.v. Đó là những phần mềm rất hiệu quả trong phân tích rủi ro dự án. Tuy nhiên, một nhược điểm đáng nói, đặc biệt trong điều kiện Việt nam, là các phần mềm nói trên đều được viết bằng tiếng Anh... Do đó, các cán bộ thẩm định của NHTM Việt nam muốn sử dụng có hiệu quả trong công việc của mình đòi hỏi phải thành thạo tiếng ngoại ngữ. Đây cũng chính là xuất phát điểm của đòi hỏi phải nghiên cứu và cho ra đời một phần mềm kiểu mô phỏng MONTE CARLO phân tích rủi ro dự án bằng tiếng Việt, chạy trên môi trường phổ thông là Microsoft EXCEL. Từ đó có thể áp dụng rộng rãi trong tất cả các NHTM Việt nam khi tiến hành thẩm định và tài trợ dự án.
chương ii:
Công tác thẩm định và phân tích rủi ro DAĐT tại nhct đống đa
1. Giới thiệu khái quát về NHCT Đống đa.
1 . Quá trình hình thành và phát triển
Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa là một ngân hàng cấp quận, trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở ở đường Tây Sơn, quận Đống Đa thành phố Hà Nội. Đống Đa là một quận có địa bàn rộng lớn với tổng số 26 phường và dân số gần 40 vạn người, là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp chủ chốt của Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó còn có rất nhiều công ty TNHH, các xí nghiệp tư nhân, các tổ sản xuất, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và các hộ công thương. Trên khu vực quận cũng có nhiều điểm thương mại lớn nên khách hàng của ngân hàng công thương Đống Đa rất phong phú, đa dạng. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động huy động vốn cũng như sử dụng vốn của ngân hàng.
Từ một đơn vị trực thuộc ngân hàng Nhà nước hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển thành chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (từ ngày 1/7/1988) hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, ban đầu chi nhánh đã gặp không ít khó khăn, trở ngại. Thoát ra từ cơ chế cũ, ngân hàng phải đương đầu với nền kinh tế thị trường hết sức sôi động và cạnh tranh nghiệt ngã với trên 60 ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cùng hoạt động trên địa bàn Hà Nội. Trong giai đoạn chuyển đổi này, kinh tế đất nước còn chưa ổn định, lạm phát còn ở mức cao, chế độ lương, tiền còn gắn trách nhiệm nặng nề với ngân hàng, hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn còn bỡ ngỡ chưa bắt nhịp được với nền kinh tế thị trường dẫn đến suy sụp, thậm chí phá sản. Về phía ngân hàng, cán bộ công nhân viên cũng còn chưa quen với công nghệ ngân hàng hiện đại, tác phong làm việc của thời bao cấp vẫn rất khó thay đổi. Tuy nhiên những khó khăn thử thách này đã không làm cho chi nhánh ngân hàng phải bó tay chùn bước. Bằng ý chí vươn lên từ nội lực của trên 340 cán bộ công nhân viên, có sự chỉ đạo chặt chẽ của ngân hàng CTVN, Ngân hàng Nhà nước thành phố, từng bước ngân hàng Công thương Đống Đa đã lập lại thế chủ động hoà nhập vào cơ chế thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, không những đứng vững mà ngày càng phát triển ổn định trong nền kinh tế thị trường.
Trong suốt chặng đường 10 năm thành lập và hoạt động, ngân hàng đã tiến hành mở rộng kinh doanh, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng tạo ra một bước tiến đáng kể về chất. Bước đầu đã đưa công nghệ tin học vào lĩnh vực kế toán, thanh toán. Công nghệ thanh toán hiện đại đã góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh.
Để kịp hoà nhập với nền kinh tế thị trường, đồng thời để đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, hiện đại hóa ngân hàng, công tác tổ chức, đào tạo cán bộ rất được ngân hàng chú trọng. Chi nhánh luôn quan tâm đổi mới, sắp xếp tổ chức, bố trí cán bộ phù hợp với những năng lực sở trường của mình và kiến thức đào tạo của từng cán bộ, với tư tưởng chỉ đạo là: “Vì công việc để bố trí lao động chứ không phải vì con người để sắp xếp cán bộ”. Đến nay, NHCT Đống đa đã có một đội ngũ cán bộ, nhân viên mạnh, có khả năng đáp ứng được đồi hỏi của kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Để mở rộng mạng lưới hoạt động, tạo cơ hội chiếm lĩnh thị trường, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, đi đôi với công tác cán bộ chi nhánh hết sức quan tâm tới việc mở thêm các quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch. Đây cũng là điều kiện để tạo cở sở giải quyết chương trình việc làm cho người lao động, góp phần tăng lợi nhuận và thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên.
Hiện nay chi ngân hàng Công thương Đống Đa có cơ cấu tổ chức như sau:
- Ban giám đốc gồm một giám đốc và 3 phó giám đốc (thời kỳ đông nhất có 1 phó giám đốc và 4 phó giám đốc).
- Phòng giao dịch gồm phòng giao dịch Kim Liên và phòng giao dịch Cát Linh.
- Phòng kinh doanh gồm 4 bộ phận
+ Kinh doanh tổng hợp
+ Tín dụng công nghiệp
+ tín dụng thương nghiệp
+ Tín dụng ngoài quốc doanh
- Phòng kế toán gồm 2 bộ phận
+ Bộ phận kế toán chung (kế toán chi tiêu, bù trừ)
+ Bộ phận kế toán tiết kiệm.
- Phòng nguồn vốn (gồm 14 quỹ tiết kiệm huy động rải rác trên địa bàn quận, trước đây có 20 quỹ tiết kiệm, đến nay 6 quỹ đã được tách cho Chi nhánh ngân hàng Công thương Thanh Xuân )
- Phòng thông tin điện toán
- Phòng kiểm soát
- Phòng tiền tệ
- Phòng kinh doanh đối ngoại
- Phòng hành chính
Giữa các bộ phận luôn có sự phối hợp chặt chẽ, cùng hoạt động thống nhất dưới sự lãnh đạo sát sao của ban giám đốc chi nhánh, theo định hướng chung của Ngân hàng Công thương Việt Nam để đạt tới hiệu quả công việc cao nhất. Kết quả là trong suốt mười năm thành lập đến nay, chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Chủ tịch nước 2 lần tặng huân chương Lao động: Năm 1995 huân chương lao động hạng ba, năm 1998 huân chương lao động hạng nhì. Vinh dự to lớn này là sự cổ vũ động viên và ghi nhận của Đảng và Nhà nước về kết quả hoạt động của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong sự nghiệp đổi mới hoạt động Ngân hàng, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới kinh tế đất nước.
2. Hoạt động tín dụng trung dài hạn và tài trợ DAĐT của NHCT Đống đa.
ý thức sâu sắc về vai trò quan trọng của vốn đầu tư trung và dài hạn đối với sự phát triển của nền kinh tế, xuất phát từ phương châm “Đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp chính là đầu tư cho tương lai của Ngân hàng”, trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có những cố gắng để chấn chỉnh, đổi mới và chú trọng tới hoạt động tín dụng trung và dài hạn, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế trên địa bàn quận nói riêng và thủ đô nói chung.
Tình hình tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa thể hiện trên các mặt cụ thể sau:
2.1- Doanh số cho vay trung dài hạn:
Doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ từ 20 - 25% trong tổng nhu cầu vay vốn trung dài hạn. Trong 3 năm 1995, 1996, 1997 tỷ lệ này hầu như không thay đổi (chỉ xấp xỉ trên dưới 20%). Nhưng đến năm 1998 tỷ lệ này tăng khá nhanh (từ 21,8% năm 1997 lên 25,2% năm 1998). Đối chiếu với tổng nguồn vốn mà Ngân hàng có thể đáp ứng cho nhu cầu vay vốn trung dài hạn ta thấy doanh số cho vay này cũng rất khiêm tốn so với khả năng cho vay của Ngân hàng. Năm 1995 Ngân hàng có 205 tỷ VND có thể sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn nhưng doanh số cho vay thực tế chỉ là 56 tỷ VND (bằng 27%). Năm 1998 Ngân hàng cũng chỉ mới sử dụng hết 36,3% nguồn vốn dành để cho vay trung dài hạn. Điều này chứng tỏ Ngân hàng rất thận trọng trong việc lựa chọn dự án đầu tư, sàng lọc khách hàng. Sở dĩ doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn nhỏ bé so với nhu cầu của khách hàng cũng như với tiềm lực của Ngân hàng là do sự tác động của một loạt các nhân tố từ phía doanh nghiệp, phía Ngân hàng cũng như từ phía môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp luật...
2.2- Dư nợ tín dụng trung dài hạn:
Nhìn chung từ năm 1995 đến cuối năm 1998 dư nợ tín dụng trung dài hạn của chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa có xu hướng tăng lên. Nếu năm 1995 dư nợ trung dài hạn chỉ đạt 62 tỷ VND thì đến năm 1998 mức dư nợ tín dụng trung dài hạn đã là 125 tỷ VND (gấp 2,01 lần so với năm 1995). Có thể thấy rằng trong năm 1996 hoạt động tín dụng trung dài hạn bị chững lại, mức dư nợ trung dài hạn giảm từ 62 tỷ đồng xuống 58 tỷ đồng. Sở dĩ có tình trạng này là do trong năm 1996 tình hình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp trên địa bàn quận Đống Đa gặp nhiều khó khăn. Nhiều doanh nghiệp trước đây đạt hiệu quả kinh doanh cao thì sản phẩm hàng hoá trong năm 1996 lại tiêu thụ chậm hoặc không tiêu thụ được. Trong kinh doanh dịch vụ thương mại lại càng khó khăn hơn. Một số doanh nghiệp đang làm ăn kinh doanh có lãi thì sang năm 1996 lại thua lỗ. Đặc biệt những doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, khách sạn, du lịch là các doanh nghiệp có nhiều thế mạnh trong mấy năm trước thì sang năm 1996 cũng trở thành nạn nhân của thị trường. Trong năm, nhiều khách nợ đã cố ý trây ì, bằng những thủ đoạn tinh vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt vốn của Ngân hàng. Một số con nợ bỏ trốn, gây thiệt hại cho Ngân hàng. Ngân hàng buộc phải chấm dứt đầu tư vốn đối với một số khách hàng trước đây vay vốn Ngân hàng nhưng nay kinh doanh thua lỗ, hoặc có biểu hiện thiếu sòng phẳng trong trong quan hệ tín dụng, hồ sơ vay vốn chưa đủ cơ sở pháp lý để thế chấp cho khoản nợ Ngân hàng... Tình trạng chung này khiến nhu cầu vay vốn trung dài hạn của doanh nghiệp trong năm 1996 giảm từ 56 tỷ xuống còn 55 tỷ đồng và dư nợ tín dụng trung dài hạn cũng giảm từ 62 tỷ xuống chỉ còn 58 tỷ đồng (bằng 93% so với năm 1995).
Trải qua một năm đầy sóng gió, từ năm 1997 đến nay hoạt động tín dụng trung dài hạn đã có những tiến bộ đáng kể. Mặc dù trong năm 1997, nền kinh tế cả nước đều chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, Ngân hàng Công thương Đống Đa còn gặp rất nhiều khó khăn do xu hướng đi xuống chung của nền kinh tế nhưng dư nợ tín dụng trung dài hạn đã tăng từ 58 lên 75 tỷ đồng (tăng 29%) và đến năm 1998 thì mức dư nợ này đã tăng lên tới 123 tỷ đồng, tức là tăng 64% so với năm 1997.
Trong năm 1997 mức dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng từ 29% so với năm 1996 trong khi tổng dư nợ chỉ tăng 9%.Tỷ trọng tín dụng trung dài hạn trong tổng dư nợ cũng tăng từ 14,2% năm 1997 lên 15,2% năm 1998. Điều này chứng tỏ so với tín dụng ngắn hạn thì tín dụng trung dài hạn ở Ngân hàng Công thương Đống Đa đang có xu hướng được mở rộng, thể hiện sự quan tâm ngày càng nhiều tới công tác tín dụng trung dài hạn của chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Bảng 1: Tình hình dư nợ tín dụng trung dài hạn tại NHCT Đống đa
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
96 so với 95
97 so với 96
98 so với 97
1.Dư nợ tín dụng trung dài hạn
62
58
75
123
93.5%
129.3%
164%
2.Tổng dư nợ
433
48
525
810
110.8%
109.3%
154.3%
3.Tỷ trọng trung dài hạn trên tổng dư nợ.
14.3%
12.08%
14.3%
15.2%
84.5%
118.4%
106.3%
( Nguồn: Phòng Kinh doanh tổng hợp NHCT Đống đa )
2.3- Cơ cấu cho vay trung dài hạn
* Theo thành phần kinh tế
Trong tổng dư nợ cho vay trung dài hạn thì cho vay khu vực kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn và khá ổn định. Năm 1995 tỷ trọng này là 74,2%, năm 1998 tỷ trọng này đạt 78,8%. Sở dĩ có sự chênh lệch khá lớn về dư nợ tín dụng trung dài hạn giữa hai khối kinh tế này là do:
- Trong những năm đầu khi nền kinh tế đang chuyển mình sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích thành lập đã bung ra với số lượng lớn. Do có tính năng động, nhỏ gọn nên khu vực kinh tế này nhanh chóng thích ứng với cơ chế thị trường và đã thu hút được 1 lượng lớn vốn đầu tư khá lớn của các Ngân hàng Thương mại nói chung. Đã có thời gian Ngân hàng Công thương Đống Đa tập trung ưu tiên cho vay khu vực kinh tế này với số lượng lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ (ví dụ năm 1994 dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tới 52% trên tổng dư nợ). Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, bên cạnh những mặt tích cực, những ưu thế và đóng góp mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đem lại cho nền kinh tế, những mặt tiêu cực của khu vực này cũng được bộc lộ và những rủi ro nó mang lại cho Ngân hàng cũng ngày càng lớn. Đây là một thị trường đầy phức tạp, luôn tiềm ẩn những vấn đề bức xúc, lừa đảo, kinh doanh bất chính... Mặt khác, sự năng động của một số đơn vị KTNQD thường đồng nghĩa với sự táo bạo, xem thường pháp luật, sử dụng vốn vay sai mục đích nên dễ đưa Ngân hàng trở thành nạn nhân của những món nợ khó đòi. Nhanh chóng nhận biết được những nguy cơ rủi ro của khu vực kinh tế này, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã kịp thời có các biện pháp để thu hồi vốn và từ năm 1995 đến nay, Ngân hàng Công thương Đống Đa chỉ duy trì tỷ trọng cho vay vốn đối với khu vực này ở mức thấp khoảng 20 - 30% trong tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn.
Bảng 2: Cơ cấu cho vay trung dài hạn theo thành phần kinh tế
Năm
19
95
19
96
19
97
19
98
Chỉ tiêu
Tổng
%
Tổng
%
Tổng
%
Tổng
%
Tổng dư nợ trung dài hạn
Trong đó:
62
100
58
100
75
100
123
100
Kinh tế QD
46
74.2
33
56.9
52
69.3
97
78.8
Kinh tế NQD
16
25.8
25
43.1
23
30.7
26
21.2
(Nguồn: Phòng kinh doanh tổng hợp Ngân hàng Công thương Đống Đa)
- Nhìn chung, các doanh nghiệp Nhà nước có ưu thế hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn tín dụng (về quy mô vốn, trình độ lập dự án đầu tư, kiến thức pháp luật...). Hơn nữa từ sau nghị quyết số 49 do Chính phủ ban hành ngày 6/11/1997 qui định các doanh nghiệp nhà nước vay vốn ngân hàng không phải thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh thì khu vực kinh tế quốc doanh càng có thuận lợi hơn trong việc vay vốn ngân hàng.
Tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ cho vay tín dụng trung dài hạn, mặc dù không có sự tăng lên nhiều về tỷ trọng qua các năm nhưng mức dư nợ cho vay trung dài hạn đối với khu vực KTNQD lại có xu hướng tăng lên về số tuyệt đối. Dư nợ tín dụng trung dài hạn đối với khu vực kinh tế này đã tăng lên từ 16 tỷ đồng năm 1995 lên 26 tỷ đồng năm 1998 (tăng 62,5%). Điều này chứng tỏ Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thực hiện được chính sách cho vay bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, Ngân hàng sẵn sàng cho vay tất cả những dự án đáp ứng được tiêu chuẩn tín dụng mà Ngân hàng đề ra, không phân biệt dự án đó thuộc thành phần kinh tế nào.
2.4- Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn luôn được coi là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng. Nhìn chung tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa ở mức tương đối thấp (0,04% năm 1995, 0186% năm 1996, 1,6% năm 1997, 3,7% năm 1998). Hơn nữa theo đánh giá của Ngân hàng thì hầu hết các khoản nợ quá hạn của Ngân hàng đều có khả năng thu hồi. Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 100% chiếm trên 80% tổng nợ quá hạn. Nếu so sánh tỷ lệ này với tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn của hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam (bảng 4) thì có thể khẳng định: Chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28205.doc