MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2
I. Cơ sở khoa học của chính sách nghiên cứu 2
1. Cơ sở lý luận 2
II. Kết quả và hiệu quả chính sách tiền tệ 4
1. Đối với năm 2005: 4
2. Đối với năm 2007: 7
3. Đối với năm 2008: 12
4. Đối với năm 2009: 16
5. Đối với năm 2010: 18
PHẦN III: KẾT LUẬN 20
23 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3447 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích chính sách tiền tệ của Việt Nam từ năm 2005 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu tín dụng bằng ngoại tệ sang cầu tín dụng bằng VNĐ (lưu ý là tốc độ tăng tín dụng bằng ngoại tệ năm 2004 cao hơn nhiều so với năm 2003 và cũng cao hơn tốc độ tăng tín dụng bằng VNĐ). Điều này phần nào phản ánh hiệu lực chính sách lãi suất của NHNN còn hạn chế, do thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện và thị trường vốn còn không ít méo mó.
Thêm vào đó, việc điều tiết cung - cầu về vốn và lãi suất của NHNN bị hạn chế do nhiều luồng vốn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, đặc biệt là luồng chu chuyển vốn của khu vực chính phủ. Một ví dụ là năm 2005 tiền gửi ngân sách tại NHNN tăng nhiều, qua đó đã rút một lượng tiền không nhỏ khỏi lưu thông, gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ (đến tháng 9/2005 NHNN bơm tiền qua các kênh tăng khoảng 9%, nhưng thực tế tiền cơ bản chỉ tăng 2,4%). Mặt khác, một lượng tiền gửi của Kho bạc nhà nước được gửi tại các NHTM đang phát huy khả năng tạo tiền mà NHNN khó có thể tính toán chính xác để có thể chủ động điều tiết tiền tệ theo mục tiêu đã định.
Một vấn đề nữa là NHNN cũng đã nhận thức rõ ràng hơn rằng việc sử dụng các biện pháp can thiệp để duy trì tỷ giá ổn định về lâu dài sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, NHNN dường như vẫn chưa có đủ sự tự chủ cần thiết để xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ đủ hiệu lực và một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Trên thực tế, NHNN đã thiên về mục tiêu ngắn hạn hơn là cân nhắc đầy đủ hơn đến các mục tiêu dài hạn. Điều này đang hạn chế khả năng điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trước những biến động kinh tế vĩ mô, nhất là trong bối cảnh lạm phát có khả năng còn đứng ở mức tương đối cao trong thời gian tới.
2. Đối với năm 2007:
Ngay từ đầu năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến chỉ đạo về nhiệm vụ ngân hàng năm 2007 là “Yêu cầu đặt ra là phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao ở mức 8,5%. Ngành Ngân hàng cần phải tranh thủ thời cơ, đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN, làm tốt hơn công tác tham mưu cho Chính phủ và triển khai điều hành tốt chính sách tiền tệ (CSTT) để đảm bảo ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát; vận hành các công cụ CSTT theo cơ chế thị trường; đồng thời, có những cảnh báo sớm về diễn biến thị trường để tránh gây đột biến, dẫn tới đỗ vỡ trên tổng thể”.
Các giải pháp điều hành CSTT
Thực hiện ý kiến chỉ đạo nêu trên, NHNN trong thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đánh giá và dự báo kịp thời chiều hướng biến động của kinh tế tiền tệ trong nước và quốc tế, trong năm 2007, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau:
Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát. Cụ thể:
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã hút được một lượng tương đối lớn vốn khả dụng dư thừa của các TCTD, đồng thời vẫn điều tiết kịp thời sự thiếu hụt vốn mang tính thời điểm của một số TCTD, đảm bảo duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất thị trường.
- Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín hiệu ổn định lãi suất thị trường. Đồng thời, trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, từ 01/03/2007, NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết khấu trong hạn mức phân bổ.
Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính.
- Ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như:
- Yêu cầu các TCTD tiếp tục thực hiện Công văn số 7318/NHNN-CSTT ngày 25/8/2006 về việc thực hiện một số biện pháp để kiểm soát việc cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức hạn chế và đảm bảo an toàn. Ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó có qui định khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD...;
- Ban hành Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/1/2007 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 quy định các TCTD không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trực thuộc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư, kinh doanh chứng khoán và trong thời hạn 1 năm kể từ ngày Quyết định 03 có hiệu lực, các TCTD phải điều chỉnh để đáp ứng các quy định trên.
- Đồng thời, bổ sung sửa đổi quy định về tín dụng, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của NHTM khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, hệ số rủi ro của các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán nhằm kinh doanh, mua bán chứng khoán được nâng lên mức 150% (theo quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN là 100%);
- Ban hành văn bản số 3224/NHNN-CSTT ngày 10/4/2007 quy định việc các TCTD báo cáo định kỳ về hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán, ủy thác đầu tư và chiết khấu giấy tờ có giá nhằm phục vụ việc giám sát thường xuyên hoạt động cho vay đối với nhu cầu vốn này và có các giải pháp xử lýý? kịp thời; ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn lộ thực hiện đối với các NHTM đã cho vay vượt mức khống chế tỷ lệ 3%, giảm dần cho đến thời điểm 31/12/2007 phải đảm bảo tỷ lệ 3%; tăng cường thanh tra, giám sát việc mở rộng quy mô và chất lượng tín dụng theo Chỉ thị này.
- Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
- Tổ chức họp với các NHTM và NHNN chi nhánh thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể về tiền tệ, tín dụng. NHNN đã chỉ đạo các NHTM tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với một số lĩnh vực có độ rủi ro cao như cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay kinh doanh bất động sản, cho vay bằng ngoại tệ, cho vay tiêu dùng.
- Tiến hành thanh tra tại các TCTD về hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố chứng khoán.
Những kết quả đạt được:
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau:
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%, cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực
+ Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn nhiều so với những năm trước đây, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
Những thách thức phải đối mặt:
Có thể nói, điều hành CSTT năm 2007 về cơ bản, đạt đuợc mục tiêu đặt ra, tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO nên việc điều hành CSTT đã phải đối mặt với nhiều thách thức làm cho việc thực hiện mục tiêu ban đầu còn có hạn chế nhất định.
Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều (Theo số liệu thống kê đến tháng 10/2007, doanh số phát sinh tiền gửi bằng VND của người không cư trú tại các NHTM thì có khoảng 13 tỷ USD của người không cư trú được chuyển cho người cư trú cho mục đích đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản và chi tiêu các nhu cầu tiêu dùng khác trong nước). Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế ( tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xẩy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát TPTTT, tín dụng, qua đó đã chưa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu đặt ra: TPTTT của Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là khó tránh khỏi khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều như năm nay. Muốn hạn chế gia tăng TPTTT, thì cần phải hạn chế sự gia tăng của dòng vốn này. Tuy nhiên, hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là vấn đề không đơn giản khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường tài chính từng bước tự do hóa. Vì vậy, việc hạn chế sự gia tăng nguồn vốn nước ngoài nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, mà đòi hỏi phải có chính sách vĩ mô đồng bộ để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả, giám sát chặt chẽ luồng vốn đầu tư gián tiếp, hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường chứng khoán,… nhằm hạn chế những tác động bất lợi của dòng vốn này.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng tín dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro: tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM cao hơn nhiều so với các năm từ năm 2001 - 2006, nhất là tín dụng ngoại tệ tăng hơn gấp hai lần, bắt đầu vượt ngưỡng an toàn (tỷ trọng giữa dư nợ cho vay bằng ngoại tệ với tổng tiền gửi bằng ngoại tệ đã vượt 90%); cơ cấu đầu tư tín dụng đa dạng hơn nhiều so với cơ cấu đầu tư của 5 năm trước đó, ngoài các lĩnh vực cho vay truyền thống thì lĩnh vực cho vay tiêu dùng đã phát triển nhanh hơn những năm trước. Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực này chiếm đến 20 - 30% tổng dư nợ của khối NHTMCP. Riêng cho vay nhà đất có NHTM dư nợ chiếm đến 20%; thị trường chứng khoán phát triển mở ra một lĩnh vực đầu tư mới cho các NHTM, cũng góp phần làm tăng dư nợ tín dụng nền kinh tế. Sự phát triển nhanh của thị trường tín dụng cũng đã xuất hiện những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, như cho vay ngoại tệ tăng trưởng quá mức so với nguồn vốn; việc nới lỏng các điều kiện vay vốn của các NHTMCP; các lĩnh vực cho vay bất động sản, chứng khoán đã chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng dư nợ ở một số NHTM... Thực tế này đòi hỏi phải tăng cường việc quản lý, giám sát rủi của các cơ quan quản lý tiền tệ mà trực tiếp là NHNN, cũng như từ chính các NHTM; thêm vào đó, việc dư thừa vốn khả dụng làm giảm hiệu quả thực thi CSTT của NHNN và làm tăng khả năng mất cân đối kỳ hạn cho hoạt động của các NHTM: Vốn khả dụng của các NHTM dư thừa và đầu tư giấy tờ có giá tăng mạnh: cũng như năm 2006, diễn biến tiền tệ nổi bật trong năm nay là vốn khả dụng của các TCTD xét trên bình diện toàn hệ thống thì thường xuyên dư thừa ở mức cao.
Nhìn chung, năm 2007 thực thi CSTT của NHNN là cực kỳ khó khăn bởi tác động bất lợi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quá lớn trong năm, cùng với những diễn biến phức tạp của giá cả những mặt hàng chủ yếu và những nhu cầu hội nhập của nền kinh tế. Mặc dầu vậy, về cơ bản, điều hành CSTT đã đạt được sự ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho phát triển kinh tế, song năm 2008, thực thi CSTT vẫn tiếp tục phải đối mặt với những thách thức do dòng vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục gia tăng và những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cùng với biến động của giá cả thế giới. Điều đó đòi hỏi NHNN tiếp tục thực hiện CSTT chặt chẽ và cần có những giải pháp mang tính dài hạn để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động bất lợi của những thách thức phải đối mặt
3. Đối với năm 2008:
Trong năm 2008, kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm đáng kể do tác động lan truyền của khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn của Mỹ. Các nền kinh tế phát triển đều rơi vào suy thoái. Chính phủ các nước phải thực thi các giải pháp cứu trợ kinh tế trị giá hàng nghìn tỷ đôla Mỹ và liên tiếp cắt giảm lãi suất chủ đạo, bơm thanh khoản vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, tác động của các giải pháp này còn chưa rõ ràng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ còn tiếp diễn trong năm 2009 và sẽ có tác động mạnh tới các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới khiến cho kinh tế Việt Nam gặp nhiều thách thức. Trong những tháng đầu năm 2008, tỷ lệ lạm phát gia tăng nhanh trong khi thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu. Chính phủ đã kịp thời triển khai 8 nhóm giải pháp lớn nhằm kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và đảm bảo an sinh xã hội. Trong 6 tháng đầu năm, do biến động giá trên thị trường thế giới, nhập siêu của Việt Nam đã tăng mạnh. Tính tới cuối tháng 6, nhập siêu đã lên tới 14,8 tỷ USD, đe dọa sự bền vững của cán cân thanh toán và gây áp lực lên tỷ giá USD/VND. Tới cuối quý III/2008, các nhóm giải pháp của Chính phủ đã mang lại những kết quả bước đầu với việc nhập siêu giảm, lạm phát được kiềm chế. Tuy nhiên, sự suy thoái kinh tế toàn cầu đã bắt đầu có tác động tiêu cực tới xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam và Chính phủ đã đề ra 5 nhóm giải pháp mới để chủ động ngăn chặn đà suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, mức độ tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các luồng vốn đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Trong năm 2008, luồng vốn đầu tư gián tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực tăng giá VND, sau đó có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình kinh tế thế giới tiếp tục khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến khả quan, trong các tháng cuối năm, tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính quốc tế lại khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về nước để bảo đảm thanh khoản của các tổ chức ở chính quốc.
Những biến động khó lường của kinh tế và thị trường tài chính thế giới cũng như trong nước đã ảnh hưởng tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thực hiện được các mục tiêu của chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, cụ thể là:
- NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và bán ra được điều chỉnh linh hoạt. Trong thời điểm thị trường dư cầu, NHNN đã kịp thời bán ngoại tệ can thiệp, hạ nhiệt thị trường. Trong thời điểm thị trường dư cung, NHNN mua ngoại tệ vào ở mức hợp lý, bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế nhập siêu.
- Trong hoạt động can thiệp, NHNN đã kết hợp đa dạng, linh hoạt các hình thức can thiệp. Bên cạnh can thiệp trực tiếp, lần đầu tiên NHNN áp dụng hình thức can thiệp gián tiếp để ổn định tâm lý thị trường. Với sự phối hợp tốt giữa NHNN với các ngân hàng thương mại (NHTM), hình thức can thiệp này đã nhanh chóng phát huy hiệu quả, đưa thị trường bình ổn trở lại.
- NHNN đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng làm tốt công tác tuyên truyền, củng cố lòng tin trong nhân dân và doanh nghiệp.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá đã được phối hợp đồng bộ. Lãi suất VND tăng trong khi lãi suất USD giảm đã tạo sự hấp dẫn cho tiền đồng, góp phần ổn định tỷ giá.
Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường biến động phức tạp, có những thời điểm biến động đột biến, NHNN đã kịp thời bám sát diễn biến thị trường, thường xuyên giám sát, cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào và ra để có chính sách điều hành tỷ giá thích hợp.
Đặc biệt, thời điểm giữa tháng 6, thị trường có nhiều biến động đột biến, NHNN đã chủ động thực hiện các giải pháp kịp thời, đồng bộ, thực hiện từng bước các giải pháp chính sách, tập trung vào giai đoạn cuối tháng 6. Cụ thể:
Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn cung cầu thị trường;
Mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố;
Tăng mạnh lãi suất cơ bản tập trung nguồn tiền đồng vào hệ thống ngân hàng, kiềm chế lạm phát và giảm áp lực lên tỷ giá;
Công bố mức dự trữ ngoại hối Nhà nước, củng cố lòng tin thị trường;
Yêu cầu các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối nghiêm túc chấp hành quy định về biên độ tỷ giá giữa VND và USD, thực hiện niêm yết và giao dịch theo đúng quy định;
Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu như nhập khẩu xăng dầu, thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thiết bị y tế, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các ngân hàng có phục vụ nhu cầu trả nợ vay hoặc thanh toán L/C đến hạn, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của cá nhân và hỗ trợ trạng thái cho các NHTM;
Yêu cầu các tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ và chấn chỉnh hoạt động của các đại lý, bàn đổi ngoại tệ bảo đảm thực hiện nghiêm túc các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối.
Từ ngày 7/11/2008, biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên 3% so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố (Quyết định số 2635/QĐ-NHNN ngày 6/11/2008).
Với các biện pháp đồng bộ của NHNN, thị trường ngoại hối đã ổn định trở lại. Có thể nói trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn mà nhiều tổ chức quốc tế và nhà đầu tư nước ngoài cho rằng Việt Nam đã đứng bên bờ vực của khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế, việc Việt Nam bình ổn được thị trường ngoại tệ, tỷ giá vẫn giữ tương đối ổn định đã nhận được sự đánh giá cao của các tổ chức tài chính quốc tế, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài và doanh n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh tế Vĩ mô - Phân tích chính sách tiền tệ của Việt Nam từ 2005 đến nay.doc