MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1. Một vài nét vềliên minh Châu Âu (EU) 2
1.1. Sựhình thành và phát triển của liên minh Châu Âu 2
1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á 5
Chương 2. Thực trạng thương mại Việt Nam - EU trong lĩnh vực dệt may 8
2.1. Khái quát vềngành dệt may Việt Nam 8
2.2. Cơcấu thịtrường ngành dệt may Việt Nam 9
2.3. Cơcấu ngành dệt may Việt Nam 10
2.4. Một số đánh giá vềthực trạng thương mại dệt may Việt nam - EU 12
Chương 3. Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam - EU trong lĩnh vực dệt may 16
3.1. Định hướng của ngành dệt may Việt Nam 16
3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam - EU 18
3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt 20
Chuyên đềthực tập Nguyễn ThịTuyết Nga - Lớp ĐN9
Nam - EU trong lĩnh vực dệt may
Kết luận 26
Tài liệu tham khảo 27
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh công nghiệp truyền thống có lịch sử phát
triển rất lâu đời ở nước ta . Mạc dù thường xuyên phảI đối mặt với rất
nhiều thử thách , song với đặc tính thu hút nhiều lao động , đầu tư ít
vốn , thu lãi nhanh , ngành dệt may đã tận dụng được các lợi thế của
đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển kinh tế
của đất nước .
Thứ nhất , ngành dệt may phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là
đảm bảo đầy đủ nhu cầu thiết yếu cho nhân dân trong nước “sau cái ăn
là cái mặc ”, qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân . Trên thực tế sản phẩm của ngành dệt may chỉ mới đáp
ứng được một phần nhu cầu trong nước . Hàng năm chúng ta vẫn phảI
nhập với một khối lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
. Mặt khác ngành dệt may sản phẩm cho tiêu dùng trong nước chất
lượng còn thấp , mẫu mã chưa phong phú , giá cả lại cao so với sản
phẩm dệt may nhập khẩu . Tuy nhiên trong những năm gần đây , ngành
dệt may đã có kế hoạch đổi mới trang thiết bị , tăng sản lượng , giảm
giá thành , đa dạng hoá mẫu mã nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu
cầu của nhân dân trong nước .
Thứ hai , với đặc tính sử dụng nhiều lao động , đặc biệt là đối với
ngành dệt may Việt Nam thiếu thiết bị công nghệ hiện đại vì thế còn
rất nhiêù công đoạn sản xuất thủ công , nên ngành dệt may có khả năng
giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động . Hiện nay toàn ngành dệt
may Việt Nam đang sử dụng hơn 500. 000 lao động Con số này là nhỏ
khi so với tổng số 38 triệu người trong độ tuổi lao động của Việt Nam
nhưng là một con số khá lớn đối với một ngành công nghiệp , có ý
nghĩa không chỉ trên phương diện kinh tế mà còn góp phần bình ổn
chính trị – xã hội .
Thứ ba , không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước , hiện nay sản phẩm
dệt may của Việt Nam đã có mặt ở rất nhiều thị trường nước ngoài .
Các sí nghiệp dệt may lớn ở Trung ương và địa phương đều đang cố
gắng dành năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may . Ngành dệt
may đã phát huy và tận dụng hết tiềm năng sẵn có của đất nước , thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình đó . Trong thời gian tới , chúng ta cần phải có
những chính sách phù hợp để khai thác hiệu quả những ưu thế của
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
ngành dệt may nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá , hiện
đại hoá đất nước .
2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam
Nhiệm vụ đầu tiên của ngành dệt may là đáp ứng cho nhu cầu của
nhân dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc ” . Nhưng trên thực tế ,
ngành dệt may chưa hoàn thành nhiệm vụ này , hàng năm chúng ta vẫn
phải nhập một lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm .
Điều này chứng tỏ rằng trong quá trình phát triển và hướng ngoại
ngành dệt may Việt Nam đã để lại một khoảng trống sau lưng mình ,
đó là thị trường may mặc trong nước Hiện nay các sí nghiệp dệt may
lớn Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành những năng lực
tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu , phần nào không xuất
được thì để lại tiêu dùng trong nước . bằng chứng là thỉnh thoảng mọt
doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nào đó lạI đưa ra “cửa
hàng giới thiệu sản phẩm” của mình những lô hàng kém phẩm chất bán
cho hàng tiêu dùng , đó là những chiếc quần áo rộng quá cỡ , khác biệt
về màu sắc và kiểu mốt đối với người Việt Nam . Hoạt động của ngành
dệt may trên thị trường nội địa có thể được phản ánh như sau :
Ở thị trường thành thị , thị trường bị thả nổi : Các cơ sở sản xuất
kinh doanh hàng may mặc của tư nhân gia đời rất nhanh với nhiều quy
mô và hình thức khác nhau đã thay thế dần cho may mặc quốc doanh ,
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
tình trạng kinh doanh đất trốn lậu thuế sản xuất buôn bán hàng giả ,
hàng “Sida” , hàng ngoại tràn vào một cách tràn lan , khó kiểm soát
được . Ở thị trường nông thôn , miền núi lại khác hẳn thị trường bị bỏ
trống bởi cầu ít , khả năng thanh toán kém do đó không đủ sức để thu
hút tư thương vào .
Nếu ta chỉ làm một phép tính đơn giản cũng có thể thấy được sự lãng
phí đáng quan tâm của ngành dệt may Việt Nam . Nước ta hiện nay có
khoảng 78 triệu dân , chỉ tính khiêm tốn mỗi người tiêu dùng bình quân
100. 000 đồng / năm sẽ tạo được một thị trường với sức mua 7800 tỷ
đồng ( tương đương với khoảng 600 triệu USD ) xấp xỉ kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của chúng ta vào 14 quốc gia thành viên EU năm
1998 .
Đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu
ra hai khu vực thị trường : có hạn ngạch và phi hạn ngạch . Thị trường
có hạn ngạch do EU áp đặt . Nơi đây , loại hình gia công chiếm vhủ
yếu 80% kim ngạch xuất khẩu hầu như ổn định . Sau khi Hiệp định dệt
may thời kỳ đầu ( 1993 – 1997 ) được ký kết kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam sang EU không ngừng tăng lên . Thời kỳ đầu
có 105 chủng loại ( category – cat ) quản lý bằng hạn ngạch , sau khi
điều chỉnh ( tháng 8/ 1995 ) còn 54 cat và khi hiệp định thời kỳ 1998 –
2000 được ký kết thì số cat quản lý hạn ngạch chỉ còn 29 . Tính gia , có
122 đã được EU “giải phóng ” số lượng Cat được giải phóng này có
thể mang lạI một kim ngạch không nhỏ .
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
Trước những khó khăn trong việc khai thác thị trường xuất khẩu như
đã nêu trên , việc mở rộng và tăng cường hơn lữa hợp tác với thị
trường EU là một đòi hỏi khách quan của nganhf dệt may Việt Nam .
Đó cũng chính là lý do mà toàn bộ chỉ đi sâu tìm việc thực trạng của
hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đi EU để rút ra thách thức
và thuận lợi .
2.3. Cơ cấu của ngành dệt may Việt Nam .
Theo thống kê cuối năm 1995 , tổng số cơ sở dệt may là 109369.
Trong đó : số cơ sở dệt là 74633, may là 34736 đơn vị . Hiện nay các
cơ sở dệt may phân bố hầu như khắp các tỉnh thành trong cả nước .
Song , hiệu quả hoạt động của các cơ sở ở các tỉnh khác nhau là khác
nhau . Theo thống kê chung , các cơ sở miền trung hoạt động kém hiệu
quả , sản phẩm không đủ chất lượng để cạnh tranh trên thị trường quốc
tế do thiếu công nghệ hiện đại , thiếu thông tin về thị trường , cơ sở hạ
tầng lạc hậu …Các doanh nghiệp hoàt động có hiệu quả thường tập
trung ở thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , Nha Trang , Hải Phòng ,
Hà Nội …Sự phát triển không đồng bộ này chính là câu hỏi đặt ra với
các nhà hoạch định chính sách . Chúng ta cần có những chính sách đầu
tư và tín dụng phù hợp để khai thác đầy đủ và hiệu quả các tiềm lực ở
các địa phương nhằm xây dựng ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
của nó , một ngành công nghiệp chủ lực trong chiến lược phát triển
kinh tế của Việt Nam .
Và đáng nói nhất của ngành dệt may Việt Nam là nguyên vật liệu .
Đây là một vấn đề nan giải , làm ảnh hưởng đến chất lượng giá cả , sự
cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế :
Nguyên vật liệu của ngành dệt bao gồm các loại : Bông , đay , tơ
tằm , xơvisco , xơ PE , các loại xơ liber khác , các loại hoá chất , thuốc
nhuộm . Trong đó nguyên liệu sản xuất trong nước chỉ có bông , đay ,
tơ tằm . Tuy nhiên sản lượng bông đay , tơ tằm vẫn còn thấp ,chất
lượng kém do sử dụng giống cũ đã thoái hoá , máy móc trong trang bị
trong khâu thu hoạch và bảo quản còn lạc hậu , giá thành cao hơn giá
của nguyên liệu ngoại nhập . Hơn nữa , từ năm 1993 đến nay , diện tích
trồng các loại nguyên liệu này đã giảm mạnh do ngành dệt chưa có kế
hoạch thu mua khiến cho người trồng trọt lo lắng vì giá cả , thị trường
tiêu thụ không ổn định . Chính vì vậy , hàng năm chúng ta phải nhập
khẩu với số lượng lớn, bông , đay , tơ tằm và các nguồn sợi tổng hợp
khác .
Nguyên liệu của ngành may cũng vậy , vải trong nước cung cấp cho
may công nghiệp rất ít doanh nghiệp đáp ứng được , Mặc dù , một vài
năm gần đây công nghệ dệt của ta đã có những bước tiến đáng kể
nhưng nhìn chung chưa đồng bộ , chất lượng vải chưa cao. Tính trong
toàn bộ năm 1998 lượng bông nhập khẩu là 78 triệu USD , lượng sợi
các loại là 207 triệu USD , vải các loại là 418 triệu USD . Đáng chú ý
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
là lượng vải nhập khẩu cho gia công là 392 triệu USD , trong khi lượng
vải nhập khẩu cho kinh doanh là 27 triệu USD . Chính vì thế , giảm
bớt sự phụ thuộ về nguyên liệu trong ngành dệt – may vừa là mong
muốn chủ quan vứa là yêu cầu khách quan .
Ngoài ra ngành dệt may còn phải nói đến đổi mới công nghệ , theo
đánh giá chung thiết bị và công nghệ của ngành dệt may Việt Nam hiện
nay lạc hậu khoảng 10-20 năm so với thế giới . Tuy nhiên so với năm
gần đây , có khá nhiều thiết bị , máy móc tiên tién đã được đưa vào sản
xuất thay thế cho thiết bị cũ , đặc biệt là ngành may . Nhiều doanh
nghiệp đã trang bị nhữnh thiết bị chuyên dùng như máy thêu tự động ,
máy cắt , hệ thống ủi hơi hập từ các nước công nghiệp tiên tiển . Điều
đáng buồn là việc đầu tư trong ngành dệt may không được xem xét
dưới các góc độ bảo đảm sự phát triển kinh tế bền vững của một ngành
nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung . Đầu tư không đồng bộ giữ
ngành may và ngành dệt và giữa các công đoạn trong quá trình sản
xuất của một doanh nghiệp . Hầu hết , các chủng loại máy may và công
nghệ đang sử dụng trong nghành may đều là máy mới . Ngược lại
ngành dệt may chưa có sự thoả đáng , ngành dệt còn 50% thiết bị đã sử
dụng trên 20 năm . Sự đồng bộ này còn được thể hiện ngay ở lượng
FDI vào ngành dệt may Việt Nam trong những năm vừa qua .
Với tình hình trên , nếu việc đầu tư đổi mới công nghệ dệt – may
không được cải tiến và không có một chiến lược xét trên giác ngộ toàn
ngành dệt sẽ mãi mải tụt hậu so với ngành may và ngành may cũng sẽ
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
bị suy giảm khi Việt Nam không còn thế mạnh là nước có giá trị nhân
công rẻ .
2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU
Từ khi nền kinh tế nước ta mới chập chững vận hành theo cơ chế thị
trường ngành công nghiệp dệt may đã chứng tỏ vai trò quan trọng của
mình , với đặc điểm sử dụng nhiều lao động . Ngành dệt may đã khai
thác được lợi thế so sánh của nước ta và trở thành một trong năm
ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may tăng lên nhanh chónh từ năm 1989- 1997 và luôn chiếm vị trí
thứ hai sau dầu thô . Riêng năm1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may đã vươn lên vị trí đầu bảng với 1,375 tỷ USD .
Tuy nhiên việc xuất khẩu mặt hàng này trong năm 1998 cũng đầy
“sóng gió” . Mặc dù giữ vị trí đầu bảng nhưng cũng chỉ là mức đã đạt
trong năm 1997 và thấp khá xa so với mức dự kiến 1,5 tỷ USD ban đầu
. Sự chững lại trong xuất khẩu mặt hàng này là do thị phần ở thị trường
phi hạn ngạch giảm quá mạnh từ 900 triệu USD năm 1997 xuống chỉ
còn 700 triệu USD năm 1998 . Đồng thời vơíi sự suy giảm vai trò của
thị trường các quốc gia Châu Á đối với ngành dệt may Việt Nam , vai
trò của thị trường EU càng được củng cố . Kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam vẫn tăng 30% sau khi hiệp định dệt may Việt Nam
EU giai đoạn 1998-2000 có hiệu lực , chiếm khoảng 45% so với tổng
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may EU thực sự là một thị trường xuất
khẩu chủ đạo của ngành dệt may Việt Nam .
Đối với hàng hoá trong lĩnh vự dệt may nhập từ EU vào Việt Nam ,
tỷ lệ hàng thành phẩm rất ít , chủ yếu là các loại máy móc , thiết bị , vật
tư nguyên liệu và hoá chất . Mặc dù chất lượng hàng dệt may của EU
rất cao , nhưng kích thước mẫu mã mầu sắc lạI không phù hợp với thị
hiếu của người Việt Nam .
Nhìn chung cơ cấu trao đổi hàng hoá đã thể hiện đúng khả năng và
nhu cầu của mỗi bên . Cơ cấu trao đổi này cũng hoàn toàn phù hợp với
mục tiêu của công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá mà Việt Nam
đang theo đuổi . Trong những năm tới , chúng ta cần phải tiếp tục khai
thác thị trường EU theo hướng này . Có như vậy chúng ta mới tận dụng
được tiềm năng của mình và khai thác được các mặt mạnh của EU .
Thành quả đã đạt được trong những năm qua là kết quả của những lỗ
lực từ hai phía . Phía Việt Nam , chúng ta không ngừng cải tiến mẫu
mã , nâng cao chất lượng , hạ giá thành sản phẩm để đáp ứng nhu cầu
các khách hàng EU . Ngược lại EU cũng dành cho chúng ta những điều
kiện có lợi để thúc đẩy quan hệ buôn bán mặt hàng này . Tuy nhiên ,
việc thâm nhập một thị trường kỹ tính như EU trong khi chúng ta chưa
phải là thành viên của WTO quả là đIều hết sức khó khăn . Mặc dù ,
kim ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường EU có tăng , song đó vẫn
chưa phải là tất cả những gì chúng ta mong đợi . Nguyên nhân của việc
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
này cũng chính là khó khăn thách thức má các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam phải đối đầu khi thâm nhập thị trường EU .
Thứ nhất : Phương châm “may làm lối ra cho dệt” chưa được thể
hiện trong việc sản xuất và xuất khẩu sang thị trường EU . Vải sản xuất
trong nước không đáp ứng được độ đồng đều về mầu sắc , độ co rút sự
đa dạng chủng loại , tính thời trang … Chẳng hạn với tiêu chuẩn vải
may sơ mi xuất khẩu sang thị trường EU là sợi bông 100% nhưng yêu
cầu hình thức như Polyeste thì các công ty dệt may Việt Nam đều
không đáp ứng được .
Ngoài chênh lệch sản phẩm giữa dùng sợi nội và sợi ngoại là khá lớn
, giá bán vải nội có khi còn cao hơn cả giá vải nhập khẩu ,dùng vải nội
phải chịu mấy lần tính thuế ( thuế sợi , vải mộc , vải thành phẩm …)
Với tình hình trên phía các doanh nghiệp may chưa tìm thấy sự hấp dẫn
của vải nội và cũng chưa tích cực tìm kiếm cơ hội . Mặt khác vấn đề
nguyên liệu chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
phương thức gia công chiếm tỷ lệ chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu
dệt may Việt Nam sang EU .
Thứ hai : Ở Việt Nam ngành kinh doanh mẫu mốt chưa trở thành
một ngành kinh tế độc lập . Trong khi Châu Âu là cái nôi thời trang của
thế giới , người Châu Âu nổi tiếng “sành ăn , sành mặc” . Chính vì thế
, hầu hết mẫu mã của hàng dệt may sang thị trường EU do phía đối tác
cung cấp . Với khả năng hiện tại , mẫu mã sản phẩm chúng ta chưa có
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
tính chủ động , sáng tạo , có bản sắc riêng mà được khách hàng EU
chấp nhận .
Hiện nay đa số các cơ sở thiết kế thời trang của ta thường làm theo
kiểu Photocopy bằng cách cóp nhặt tổng hợp các mẫu mã vốn đã được
lăng xê thành sản phẩm trước đó . Ngay ở Viện mẫu thời trang – nơi
được xem là cơ sở làm việc có bài bản nhất ở Việt Nam thì các trang
thiết bị phục vụ nghiên cứu mẫu mốt có thể nói gần như không có gì :
không có hệ thống máy vi tính, việc thiết kế làm bằng thủ công, sự hiểu
biết thị hiếu mẫu mốt nước ngoài quá ít ( vì không có tài chính cử cán
bộ đi khảo sát ) , cán bộ nghiên cứu của Viện vốn được đào tạo cơ bản
nhưng so với tình hình hiện giờ thì đã lạc hậu, không được bổ túc thêm
.
Thứ ba : Trong phương thức gia công, các doanh nghiệp của ta phần
lớn phải chấp nhận “phương thức tam giác”, 3 đỉnh của tam giác gồm:
nhà sản xuất ( doanh nghiệp Việt Nam ) khách hàng ( doanh nghiệp EU
) – người tiêu dùng. Chính khách hàng EU mới là người khai thác thị
trường. Họ đưa mẫu, nguyên phụ liệu, ta sản xuất, họ đóng gói mác,
nhãn hiệu. Người tiêu dùng chỉ biết đến họ với tư cách là nguồn cung
cấp chứ không quan tâm đến nhà sản xuất. Điều này dẫn đến các doanh
nghiệp thu được một số ít ngoại tệ ít ỏi nhưng uy tín sản phẩm của ta
không hề được biết đến, tất cả những yếu tố thị trường ( giá cả, sức
mua, tâm lý tiêu dùng, sự biến đổi sở thích … ) ta hoàn toàn không
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
nắm được. Nói cách khác, “trong phương thức tam giác” ta chỉ là nhà
sản xuất, còn thị trường là của đối tác EU .
Thứ tư : Cho đến hôm nay, số nhóm mặt hàng xuất đi EU bị khống
chế bởi hạn ngạch chỉ còn 29 cat, nhưng vẫn là nhiều so với các nước
xung quanh ( 29 so với 20 của Thái Lan, 8 của Singapore, 10 của
Indonesia … ) Xét về khối lượng quota thì Việt Nam vẫn bị đối sử
không công bằng so với Trung Quốc cũng như một nước ASEAN khác
vì họ được xuất khẩu nhưng mặt hàng tương tự vào EU với lượng lớn
hơn của Việt Nam
Việc sử dụng các nguyên phụ liệu nhập khẩu từ EU để làm hàng
thành phẩm xuất khẩu trở lại EU là một giải pháp tình thế không có lợi
cho các doanh nghiệp Việt Nam . nếu dùng nguyên phụ liệu tương tự
nhập khẩu từ các nước Châu Á với giá thấp hơn nhưng vẫn đảm bảo số
lượng mà được EU chấp nhận thì sẽ có lợi hơn cho các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam .
Theo đánh giá của Bộ thương mại , trong những năm tới thị trường
Mỹ còn có nhều phức tạp , thị trường các nước Châu Á vẫn chịu ảnh
hưởng vủa cuộc khủng hoảng nên trọng tâm của thị trường hàng dệt
may Việt Nam sẽ là liên minh Châu Âu và các nước Liên Xô cũ .
Trong đó , thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ đạo . Để khai
thác thị trường EU có hiệu quả , các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
phải nỗ lực để tranh thủ tốt nhất những lợi thế hạn chế những bất lợi .
Đặc biệt phải phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm , cải tiến mẫu
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
mã đáp ứng đúng thị hiếu của người tiêu dùng , nâng cao uy tín để chủ
động chiếm lĩnh thị trường Châu Âu .
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM – EU TRONG LĨNH VỰC DỆT –
MAY
3.1. Định hướng của ngành dềt may Việt Nam
.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
Phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ một ngành công
nghiệp chủ lực và sánh ngang trình độ phát triển của ngành dệt may
các nước trong khu vực và phát triển trên thế giới , ngành dệt may đã
xây dựng một quy hoạch phát triển đến năm 2010 . Trong đó mục tiêu
và những định hướng được xác định cụ thể như sau :
- Năm 2000 sản xuất được 800 triệu mét vải lụa thành phẩm kim
ngạch đạt khoảng 2 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao
động .
- Năm 2010 sản xuất được 2 tỷ mét vải tụa thành phẩm , kim ngạch
xuất khẩu đạt 4 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu lao
động .
- Các sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may sẽ là hàng sợi bông
chiếm 40% vải P/C chiếm 30% vải sợi tổng hợp chiếm 30% . Các
sản phẩm của ngành dệt may là sản phẩm ở khâu cuối cùng chứ
không phải là sản phẩm gia công ở khâu trung gian . Quần áo may
sẵn và hàng dệt kim được tăng lên với tỷ lệ thích đáng .
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
MỤC TIÊU XUẤT KHẨU CÁC NĂM 2000 , 2005 , 2010
a- Mục tiêu giá trị xuất khẩu
Thực 2000 2005 2010
Chỉ tiêu Hiện
1995
Kim nghạch
(tr USD)
Tăng số với
1995 (%)
Kim nghạch
(tr USD)
Tăng số với
1995 (%)
Kim nghạch
(tr USD)
Tăng số với
1995 (%)
Kim nghạch
Xuất khẩu
750
2000
166. 67
3. 000
50. 000
4. 000
33. 33
Hàng may 500 1600 22000 2. 200 37. 50 3. 000 36. 36
Hàng dệt 250 400 60. 00 800 100. 00 1. 000 25. 00
b- Mục tiêu sản phẩm xuất khẩu .
2000 2005 2010
Chỉ tiêu Hiện
1995
Số lượng Tăng số với
1995
Số lượng Tăng số với
2000
Số lượng Tăng số với
2005
Sản phẩm
Xuất khẩu
160
490
330
760
180
810
140
Sản phẩm may 125 400 275 550 150 750 200
Sản phẩm dệt 35 90 55 120 30 160 40
c-Mục tiêu sản xuất phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
TT Loại phụ liệu Đơn vị tính 1996 2000 2005 2010
1. Chỉ may Tấn 2788 5354 7550 10836
2. Nhãn dệt Triệu chiếc 600 1530 2230 3060
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
3. Bông tấm Triệu m2 31 58,2 69,8 105
4. Mếch Triệu m2 16,4 29,4 35,7 55,2
5. Cúc đính Triệu chiếc 1528 2582 3387 5237
6. Cúc đập Triệu bộ 134,5 310 357.3 587
7. Khoá kéo Triệu m 70 125,5 145,5 224
Nguồn ( a, b, c ) Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành công
nghiệp
dệt may đến năm 2010 . Tổng công ty dệt may Việt Nam .
Để đạt được mục tiêu ngành dệt may cần phải phấn đấu :
Thứ nhất : Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dệt
may phải đạt 10% và giải quyết các nhu cầu về nguyên liệu dự kiến :
Bông thiên nhiên 340.000 tấn , xơ PE là 90 nghìn tấn , sợi PETEX
hơn 1000 tấn . trong đó ngành dệt phảI phấn đấu sản xuất 50% sản
lượng bông thiên nhiên và 10% xơ PE.
Thứ hai : Đến năm 2010 toàn ngành dệt may sẽ phải cần tới 4,8 tỷ
USD để đầu tư cho các dự án mới . Trong đó khoảng 3,8 tỷ USD sẽ
được đầu tư cho thiết bị và khoảng 1 tỷ đầu tư cho xây dựng , phần
đầu tư cho thiết bị ngành dệt sẽ là 3,41 tỷ USD và ngành dệt may là
390 triệu USD.
Đầu tư vào ngành dệt may sẽ được thực hiện theo ba giai đoạn .
trước năm 2000 phảI đầu tư 668 triệu USD từ năm 2000 đến 2005 đầu
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
tư khoảng 2 tỷ USD phần còn laị dành cho giai đoạn thứ ba từ 2005 –
2010 .
Nguồn vốn này được qua nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như
qua đầu tư nước, trong đó nguồn vốn trong nước là chủ yếu.Ngoài ra
ngành dệt may cũng kiến nghị với nhà nước cấp qũy đất để phát triển
sản xuất và tham gia liên doanh liên kết với nước ngoài .
Thứ ba : Qui hoạch phát triển ngành dệt may thành các vùng chính
như sau :
- Về dệt : Vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long , tập
chung chủ yếu vào thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , An Giang
, Bình Dương , Đồng Tháp , Tây Ninh , Long An … Dự kiến sản
lượng 50%-60% và mức vốn các dự án mới của các doanh nghiệp
Việt Nam là 35% . Vùng đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh lân
cận gồm thành phố Hà Nội , tỉnh Hà Tây , Hải Hưng , Hải Phòng ,
Thái Nguyên … Dự kiến chiếm 30%-40% về sản lượng và 55% về
vốn vùng Duyên HảI miền Trung và một số tỉnh khu bốn cũ gồm
Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế … Dự kiến
10% sản lượng và 10% về vốn.
- Về may mặc: phân bố trên các địa phương để phục vụ nhu cầu
trong nước và tập trung tại 3 vùng phát triển dệt để tham gia xuất
khẩu ưu tiên các vùng địa bàn thuận tiện giao thông bến cảng.
-
3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU:
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
Trên cơ sở Hiệp định khung giữa Việt Nam và EU ký kết vào tháng
7 năm 1995: “các bên cam kết phát triển và đa dạng hoá trao đổi
thương mại giữa hai bên và cải thiện tiếp thị tới mức cao nhất có thể
được. Các bên trong khuôn khổ hiện hành của luật pháp và thể lệ của
mỗi bên cam kết thực hiện chính sách nhằm cải thiện cách thức thâm
nhập cho sản phẩm của mình vào thị trường của nhau, hai bên sẽ
dành cho nhau các điều kiện thuận lợi nhất về nhập khẩu và xuất
khẩu và thoả thuận xem xét cách thức biện pháp nhằm loại bỏ hàng
rào thương mại giữa hai bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan …”
hai bên đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi nhằm thúc đẩy thương
mại ngành dệt may
Dựa trên sự phân tích thực trạng thương mại với EU trong lĩnh vực
dệt may và Hiệp định dệt may Viềt Nam – EU giai đoạn 1998- 2000 ,
hoạt động buôn bán hàng dệt may với EU trong thời gian tới sẽ được
tăng cường theo các hướng sau :
- Mục tiêu cơ bản của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trường
EU vẫn là : phấn đấu nâng cao sản phẩm cải tiến mẫu mã đáp ứng
được đúng thị hiếu cuẩ người tiêu dùng tạo uy tín để chiếm lĩnh thị
trường EU tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu , hạn chế việc khai
thác sản phảm bằng hình thức gia công thuần tuý , gia tăng hình
thức mua nguyên vật liệu và bán thành phẩm .
- Việc xuất khẩu vào EU những sản phẩm liệt kê tại phụ lục II(Hiệp
định dệt may Việt Nam –EU giai đoạn 1998 – 2000) được tăng
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - Lớp ĐN9
cường , nhưng phải được hạn chế tốt số lượng đươc EU ấn định
cho hàng năm . Trong việc phân bố quota xuất khẩu vào EU , các
cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các
công ty do các nhà đầu tư EU sở hữu một phần hay toàn bộ đang
hoạt động tại Việt Nam .
- Việc quản lý hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường EU có những
điểm khác biệt so với các năm trước . Tổng lượng hạn ngạch do
EU ấn định sẽ được chia làm 3 phần được phân bố cho các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU làm bằng vải sản xuất
trong nước , phần còn lại sẽ cho đấu thầu nhằm giảm cơ chế xin
cho và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự vận động trong cơ
chế thị trường .
- Trong trường hợp cần thiết , Liên bộ Thương mại và Bộ công
nghiệp sẽ sử dụng trước một phần quota của năm kế tiếp ấn định
tại phụ lục II ( Hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993-
1997 ) cho mỗi chủng loại sản phẩm tới mức 5% quota của năm
thực hiện . Tất nhiên , phần sử dụng trước phải trừ vào lượng quota
ấn định cho năm kế tiếp đó , số lượng quota không sử dụng hết của
năm trước sẽ được chuyển sang cho năm kế tiếp đối với mỗi chủng
loại tới mức 7% quota cụ thể của năm thực hiện .
- Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU
được phép chuyển giao giữa các chủng loạI 4,5,6,7,8 nhưng chỉ
giới hạn ở mức 7% quota của chủng loại được chuyển đổi . Có thể
Chuyên đề thực tập Nguyễn Thị Tuyết Nga - L
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tốt nghiệp Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu.pdf