Chuyên đề Phân tích kĩ thuật và ứng dụng một số chỉ báo để tính toán đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết có tên viết tắt là COBOVINA Bạch Tuyết phát hành chứng khoán mã BBT. Công ty hoạt động trong lĩnh vực đồ dùng cá nhân, cụ thể là bông, băng y tế; băng vệ sinh phụ nữ, và các sản phẩm khác từ bông băng. Theo số liệu điều tra từ công ty, các sản phẩm y tế của công ty chiếm tới 90% tổng thị phần toàn quốc. Các sản phẩm băng vệ sinh của công ty rất nổi tiếng và phổ biến trên thị trường phía Nam (thị phần khu vực này tới 50-55%). Tuy nhiên sản phẩm của công ty còn chưa quen thuộc với người tiêu dung của các tỉnh thành phía Bắc (thị phần ở đây chỉ khoảng 5%). Vì vậy thị phần của công ty trên toàn quốc chỉ ở mức 30%.

doc56 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1747 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích kĩ thuật và ứng dụng một số chỉ báo để tính toán đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
EMA 12 và 26 ngày. Tuy nhiên, chúng ta có thể sử dụng bất cứ sự kết hợp nào giữa các đường MA. Tập hợp các đường MA được sử dụng trong MACD có thể phù hợp cho từng chứng khoán riêng lẻ. Đối với đồ thị từng tuần, tập hợp các MA nhanh hơn có thể là fù hợp. Đối với các cổ phiếu không ổn định, những đường MA chậm hơn có thể giúp ích cho việc làm trơn số liệu. Lưu ý rằng mỗi cá nhân cần hiệu chỉnh MACD cho phù hợp với cách kinh doanh , mục tiêu và khả năng chịu rủi ro của mình. 2.1.4. Hạn chế cuả MACD Một trong những ưu điểm và cũng là mặt hạn chế của MACD đó là các MA hoặc là giản đơn, hoặc hàm mũ hoặc có trọng số đều là các chỉ báo có độ trễ. Mặc dù MACD thể hiện sự chênh lệch giữa 2 MA, có thể còn có một số yếu tố trễ trong chính chỉ báo đó. Điều này thường đúng với các đồ thị theo tuần hơn đồ thị theo ngày.Một cách giải quyết vấn đề này là sử dụng biểu đồ MACD. MACD không fải là một chỉ báo đặc biệt tốt để phân biệt giữa bán siêu (oversold) và mua siêu (overbought). Mặc dù nó có thể nhận biết những mức độ nào thể hiện sự bán siêu và mua siêu, MACD không có bất cứ giới hạn trên hay dưói nào ràng buộc sự biến động của nó. MACD có thể tiếp tục mở rộng vượt quá cực điểm trong quá khứ. MACD tính toán sai lệch tuyệt đối giữa 2 trung bình trượt và không thể hiện sai lệch tương đối. MACD được tính toán bằng cách lấy một trung bình trượt trừ đi cái còn lại. Khi một chứng khoán tăng giá, chênh lệch (cả âm và dương) giữa 2 trung bình trượt được dự tính sẽ tăng. Điều này gây khó khăn cho việc so sánh các MACD trong những chu kì thời gian dài, đặc biệt là các chứng khoán biến động theo hàm mũ. Có một lựa chọn đó là sử dụng dao động giá, thể hiện chênh lệch tương đối giữa 2 trung bình trượt: (EMA 12 ngày –EMA 26 ngày )/EMA 26 ngày Kết quả chênh lệch tương đối có thể được so sánh trong chuỗi thời gian dài hơn. Đối với các thời kì ngắn hạn, MACD và phương pháp dao động giá về cơ bản là tương tự nhau. Hình dáng đường,sự fân kì các điểm cắt giữa các đường trung bình trượt và các điểm cắt đường hướng tâm đối với MACD và phương pháp dao động giá là hoàn toàn đồng nhất. 2.1.5. Những ý kiến tán thành và phê phán MACD Khi Appel phát triển mô hình MACD, có hàng trăm chỉ báo phân tích kĩ thuật mới được giới thiệu. Trong khi rất nhiều chỉ báo kĩ thuật ra đời và bị loại bỏ, MACD vẫn tồn tại với thời gian. Các tư tưởng cơ bản phía sau cách sử dụng của nó rất rõ ràng, và cách xây dựng của nó rất đơn giản, nó vẫn là một trong những chỉ báo đáng tin cậy. Tính hiệu quả của MACD sẽ rất khác nhau với rất nhiều chứng khoán và thị trường khác nhau. Tuỳ theo từng chứng khoán và thị trường khác nhau cần lựa chọn độ trễ của MA cho thích hợp. Như đối với tất cả các chỉ báo, MACD không phải là không thể sai được và nên được sử dụng cùng với các công cụ phân tích kĩ thuật khác. 2.1.6. MACD- biêủ đồ (MACD-Histogram) Năm 1986, Thomas Aspray đã phát triển MACD-biểu đồ (MACD-H). Aspray lưu ý rằng trễ của MACD đôi khi bỏ lỡ những biến động của chứng khoán, đặc biệt là được ứng dụng trong đồ thị theo tuần. Ông bắt đầu thử nghiệm bằng cách thay đổi các trung bình trượt và nhận thấy các trung bình trượt ngắn hạn có thể đưa ra các tín hiệu nhanh hơn.Tuy nhiên ông đang tìm kiếm các công cụ để dự đoán các điểm giao cắt của MACD. Một trong những đáp án mà ông đã tìm ra đó là MACD-H. 2.1.6.1. Định nghĩa và cách xây dựng MACD-H thể hiện chênh lệch giữa MACD và đường tín hiệu của nó-EMA 9 ngày. Đồ thị của chênh lệch này được thể hiện dưới dạng biểu đồ hình cột, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự giao cắt với đường trung tâm và sự phân kì. Điểm giao cắt giữa đường trung tâm đối với biểu đồ MACD tương tự như điểm giao cắt giữa một đường trung bình trượt và MACD. Đường trung bình trượt sẽ xuất hiện khi MACD dịch chuyển lên trên hoặc xuống dưới đường tín hiệu. Nếu giá trị của MACD lớn hơn giá trị của EMA 9 ngày, thì giá trị của MACD-H sẽ dương. Ngược lại, nếu giá trị của MACD nhỏ hơn EMA 9 ngày, thì giá trị của MACD-H sẽ âm. Ngoài ra, sự gia tăng hoặc giảm đi trong khoảng cách giữa MACD và đường tín hiệu của nó sẽ được thể hiện trong MACD-H. Độ nhọn của MACD-H tăng chỉ ra rằng MACD tăng nhanh hơn EMA 9 ngày của nó. EMA và momentum tăng giá(bullish) ngày càng nhanh. Độ nhọn của MACD-H chỉ ra rằng MACD giảm nhanh hơn EMA 9 ngày của nó và sự giảm của momentum đang tăng. Trong đồ thị trên đây, chúng ta có thể thấy biến động MACD-H độc lập với MACD thực tế. Đôi khi, MACD tăng trong khi MACD-H giảm. Ở thời điểm khác MACD giảm trong khi MACD-H tăng. MACD-H không đề cập đến giá trị tuyệt đối của MACD nhưng nó thể hiện mối quan hệ giữa đường MACD và EMA 9 ngày của nó. Thông thường, nhưng không phải luôn luôn , biến động của MACD xuất hiện trước sự phân kì tương đương trong biểu đồ MACD. Điểm đầu tiên biểu diễn độ nhọn của phân kì dương trong MACD-H xuất hiện có trước điểm giao cắt trung bình trượt tăng giá (bullish). Trên điểm thứ 2, đường MACD tiếp tục đạt các đỉnh mới nhưng MACD-H thể hiện 2 đỉnh bằng nhau. Mặc dù không fải là một trường hợp lý thuyết của phân kì dương, điểm đáy bằng nhau chứng tỏ thất bại trong khả năng dự báo của đường MACD. Phân kì dương được hình thành khi MACD-H thể hiện một điểm đáy cao hơn và MACD tiếp tục thấp hơn nữa. Phân kì âm được hình thành khi MACD-H biểu diễn một đỉnh thấp hơn và MACD tiếp tục tăng lên. 1. 6 .2. Cách sử dụng T. Aspray tạo ra MACD-H như một công cụ để dự đoán các điểm giao cắt giữa các MA trong mô hình MACD. Sự phân kì giữa MACD và MACD-H là công cụ chính được sử dụng để dự đoán các điểm giao cắt giữa các MA. Phân kì dương trên MACD-H chỉ ra rằng MACD đang gia tăng và có thể gần tới điểm giao cắt trung bình trượt tăng giá. Phân kì âm trong biểu đồ MACD-H chỉ ra rằng MACD đang suy yếu, và nó báo trước một điểm cắt trung bình trượt giảm giá trên MACD. Trong cuốn sách Technical analysis of financial markets, J.Murphy đã khẳng định lợi ích lớn nhất của MACD-H đó là nhận biết được trong những thời kì nào khoảng cách giữa MACD và EMA 9 ngày hoặc mở rộng hoặc thu hẹp. Nói rộng ra, khoảng cách được mở rộng chỉ ra rằng momentum tăng và khoảng cách thu hẹp chỉ ra rằng momentum giảm. Thường thì một sự thay đổi trên MACD-H sẽ xuất hiện trước bất cứ sự thay đổi nào trong đường MACD. 2.1. 6 .3. Các dấu hiệu Dấu hiệu chính được khái quát bởi biểu đồ MACD là sự phân kì xuất hiện trước điểm giao cắt giữa các đường MA. Một dấu hiệu tăng giá được dự báo khi xuất hiện 1 phân kì dương và khi có 1 điểm cắt đường trung tâm bullish (làm tăng giá). Một dấu hiệu giảm giá được dự báo khi có một phân kì âm và điểm cắt đường trung tâm bearish(làm giảm giá). Cần nhớ rằng một điểm cắt đường trung tâm của MACD-H tương đương một điểm cắt giữa các đường MA trên MACD. Sự phân kì có thể có nhiều dạng và nhiều góc độ khác nhau. Khái quát lại 2 dạng phân kì có thể nhận biết được đó là : đường phân kì xiên (slant divergence) và đường phân kì lồi lõm (peak-trough divergence). Slant divergence- Phân kì xiên Một đường phân kì xiên xuất hiện khi có một sự biến động trơn tương đối và liên tục theo 1 hướng (lên hoặc xuống) tạo thành sự phân kì. Đường phân kì xiên bao hàm những khoảng thời gian ngắn hơn là các phân kì được hình thành từ 2 đỉnh hoặc 2 đáy. Những đường phân kì xiên có thể chứa một số biến động nhỏ bất thường (lồi hoặc lõm) dọc theo đường đó. Môi trường của phân tích kĩ thuật là không hoàn hảo và có những trường hợp ngoại lệ đối với hầu hết các quy tắc và có sự phối hợp giữa rất nhiều dấu hiệu. Peak trough divergence- phân kì lồi lõm. Đường phân kì lồi lõm xuất hiện khi ít nhất 2 đỉnh hoặc 2 đáy xuất hiện theo cùng 1 hướng tạo ra sự phân kì. Một chuỗi của 2 hoặc nhiều đáy tăng lên (điểm đáy cao hơn) có thể tạo ra một phân kì dương và một chuỗi 2 hoặc nhiều đỉnh giảm xuống (điểm đỉnh thấp hơn) có thể tạo ra một phân kì âm. Đường phân kì lồi lõm thường bao hàm cả một cấu trúc thời gian khoảng 2 tuần hoặc lâu hơn là vài tháng. Thông thường, đường phân kì càng dài và nhọn, thì các dấu hiệu dự báo càng tốt. Những đường phân kì ngắn và hời hợt có thể dẫn đến các dấu hiệu sai. Ngoài ra, nó cũng cho thấy đường phân kì lồi lõm đáng tin hơn đường phân kì xiên. Đường phân kì lồi lõm có xu hướng nhọn hơn và bao hàm cấu trúc thời gian dài hơn đường phân kì xiên. 2.1. 6 .4. Lợi ích của MACD-Histogram Ưu điểm chính của MACD-H là khả năng dự báo các dấu hiệu MACD. Các đường phân kì thường xuất hiện trong MACD-H trước các điểm giao cắt giữa các đường MA. Với những kiến thức này, các nhà kinh doanh và nhà đầu tư có thể chuẩn bị tốt hơn trước những thay đổi có tính chất xu thế có thể xảy ra trong tương lai. MACD-H có thể được ứng dụng trong các đồ thị theo ngày, tuần, tháng.(Chú ý: Việc này có thể đòi hỏi việc kết hợp một số thời kì để xây dựng đường MACD gốc: các đường MA ngắn hơn và nhanh hơn có thể là cần thiết đối với các đồ thị theo tuần hoặc theo tháng). Sử dụng đồ thị theo tuần có thể xác định đường xu thế cơ bản một cách rõ ràng. Khi đường xu thế đã được xác định rõ ràng thì có thể sử dụng đồ thị theo ngày để xác định thời điểm chiến lược để gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường. Trong cuốn Technical Analysis of the financial markets, J.Murphy tán thành phương pháp đầu tư 2 bước này để loại trừ những hoạt động kinh doanh đi ngược lại xu thế chính. Biểu đồ MACD theo tuần có thể được sử dụng để khái quát dấu hiệu theo chu kì dài để thiết lập xu hướng kinh doanh. Sau đó chúng ta sẽ chỉ xem xét những dấu hiệu ngắn hạn phù hợp với xu thế chính. Nếu xu thế dài hạn là bullish, thì chỉ những phân kì âm cắt đường trung tâm bearish là có ý nghĩa với MACD-H. Nếu xu thế dài hạn là bearish, chỉ những phân kì dương cắt đường trung tâm bullish được xem xét là có giá trị. 2.1.6.6 . Hạn chế của MACD histogram MACD-H là một chỉ báo của một chỉ báo hoặc một phái sinh của một phái sinh. MACD là phái sinh bậc một của giá chứng khoán, và biểu đồ MACD là phái sinh bậc 2 của giá chứng khoán. Là phái sinh bậc 2, MACD-H khác biệt nhiều hơn so với đường giá thực của chứng khoán. Chỉ báo sai khác càng lớn so với giá chứng khoán thực, các dấu hiệu sai lệch càng lớn.Cần nhớ rằng đây là một chỉ báo của một chỉ báo. MACD-H không nên so sánh trực tiếp với giá thực của chứng khoán. Do MACD-H được xây dựng để dự đoán trước các dấu hiệu của MACD, sẽ dẫn đến việc bắt đầu trước khi sự việc xuất hiện. MACD-H nên được sử dụng cùng với những công cụ khác trong phân tích kĩ thuật. Việc này giúp cho việc phản ứng kịp thời trước những yếu tó môi trường để gia nhập sớm vào thị trường. Những công cụ khác để ngăn cản sự gia nhập sớm là kết hợp các dấu hiệu theo ngày và theo tuần. Tất nhiên là sẽ có dấu hiệu theo tuần nhiều hơn là theo ngày. Tuy nhiên, bằng cách chỉ sử dụng các dấu hiệu theo ngày tương thích với các dấu hiệu theo tuần, chúng ta sẽ chỉ còn phải làm việc với ít dấu hiệu theo ngày hơn. Bằng cách đó, đồng thời bạn cũng có thể được bảo vệ bằng cách kinh doanh với xu thế dài hạn hơn và không đi ngược lại với nó. Cần cẩn thận với các đường phân kì nhỏ và nông. Trong khi những đường này đôi khi đưa ra những dấu hiệu tốt, chúng cũng dễ tạo ra những dấu hiệu sai lầm hơn. Một phương pháp để loại trừ những đường phân kì nhỏ là tìm kiếm những đường phân kì lớn hơn với 2 hoặc nhiều hơn những đỉnh và đáy rõ ràng. So sánh những đỉnh và đáy từ những dấu hiệu trong quá khứ. Chỉ những đỉnh và đáy là các dấu hiệu mới đáng quan tâm. Relative Strength Index (RSI) Được phát triển bởi J.Wilder và được giới thiệu trong cuốn sách New Concepts in Technical Trading Systems của ông năm 1978, , RSI là 1 chỉ báo momentum đặc biệt hữu ích và thông dụng . RSI so sánh các mức lãi với các mức lỗ gần đây của cổ phiếu và chuyển các thông tin đó thành các số từ 0 đến 100. Sử dụng chu kì thời gian là tham số để tính toán. Trong cuốn sách này, J.W đề xuất việc sử dụng 14 thời kì. Cách gọi đầy đủ của RSI không may là dễ gây nhầm lẫn với các dạng phân tích mức độ tương quan khác như đồ thị RS của J.M và dãy RS của IBD. Hầu hết các loại RS khác sử dụng nhiều hơn 1 cổ phiếu trong việc tính toán. Như hầu hết các chỉ báo chính xác, để tính toán RSI chỉ cần 1 cổ phiếu. Thêm vào đó để tránh sự rắc rối, nhiều người không sử dụng cách gọi đầy đủ của RSI mà chỉ gọi là RSI. 2.2.1. Công thức tính: Để đơn giản công thức, RSI đ ược phân tích thành các thành phần cơ sở của nó là mức lãi trung bình_AG , mức lỗ trung bình_AL, RS gốc, và tiếp theo là RS hiệu chỉnh. Cho một RSI 14 thời kì, AG = tổng lãi chia cho 14. Ngay cả khi chỉ có 5 khoản lãi (hoặc lỗ) nhưng tổng của chúng vẫn được chia cho tổng số thời kì của RSI ( trong trường hợp này là 14). Cách thức tính AL cũng tương tự. Cách tính RS gốc rất dễ hiểu: chia AG cho AL. Để tính các RS tiếp theo, sử dụng AG và AL của thời kì trước để làm trơn. Chú ý : cần nhớ là AG và AL không phải là giá trị trung bình chính xác. Thay vì chia cho số thời kì lãi (lỗ) thì tổng lãi ( hoặc lỗ) luôn được chia cho số chu kì thời gian, ở đây là 14. Khi AG >AL, RSI tăng, vì RS>1. Ngược lại, khi AL> AG thì RSI giảm, vì RS<1. Phần trước của công thức đảm bảo rằng các chỉ báo sẽ nằm giữa 0 và 100. Chú ý: nếu AL tiến đến 0 thì theo định nghĩa, RSI sẽ tiến đến 100. Chú ý quan trọng: càng nhiều dữ liệu được sử dụng để tính toán RSI thì kết quả càng chính xác.Theo lý thuyết yếu tố làm trơn là tính toán liên tụcbằng cách đưa các giá trị xung quanh vào tập hợp dữ liệu. Nếu bạn bắt đầu tính RSI tại điểm giữa của tập hợp dữ liệu hiện thời , giá trị của bạn sẽ chỉ xấp xỉ giá trị RSI thực. Đồ thị Sharp sử dụng ít nhất 250 điểm dữ liệu trước thời điểm bắt đầu của bất kì đồ thị nào (giả sử rằng có rất nhiều dữ liệu) khi tính toán giá trị RSI của nó.Để tính được RSI như vậy, bạn cũng phải sử dụng ít nhất bằng ấy số liệu. 2.2.2. Ứng dụng 2.2.2.1. Mua siêu và bán siêu J.W đề cập đến việc sử dụng các mức 70 ,30 và mua siêu, bán siêu.Nhìn chung, nếu RSI tăng lên trên 30 thì được xem là bullish đối với tài sản cơ bản. Ngược lại, nếu RSI xuống dưới 70, là tín hiệu bearish. Một số nhà giao dịch xác định xu thế dài hạn, sau đó sử dụng cách đọc các điểm cực để xác định thời điểm gia nhập thị trường. Nếu xu thế dài hạn là bullish thì bán siêu có thể báo hiệu 1 thời điểm có thể ra nhập. 2.2.2.2. Phân kì Các tín hiệu mua và bán cũng có thể được xác định bằng cách tìm các đường phân kì âm và dương nằm giữa RSI và tài sản cơ bản. Ví dụ, xem xét 1 cổ phiếu xuống giá có RSI tăng,từ điểm low, chẳng hạn là 15 lên 55. Theo cách mà RSI được xây dựng , đường tài sản cơ bản thường đảo hướng của nó sau đường phân kì.Như trong ví dụ này thì đường phân kì xuất hiện sau điểm mua siêu, bán siêu, thường cung cấp các tín hiệu đáng tin cậy. 2.2.2.3. Điểm cắt đường trung tâm Đường trung tâm của RSI là 50. RSI bên trên hoặc bên dưới có thể là các chỉ báo bullish hoặc bearish. Một cách tổng quát, RSI ở trên 50 chỉ ra rằng AG cao hơn AL và RSI dưới 50 chỉ ra rằng lỗ đang chiếm ưu thế. Một số nhà gíao dịch tìm kiếm một sự dịch chuyển lên trên 50 để thông báo dấu hiệu bullish hoặc một sự dịch chuyển xuống dứới 50 chỉ ra dấu hiệu bearish. Bollingerband (BB) Được phát triển bởi J.Bollinger, bollingerbands là một chỉ báo cho phép người sử dụng so sánh độ biến động và các mức giá tương đối qua các chu kì thời gian. Chỉ báo này gồm 3 đường viền bao quanh hầu hết khoảng biến đông giá chứng khoán. Dải nằm giữa là đường SMA Dải bên trên ( SMA cộng 2 lần độ lệch chuẩn ) Dải bên dưới ( SMA trừ 2 lần độ lệch chuẩn) Độ lệch chuẩn là một thước đo thống kê tốt để đánh giá sự biến động của đồ thị giá. Sử dụng độ lệch chuẩn đảm bảo rằng các đường biên sẽ phản ứng nhanh chóng với những sự dịch chuyển giá và phản ánh các thời kì biến động cao hay thấp. Những sự tăng giá hay giảm giá mạnh có thể dẫn đến sự biến động làm mở rộng các đường biên. 2.3.1. Công thức tính Đường trung tâm là đường SMA 20 ngày. Đường biên trên là đường SMA 20 ngày cộng 2 lần độ lệch chuẩn. Đường biên dưới là SMA 20 ngày trừ 2 lần độ lệch chuẩn. 2.3.2. Cách xây dựng Giá đóng cửa thường được sử dụng để tính toán BB. Các biến khác như các mức giá điển hình ( typical price) và giá có trọng số (weighted price) cũng được sử dụng. Typical Price = (high + low + close)/3 Weighted Price = (high + low + close + close)/4 Bollinger đề xuất việc sử dụng SMA 20 ngày làm đường trung tâm và 2 lần độ lệch chuẩn để xây dựng các đường viền bên ngoài. Độ dài của trung bình trượt và số độ lệch chuẩn có thể được hiệu chỉnh cho phù hợp hơn với sở thích của cá nhân hoặc đặc điểm riêng của từng chứng khoán. Thử nghiệm và mắc lỗi là một phương pháp để xác định độ dài trung bình trượt phù hợp. Việc đánh giá trực quan giản đơn có thể được sử dụng để quyết định số chu kì thích hợp. BB nên bao quanh hầu hết khoảng biến động giá nhưng không nên là tất cả. Sau những biến đông mạnh, xuất hiện sự xuyên phá các đường biên là bình thường. Nếu các mức giá xuất hiện xa ngoài đường biên quá thường xuyên thì cần có một đường trung bình trượt dài hơn. Nếu các mức giá hiếm khi chạm tới các đường biên ngoài, thì cần rút ngắn độ dài trung bình trượt. Đối với khung thời gian chung, Bollinger đề xuất SMA 10 ngày cho chu kì ngắn, SMA 20 ngày cho chu trung bình và 50 ngày cho chu kì dài. 2.3.3. Cách sử dụng Bên cạnh việc chỉ ra các mức giá tương đối và độ biến động, BB có thể được kết hợp với đường giá và các chỉ báo khác để khái quát các dấu hiệu và báo trước các biến động. Double bottom Buy: dấu hiệu double bottom buy xuất hiện khi các mức giá xuyên phá đường biên dưới và tiếp tục bên trên đường biên dưới sau các điểm low sau đó. Một điểm low có thể hoặc cao hơn hoặc cao hơn hoặc thấp hơn các điểm khác. Điều quan trọng là điểm low thứ 2 vẫn tiếp tục ở bên trên đường biên dưới. Xu thế bullish có thể được thiết lập khi đường giá dịch chuyển lên trên đường trung tâm hay SMA. Double Top Sell: Một dấu hiệu Double Top Sell xuất hiện khi các đỉnh giá ở trên đường biên trên và các đỉnh theo sau đó không vượt quá đường biên trên. Xu thế giảm giá có thể được báo trước khi các mức giá giảm xuống dưới đường trung tâm. Những sự thay đổi gía mạnh xuất hiện ngoài các đường biên hẹp và biến động thấp. Trong trường hợp này, các bollingerbands không cho thấy bất cứ gợi ý nào về xu thế giá trong tương lai. Đường xu thế phải được xác định bằng cách sử dụng các chỉ báo khác và các lĩnh vực khác của phân tích kĩ thuật. Nhiều chứng khoán trải qua những thời kì biến động lớn theo sau những thời kì biến động thấp. Việc sử dụng bollingerbands, các chu kì này có thể dễ dàng chỉ ra bằng các đánh giá trực quan. Các đường biên hẹp cho thấy mức biến động thấp và những đường biên rộng cho thấy biến động cao. Các biến động có thể sẽ quan trong hơn đối vố những người chơi quyền chọn vì giá của quyền chọn sẽ rẻ hơn khi biến động thấp. . Chương II: Ứng dụng một số chỉ báo phân tích kĩ thuật đối với thị trường chứng khoán Việt Nam Trên đây đã trình bày một cách khái quát về lý thuyết về phân tích kĩ thuật trên thị trường chứng khoán.Trong phần này các lý thuyết trên sẽ được vận dụng để phân tích một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể là 2 cổ phiếu trong nhóm ngành Thương Mại : BBT của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết, TNA của Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thiên Nam. Giới thiệu khái quát về các cổ phiếu được lựa chọn để phân tích: Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết (Bach tuyet cotton coporation) 1.1.1. Thông tin chung Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết có tên viết tắt là COBOVINA Bạch Tuyết phát hành chứng khoán mã BBT. Công ty hoạt động trong lĩnh vực đồ dùng cá nhân, cụ thể là bông, băng y tế; băng vệ sinh phụ nữ, và các sản phẩm khác từ bông băng. Theo số liệu điều tra từ công ty, các sản phẩm y tế của công ty chiếm tới 90% tổng thị phần toàn quốc. Các sản phẩm băng vệ sinh của công ty rất nổi tiếng và phổ biến trên thị trường phía Nam (thị phần khu vực này tới 50-55%). Tuy nhiên sản phẩm của công ty còn chưa quen thuộc với người tiêu dung của các tỉnh thành phía Bắc (thị phần ở đây chỉ khoảng 5%). Vì vậy thị phần của công ty trên toàn quốc chỉ ở mức 30%. Về tình hình tài chính, công ty hiện đang có tổng vốn điều lệ là 90 tỷ đồng. Công ty bắt đầu niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 15 tháng 3 năm 2004, với tổng số cổ phiếu niêm yết là 9.000.000 cổ phiếu, và mệnh giá mỗi cổ phiếu là 10.000 đồng. Mức giá giao dịch trong phiên đầu là 21.600 đồng. 1.1.2. Một số nét khái quát về chuỗi lợi suất của cổ phiếu BBT Ký hiệu: Pt là giá cổ phiếu tại thời điểm t Rt là lợi suất của cổ phiếu tại thời điểm t Với các số liệu về giá cổ phiếu. Lợi suất của cổ phiếu được tính theo một trong hai công thức sau: Rt = (Pt-Pt-1 )/ Pt-1 (1) Hoặc Rt = ln ( Pt /Pt-1 ) (2) Trong bài này lợi suất được tính theo công thức (1). Với sự hỗ trợ của phần mềm kinh tế lượng Eviews áp dụng tính toán đối với 650 quan sát về lợi suất cổ phiếu BBT từ 15/3/2004 đến 22/2/2008 ta có các kết quả sau: Biểu đồ RBBT Bảng thống kê mô tả đối với RBBT Kiểm định tính dừng của chuỗi RBBT H0 : chuỗi không dừng H1: chuỗi dừng ADF Test Statistic -22.06341 1% Critical Value* -3.4429 5% Critical Value -2.8663 10% Critical Value -2.5693 *MacKinnon critical values for rejection of hypothesis of a unit root. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(BBT) Method: Least Squares Sample(adjusted): 2 650 Included observations: 649 after adjusting endpoints Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. BBT(-1) -0.855056 0.038754 -22.06341 0.0000 C -0.000467 0.000824 -0.566343 0.5714 R-squared 0.429350 Mean dependent var -6.01E-05 Adjusted R-squared 0.428468 S.D. dependent var 0.027770 S.E. of regression 0.020994 Akaike info criterion -4.886110 Sum squared resid 0.285156 Schwarz criterion -4.872318 Log likelihood 1587.543 F-statistic 486.7943 Durbin-Watson stat 1.972125 Prob(F-statistic) 0.000000 Kết quả kiểm định từ Eviews: DW =1.972125 cho thấy ut không tự tương quan |τqs| =22.06341> |τ0.01| =3.4429 |τqs| =22.06341> |τ0.05| =2.8663 |τqs| =22.06341> |τ0.10| =2.5693 Áp dụng tiêu chuẩn ADF, RBBT là chuỗi dừng với giá trị tới hạn là 1%, 5%, 10% Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thiên Nam (Thien Nam trading import export copration) 1.2.1. Thông tin chung Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thiên Nam có tên viết tắt là TENIMEX. Công ty hoạt động trong lĩnh vực đại lý bán lẻ, trực tiếp nhập khẩu các mặt hàng sắt thép, công nghệ phẩm, kim khí, điện máy, giấy, các máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản…Công ty hiện có số vốn điều lệ là 33 tỷ đồng. Từ 20 tháng 7 năm 2005 công ty bắt đầu niêm yết chứng khoán TNA trên sàn giao dịch thành phố Hồ Chí Minh. Tổng số cổ phiếu được niêm yết là 3.300.000 cổ phiếu với mệnh giá 10.000 đồng một cổ phiếu và mức giá giao dịch trong phiên đầu là 30.000 đồng. 1.2.2. Một số nét khái quát về chuỗi lợi suất của giá cổ phiếu TNA(RTNA) Tương tự như cổ phiếu BBT chúng ta cũng áp dụng phần mềm EVIEWS để tính toán đối với 643 quan sát về lợi suất cổ phiếu TNA từ 20/7/2005 đến 22/2/2008 ta có các kết quả sau: Biểu đồ chuỗi RTNA: Bảng thống kê mô tả: Kiểm định tính dừng của chuỗi RTNA bằng Eviews H0 : chuỗi không dừng H1: chuỗi dừng ADF Test Statistic -21.57053 1% Critical Value* -3.4430 5% Critical Value -2.8664 10% Critical Value -2.5694 *MacKinnon critical values for rejection of hypothesis of a unit root. Augmented Dickey-Fuller Test Equation Dependent Variable: D(TNA) Method: Least Squares Sample(adjusted): 2 643 Included observations: 642 after adjusting endpoints Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. TNA(-1) -0.839828 0.038934 -21.57053 0.0000 C 0.000940 0.001044 0.900174 0.3684 R-squared 0.420965 Mean dependent var 0.000120 Adjusted R-squared 0.420060 S.D. dependent var 0.034727 S.E. of regression 0.026446 Akaike info criterion -4.424317 Sum squared resid 0.447608 Schwarz criterion -4.410409 Log likelihood 1422.206 F-statistic 465.2876 Durbin-Watson stat 2.030826 Prob(F-statistic) 0.000000 Kết quả ước lượng: DW=2.030826 cho biết ut không tự tương quan. |τqs| =21.57053> |τ0.01| =3.4430 |τqs| =21.57053> |τ0.05| =2.8664 |τqs| =21.57053> |τ0.10| =2.5694 Áp dụng tiêu chuẩn ADF, RTNA là chuỗi dừng với giá trị tới hạn là 1%, 5%, 10% Ứng dụng các chỉ báo để phân tích 2 cổ phiếu TNA và BBT Như đã trình bày trong phần lý thuyết các chỉ báo sẽ được sử dụng để phân tích 2 cổ phiếu BBT và TNA trong phần này là MACD, Bollinger bands và RSI. Với sự hỗ trợ của phần mềm Metastock 10.0, chúng ta sẽ phân tích chuỗi giá đóng cửa của BBT và TNA từ ngày bắt đầu niêm yết trên sàn đến 22 tháng 2 năm 2008. Cổ phiếu BBT: Để loại bớt các biến động nhỏ và làm trơn số liệu, các đồ thị phân tích BBT được sử dụng trong bài là đồ thị theo tuần. Đồ thị 1.1: Đồ thị dưới cùng thể hiện giá của cổ phiếu BBT dưới dạng hình nến (candlestick), màu đỏ thể hiện phiên giá giảm, màu đen thể hiện phiên giá tăng; đồ thị Bollingerbands được thể hiện trên cùng khung với đò thị giá, đường SMA được thể hiện bằng đường màu xanh lục, 2 dải biên được thể hiện bằng màu xanh lam;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32989.doc
Tài liệu liên quan