Mục lục
Lời mở đầu 3
Chương І. Giới Thiệu Tổng Quan Về Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm 4
І. Khái quát chung về chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm 4
1. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của NHCT Hoàn Kiếm 4
2. Cơ cấu tổ chức của Ngân Hàng Công Thương 6
3. Các hoạt động chính của Ngân Hàng Công Thương 7
3.1. Tình hình huy động vốn 7
3.2. Cho vay, đầu tư 8
3.3. Bảo lãnh 9
3.4. Thanh toán và tài trợ thương mại 10
3.5. Ngân quỹ 10
3.6. Thẻ và ngân hàng điển tử 10
3.7. Hoạt động tín dụng 11
3.8. Hoạt động kinh doanh đối ngoại 12
3.9. Hoạt động khác 12
4. Mục tiêu phát triển 12
ІІ. Tổng quan về chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm 15
2.Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Công Thương . 17
2.1. Chức năng , nhiệm vụ 17
2.2. Thực trạng hoạt động 18
Chương 2. Rủi Ro tín dụng trong Ngân Hàng 20
І. Rủi ro tín dụng 20
1. Khái niệm 20
2. Phân loại rủi ro 20
3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến Ngân Hàng 21
ІІ. Xếp hạng nợ tín dụng 22
Chương 3. Nợ xấu trong Ngân Hàng và phân tích rủi ro 25
1. Khái niệm “Nợ Xấu” trong Ngân hàng 25
2. Phân loại nợ xấu 26
3. Các dấu hiệu nhận biết nợ xấu 27
3.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng 27
3.2. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng 29
4. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu 30
4.1. Nguyên nhân khách quan 33
4.2. Nguyên nhân chủ quan 34
5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới Ngân hàng và nền kinh tế 36
6. Các biện pháp nhằm hạn chế nợ xấu 37
6.1. Các biện pháp phòng ngừa 37
6.2. Biện pháp khắc phục 39
7. Mô hình đề xuất , để giảm thiểu rủi ro tín dụng trong Ngân Hàng 40
7.1. Xây dựng mô hình lý thuyết 40
7.2. Dữ liệu cho mô hình và giải thích các biến 43
7.3. Giải thích kết quả mô hình 44
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
Phụ lục 47
63 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4327 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Ngân Hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn. (Khoản 5, Điều 2)
- “Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng của tổ chức tín dụng.” (Khoản 6, Điều 2) và nợ xấu vẫn được hiểu là các khoản nợ hầu như không có khả năng được thanh toán và bắt buộc phải xử lý bằng bút toán xoá nợ.
Còn theo NHTW Liên minh Châu Âu quy định thì nợ xấu bao gồm các khoản nợ không thể thu hồi được như:
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ.
- Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn để lại tài sản để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
- Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh hoạc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản không còn đủ để trả nợ.
2. Phân loại nợ xấu
Theo quy định tại Điều 6, Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ban hành ngày 22/4/2005 thì nợ bao gồm năm nhóm, trong đó, những khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 là nợ xấu.
Trước hết, nợ nhóm 3 hay còn gọi là nợ đưới tiêu chuẩn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ qua hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này”.
Tiếp theo, nợ nhóm 4 hay còn gọi là nợ nghi ngờ bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khách được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này”
Cuối cùng là nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn bao gồm:
“- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ được khoanh chờ Chính phủ xử lý;
- Các khoản nợ đã cơ cầu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại
- Các khoản nợ khách được phân vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.”
3. Các dấu hiệu nhận biết nợ xấu
3.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng
Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện trong mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và phương thức quản lý, tình hình tài chính, hoạt động của khách hàng.
Trước hết là có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng như:
- Khách hàng gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích rõ ràng, minh bạch thuyết phục.
- Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu hoặc không có các báo cáo về sự đoán hay lưu chuyển tiền tệ mà không có sự giải thích minh bạch thuyết phục.
- Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ.
- Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại ngân hàng.
- Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả hoặc do việc thu hồi công nợ chậm hơn dự tính.
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã biến mất hoặc không còn tồn tại.
- Khách hàng có biểu hiện trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác, không phải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chính hoặc từ hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán. Hoặc họ có tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt là từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng hay sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện.
Thứ hai là xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Những dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của cán bộ tín dụng, bao gồm:
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh toán hay mức độ hoạt động của khách hàng.
- Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền….
- Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Khách hàng sẵn sàng từ bỏ những hợp đồng giá trị nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng lớn với các bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả năng đạt thấp hơn.
- Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý.
- Thiên tai, địch hoạ xảy, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của khách hàng.
3.2. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng
Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ phía ngân hàng. Nếu là rủi ro do ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua một số các dấu hiệu như sau:
-Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng.
- Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm soát của ngân hang .
- Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập...
- Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả hiệp các nguyên táce tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn.
- Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn ưu tiên.
- Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ chức tín dụng khác.....
4. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu
Nợ xấu phát sinh do đâu?
Những nguyên nhân phát sinh nợ xấu mà công tác tín dụng thường gặp phải là:
Thứ nhất, về công tác thẩm định. Trừ một số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định quá hời hợt của cán bộ tín dụng. Do không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt trong phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
Thứ hai, là nguồn cung cấp thông tin. Thực sự, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan,... để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp. Trừ những doanh nghiệp lớn, các công ty cổ phần do yêu cầu phải kiểm toán cáo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống kế toán của chúng ta còn nhiều bất cập và chưa hoàn toàn thống nhất với các chuẩn mực của hệ thống kế toán thế giới. Thậm chí còn có doanh nghiệp sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.
Xử lý tài sản đảm bảo, nợ xấu còn nhiều gian nan
Trên thực tế ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Hầu hết các khoản vay của khách hàng đều có tài sản đảm bảo nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ là hết sức khó khăn. Loại trừ một số ít tài sản được định giá vượt khung, tài sản gặp rắc rối về quyền sở hữu, các tài sản đầy đủ giấy tờ sở hữu cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình xử lý. Sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật cũng làm cho ngân hàng lúng túng trong việc xử lý. Ví dụ, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT -NHNN-BTP- BTC-TCĐC giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 quy định tổ chức tín dụng không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Theo khoản 3, Mục III của Thông tư này, nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên thì tổ chức tín dụng phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra toà. Trong khi đó, Nghị định số 178 lại cho phép tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản đảm bảo nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên. Việc này làm phát sinh những khó khăn trong thực tế như sau: + Trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng buộc điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được toàn quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ”. Trên thực tế, nếu không đạt được sự thoả thuận với khách hàng hoặc khách hàng không hợp tác, cố tình chây kỳ để kéo dài thời gian trả nợ thì ngân hàng chỉ còn cách chuyển hồ sơ khởi kiện.
+ Luật pháp và các công cụ thực thi pháp luật chưa thực sự nghiêm minh, chưa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý tài sản đảm bảo mà không có sự can thiệp của Toà án. Do đó, dù có phán quyết của Toà, ngân hàng vẫn còn gặp trở ngại vì khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá... Từ lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ mất ít nhất 2 năm, trung bình mất 8-9 năm.
+ Một khó khăn khác mà ngân hàng thường gặp phải là khi tài sản của doanh nghiệp là các máy móc thiết bị chuyên dùng có giá trị cao thì rất khó thanh lý. Khi bán được thì phải ưu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu vì hầu hết các thiết bị này đều được miễn thuế nhập khẩu vì thường được coi là tài sản cố định khi thành lập công ty.
Để hỗ trợ các Ngân hàng thương mại nâng cao năng lực tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn hướng dẫn việc bán nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại nhà nước cho Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC). Đây là một bước xây dựng thị trường mua bán nợ, hướng đi quan trọng để xử lý nợ xấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng gặp không ít khó khăn. Trong tay DATC không có những cơ chế riêng làm công cụ xử lý nợ. DATC cũng chưa có đủ năng lực tài chính để thực hiện mua bán nợ. Và không phải khoản nợ nào cũng dễ mua hoặc bán được. Với tâm lý sợ trách nhiệm, sợ mất quyền lợi, các doanh nghiệp nhà nước lại chọn phương cách treo nợ hơn là bán đấu giá thấp cho DATC. Ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu đặt ra cho DATC là phải hoạt động vừa nhằm lành mạnh hoá tài chính thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vừa theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Do đó để bảo toàn vốn, DATC phải cân nhắc lựa chọn những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn. Do đó điều này đã làm chậm lại quá trình xử lý nợ cũng như số lượng các khoản xử lý được. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xử lý nợ tồn đọng thường gắn liền và phục vụ một chính sách kinh tế cụ thể tuỳ theo bối cảnh riêng từng quốc gia chứ không đơn thuần chỉ nhằm xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia,... không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động chính cho tổ chức xử lý nợ. Thay vào đó họ chỉ yêu cầu các tổ chức xử lý nợ phải tối đa hoá giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lý nợ tồn đọng.
Mặt khác ở Việt Nam, mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các tổ chức tín dụng, giữa DATC với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chưa được điều chỉnh, hầu hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ. Chính vì thế mà DATC xử lý nợ mang nặng tính thủ tục, chưa có “hơi thở” thị trường. Trong quá trình xử lý nợ, có trường hợp ngân hàng đã mời DATC cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, DATC yêu cầu làm một công văn đề nghị bán nợ. Do chưa có hệ thống thẩm định nợ xấu nên sau đó, chi nhánh nhận được giá chào mua rất thấp chỉ khoảng 20% giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán nợ cho DATC theo tỷ lệ nào.
4.1. Nguyên nhân khách quan
Trước hết, các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ, sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng…gây ra những biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Điều này có thể làm cho khách hàng mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân khách quan thứ hai là sự thay đổi trong cơ chế, chính sách như: Chính trị, sự điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hay tách ra của các Bộ, Ngành trong nền kinh tế. Những sự thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhưng đôi khi, cũng có tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến ngân hàng và khách hàng dẫn tới làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Nhân tố tiếp theo tác động vào quan hệ tín dụng này là thông tin không đầy đủ. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng rất dễ gặp các rủi ro như khách hàng cố tình vi phạm, che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin về mình (lập báo cáo tài chính thiếu trung thực, sử dụng vốn vay sai mục đích...). Khách hàng thì do không có đầy đủ thông tin về thị trường sẽ dẫn tới những quyết định kinh doanh sai lầm. Do đó, việc sản xuất kinh doanh không đáp ứng nhu cầu và dẫn tới làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, môi trường pháp lý cũng tác động tới quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp và tạo ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.
Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tài chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào trong nền kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho vay thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng phương hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác, không đầy đủ và không nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn tới rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án xin vay thì họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay. Hoặc người cán bộ tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng sinh lời cũng như những rủi ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng vì một lý do nào đó vẫn cố ý cho vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong những trường hợp như vậy thì khả năng mất vốn của Ngân hàng là rất cao.
Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ.
Thứ tư là do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn mức tín dụng tối đa cho từng lkhách hàng thuộc từng ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm, địa phương khách nhau để phân tán rủi ro, chưa có các tiêu thức đo lường rủi ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với mỗi đối tượng khách hàng.
Nguyên nhân thứ năm là thuộc về phía khách hàng. Trước hết, khả năng quản lý của khách hàng yếu kém sẽ dẫn tới sử dụng khoản vay không có hiệu quả, dễ thua lỗ. Tiếp theo, doanh nghiệp không chịu thu thập, tìm hiểu thông tin về thị trường, sản phẩm, đối tượng khách hàng sẽ dẫn tới những quyết định sai lầm trong kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp dễ dàng lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản. Một phần nữa cũng quan trọng không kém là đạo đức của khách hàng. Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn của ngân hàng chẳng những yếu kém về năng lực kinh doanh mà còn thiếu cả tư cách đạo đức. Phần lớn trong số họ đều mong muốn thành đạt trong kinh doanh để có điều kiện trả nợ cho ngân hàng, tuy nhiên, cũng không hiếm những người chỉ mong muốn lừa đảo, chiếm đoạt lấy tiền từ ngân hàng vào những mục đích xấu xa khác như cờ bạc, hụi đề. Thông thường, những khách hàng này đều xuất trình những dự án rất sáng sủa, những lời hứa hẹn hoa mỹ. Các nhà ngân hàng một phần thì thiếu kinh nghiệm, phần nữa có thể do tham một chút lợi nhỏ nên đã đầu tư vào những dự án này và đương nhiên là sẽ gặp rủi ro.
5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới Ngân hàng và nền kinh tế
Nhìn chung, đối với mỗi ngân hàng thì nợ xấu có tác động trực tiếp tới hoạt động của chính bản thân nó và từ đó tác gây ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng. Những ảnh hưởng này sẽ dẫn tới làm nguy hại cho nền kinh tế.
Trước hết, những khoản nợ này làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức tín dụng, giảm vòng quay của vốn, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Thứ hai, chi phí phát sinh nợ xấu là rất lớn (bao gồm chi trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khách liên quan). Chi phí tăng cao ngoài dự kiến và những chi phí này làm giảm đáng kể, thậm chí gây lỗ cho các ngân hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh. Ngân hàng mất vốn phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xoá nợ, ngoài một phần mà ngân sách cấp bù thì phần chủ yếu là do các ngân hàng phải trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro. Điều này sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Ngoài ra, khi tỉ lệ nợ quá hạn quá cao, vượt qua giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế, không thực hiện đúng cam kết mở L/C, uy tín của hệ thống NHTM trong nước và quốc tế sẽ giảm sút, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng.
Đồng thời, nợ xấu còn hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, nợ xấu tác động trực tiếp đến khả năng tài chính của tổ chức tín dụng khi phân tích, đánh giá tình hình tài chính hoạt động của ngân hàng, là yếu tố bất lợi cho khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập, phát triển của ngân hàng.
6. Các biện pháp nhằm hạn chế nợ xấu
6.1. Các biện pháp phòng ngừa
Trước hết, các ngân hàng thương mại phải thực hiện thẩm định các điều kiện vay vốn. Đây là một khâu quan trọng, không thể thiếu được trang quy trình cho vay và quản lý khoản vay. Nó giúp cho ngân hàng thương mại phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn của khoản vay để đưa ra các quyết định cho vay hợp lý, hạn chế được nợ xấu cho ngân hàng. Quy trình thẩm định điều kiện vay vốn của một khoản vay thì bao gồm các bước như sau:
- Kiểm tra hồ sơ vay vốn (bao gồm hồ sơ khách hàng, hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay) và mục đích vay vốn.
- Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh, dự án vay vốn
- Kiểm tra, xác minh lại các thông tin
- Thực hiện phân tích ngành
- Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn bao gồm: tư cách năng lực pháp lý, năng lực quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp, tình hình hoạt động và khả năng tài chính…
- Dự kiến lợi ích ngân hàng sẽ nhận được nếu khoản vay được phê duyệt.
- Phân tích, thẩm định phương án kinh doanh, dự án đầu tư để đưa ra kết luận về tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra.
- Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay.
Biện pháp thứ hai là thực hiện chấm điểm tín dụng khách hàng. Chấm điểm tín dụng khách hàng là việc đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng đối với ngân hàng như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định rủi ro hoạt động cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính sẵn có của khách hàng tại thời điểm thực hiện chấm điểm tín dụng. Việc chấm điểm tín dụng nhằm giúp cho Ngân hàng thương mại trong việc đưa ra các quyết định cấp tín dụng : xác định hạn mức tín dụng đối với khách hàng, số tiền cho vay, thời hạn, mức lãi suất, mức phí, biện pháp bảo đảm tiền vay. Ngoài ra, nó còn giúp ngân hàng giám sát, đánh giá khách hàng khi khoản tín dụng còn dư nợ để phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất thường của khách hàng, khoản vay, từ đó có những biện pháp đối phó, hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
Biện pháp thứ ba là thực hiện giám sát quản lý chặt chẽ khoản . Việc kiểm tra, giám sát khoản vay được thực hiện sau khi cho vay nhằm bảo đảm người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, đôn đốc hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn, đồng thời, có các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết
Thứ tư là thực hiện bảo đảm tiền vay. Biện pháp này nhằm tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Nó giúp nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện được hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước được và phòng ngừa sự gian lận của khách hàng đi vay. Bảo đảm tiền vay phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Trường hợp khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lành vẫn chưa thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
Phần chênh lệch thừa sau khi xử lý vẫn phải được giữ để bảo đảm cho nghĩa vụ tín dụng khác còn đang tồn tại tại ngân hàng (nếu có thoả thuận).
6.2. Biện pháp khắc phục
Khi phát hiện ra khoản vay có vấn đề hoặc tài sản bảo của khách hàng có dấu hiệu sút giá so với ban đầu hoặc giá trị tài sản bảo đảm thấp so với giá trị khoản vay, cán bộ tín dụng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm nợ vay. Việc bổ sung này sẽ giúp làm tăng giá trị tài sản bảo đảm của khoản vay. Nếu trong trường hợp xảy ra rủi ro mất vốn thì tổn thất của ngân hàng sẽ giảm đi. Đồng thời, thêm một phần tài sản bị đem đi làm vật bảo đảm cho ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm giữ lại những tài sản đó.
Bên cạnh đó, nếu cán bộ tín dụng thấy có dấu hiệu khách hàng làm ăn không có hiệu quả thì cũng phải chú ý. Đây là một trong những nguy cơ làm tăng nợ xấu cho ngân hàng. Khi thấy những dấu hiện trên thì cán bộ tín dụng phải kịp thời đưa ra những biện pháp phòng ngừa, g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Ngân Hàng.DOC