Chuyên đề Phân tích tác động gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam

“ Hiệp định nông sản phẩm” phân chia sự trợ giá sản xuất đối với nông sản phẩm làm hai loại lớn là trợ giá đèn xanh và trợ giá đèn vàng và quy định tương đối tỉ mỉ pạhm vi mỗi loại.

 - Trợ giá đèn xanh là chỉ không có cung cấp sự giúp đỡ giá cả đối với người sản xuất, không có trợ giá hoặc chỉ trợ giá một ít đối với thương mại nông sản phẩm, chủ yếu gồm:

 + Một là, Quỹ cộng đồng hoặc chi ngân sách cung cấp dịch vụ sản xuất nông nghiệp chung chung. Bao gồm nghiên cứu hạng mục môi trường và nghiên cấm sản phẩm đặc biệt, kiểm soát sâu bọ phá hoại, việc bồi dưỡng nhân viên khoa học kĩ thuật nông nghiệp và thao tác sản xuất, phổ biến kĩ thuật và dịch vụ tư vấn, dịch vụ giám định, dịch vụ thúc đẩy bán trên thị trường, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp.

 + Hai là, chi phí cất giữ để bảo đảm sự cung cấp thực phẩm.

 + Ba là, trợ giá viện trợ thực phẩm và trợ giá hộ gia đình riêng.

 + Bốn là, trợ giá bảo đảm sự thu nhập nông nghiệp nói chung. Loại trợ giá này cần phải phù hợp các tiêu chuẩn sau đây.

 

doc48 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 2537 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tác động gia nhập WTO của Việt Nam đối với xuất Khẩu cà phê của Tổng công ty cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p khẩu tương tự. Xác định trị giá tính thuế theo trị giá khấu trừ, tức khấu trừ các chi phí tiền hoa hồng, phí vận chuyển, bảo hiểm, thuế, thuế nội địa. Xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán, nghĩa là nếu không xác định được trị giá tính thuế theo các cách trên thì áp dụng phương pháp này. Trị giá này bao gồm: Chi phí để sản xuất hàng hóa ; lợi nhuận của việc sản xuất hàng hóa; các chi phí có liên quan tới việc nhập khẩu như vận chuyển, xếp dỡ hàng, phí bảo hiểm. Xác định trị giá tính thuế theo suy đoán hợp lý, đây là phương pháp cuối cùng nếu không xác định được các phương pháp đã nêu. - Hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu: Hiệp định này dựa trên một nguyên tắc cơ bản là tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là nhập khẩu; giảm thiểu các thủ tục, giấy tờ không cần thiết gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động thương mại. Ưu điểm nổi bật của hiệp định này là nó yêu cầu các nước thành viên buộc phải công bố cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong nước và cả các cơ quan chức năng liên quan đầy đủ thông tin về thủ tục cấp giấy nhập khẩu để xác định cụ thể trách nhiệm của từng loại đối tượng. Doanh nghiệp cần lưu ý là hệ thống cấp giấy phép gồm tự động và không tự động tùy thuộc vào việc một chính phủ nước thành viên có chủ trương hạn chế hoặc không hạn chế việc nhập khẩu một mặt hàng hoặc ngành hàng nhất định. Như vậy việc gia nhập WTO đã chấm dứt cảnh một mình một chất. Một trong những khó khăn mà các doanh nghiệp cuả Việt Nam phải đương đầu khi khi trở thành thành viên của WTO là sự không tương thích của hàng loạt các quy định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Những quy định này đã làm cho doanh nghiệp phải quan tâm và có hướng phù hợp nhằm thích ứng với nó như: Một mặt doanh nghiệp phải nỗ lực để tiếp cận với các tiêu chuẩn quốc tế, mặt khác tốt hơn là đề ra bộ tiêu chuẩn của chính mình và hoàn thiện nó bằng việc chắt lọc tinh túy các tiêu chuẩn quốc tế, áp dụng phù hợp với năng lực của mình, rồi có bước đi phù hợp để nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Những nhân tố thuộc về chế biến cà phê; Đối với lĩnh vực sản xuất hàng nhập khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng công nghệ có tác dụng làm tăng hiệu quả của công tác này. Các thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ quý cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới có chất lượng cao và mẫu mã đa dạng hơn. Điều này thấy rõ nhất là sự phát triển của bưu chính, viễn thông, tin học và các đơn vị ngoại thương có thể đàm phán, ký kết hợp đồng với các đối tác quan điện thoại, điện tín... giảm chi phí đi lại. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hóa, bảo hiểm hàng hóa, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng .....Đó cũng là nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Để tăng tính cạch tranh của sản phẩm cà phê trên thị trường thế giới thì công nghệ là yếu tố không thể thiếu được. Công nghệ trồng trọt, thu hái, chế biến hiện đại sẽ là tăng giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm. Đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến cà phê phát triển sẽ làm gia tăng các sản phẩm xuất khẩu tinh thay thế hoàn toàn chiến lược xuất khẩu cà phê nhân. Tăng xuất khẩu tinh vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Nhân tố thuộc về nguồn sản lượng cà phê: Phát triển thị trường cà phê xuất khẩu phải gằn liền với khả năng đảm bảo nguồn cà phê xuất khẩu ổn định đó là điều kiện cần và đủ để tồn tại và phát triển nguồn cung cấp cà phê ở nước ta. Nếu nguồn sản lượng cung cấp không ổn định sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn trong việc thu gom hàng xuất khẩu, đặc biệt là mặt hàng cà phê phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường. Nhân tố văn hóa – xã hội: Bao gồm, lối sống, trình độ giáo dục, các hình thức truyền thống, các phong tục tập quán của một quốc gia và các quy tắc, tiêu chuẩn về đạo đức luân lý... Đây là những nhân tố có sự biến động rất lớn tác động mạnh mẽ tới việc phát triển thị trường cho hàng cà phê. Hàng cà phê không chỉ đơn thuần đáp ứng nhu cầu về thưởng thức, giải trí, nhu cầu nâng cao địa vị xã hội, đó là giá trị văn hóa của sản phẩm cà phê. Mỗi quốc gia có một nền văn hóa khác nhau, cho nên nhu cầu về hàng cà phê cũng khác nhau. Sự khác biệt đó ảnh hưởng tới việc mở rộng thị trường tiêu thụ mặt hàng cà phê. Bên cạnh đó, dân số và xu hướng vận động của dân số sẽ ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. Ngoài ra, việc mở rộng thị trường tiêu thụ còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố thuộc về lợi thế so sánh. So với một số ngành khác, ngành cà phê là ngành đòi hỏi đầu tư vốn ít và có mức lợi chắc chắn hơn, hơn nữa ngành cà phê là ngành sử dụng nhiều lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động hạn chế những tiêu cực do thất nghiệp gây ra. Hàng cà phê của Việt Nam có lợi thế hơn so với các ngành khác là do đầu tư vốn ít nhưng thu hồi vốn nhanh và lôi cuốn được nhiều lao động. So với một số nước trong khu vực, nước ta có lợi thế vượt trội ( Việt Nam trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu trải dài theo phương kinh tuyến từ 80 30’ đến 230 30’ vĩ độ Bắc. Điều kiện khí hậu và địa lý rất thích hợp với việc phát triển cà phê đã đem lại cho cà phê Việt Nam một hương vị rất riêng. Miền địa lý khí hậu phí Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta (hay còn gọi là cà phê vối). Miền khí hậu phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê Arabica (hay còn gọi là cà phê chè). Đó là vùng chủ yếu quy hoạch phát triển cà phê Arabica của Việt Nam. Nhân công của Việt Nam cần cù, chịu khó, giá cả nhân công rẻ... là yếu tố cấu thành hạ giá thành sản phẩm cà phê, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cà phê trên thị trường quốc tế) Vì vậy, cần nhanh chóng tận dụng triệt để các lợi thế cũng như cơ hội để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng cà phê của Việt Nam vào các thị trường truyền thống và xâm nhập vào các thị trường tiềm năng khác. 1.1.3. Tác động của gia nhập WTO đối với xuất khẩu cà phê: 1.1.3.1. Giới thiệu khái quát về WTO : * WTO là tổ chức thương mại thế giới được thành lập năm 1995 tiền thân là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 gọi tắt là GATT ( General Agreement on Tariffs and Trade) bắt đầu chính thức có hiệu lực từ năm 1948. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi hệ thống thuộc địa kiểu cũ không còn thì Anh cùng một số nước lập ra một số loại hình tổ chức kinh tế có tính quốc tế như: IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), ITO (Tổ chức thương mại quốc tế), GATT... Nhằm gây ảnh hưởng và truyền bá “giá trị phương tây”, chủ yếu là “ Giá trị Mĩ ”, trong điều kiện có hai thái cực thế giới – Tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. GATT được hình thành dưới hình thức nhiều bên với 23 nước “nghị định thư”, sau gọi là “ Hiệp định chung”, cho đến năm 1994 đã có 111 nước tham gia. Đến năm 1995 ra đời WTO với tư cách là tổ chức kinh tế thế giới – có những điều lệ, quy định chặt chẽ hơn, nói đúng hơn là bớt lỏng hơn GATT hoặc ITO trước kia. Hiện nay đã có 150 nước tham gia ( Việt Nam là thành viên thứ 150 của WTO -1/1/2007) có trụ sở ở Geneve - Thụy Sĩ, có chủ tịch và ban thư kí chuyên trách, hiện có biên chế hơn 500 người. Những nước giàu thường có vài chục người đại diện ở WTO, những nước nghèo thường ít hơn, thậm chí kiêm nghiệm (làm cán bộ Đại sứ hoặc không có). Những thành viên có thực lực và kinh nghiệm thương trường, theo đó có tiếng nói áp đảo trong WTO là Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada... và nổi trội hơn cả vẫn là Mỹ. Với sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu khi chủ nghĩa xã hội không còn là một hệ thống chặt chẽ thì WTO trở thành công cụ cho một thị trườg thế giới thống nhất của CNTB hiện đại. Mỹ đã biến WTO thành một “câu lạc bộ kinh tế”, “một diễn đàn kinh tế”, một thương trường vô cùng rộng lớn, chiếm 90% lượng hàng hóa lưu thông trên thế giới mặc nhiên hoạt động theo quỹ đạo của các nước tư bản phát triển, giàu có nhất thế giới, đứng đầu là Mỹ. Điều đó vừa nói lên rằng các nước đang phát triển và kém phát triển không thể không tham gia vào WTO, đồng thời cũng nói lên rằng khi tham gia vào WTO sẽ là một thách thức mà WTO quy định đối với mỗi thành viên. WTO được tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo 5 nguyên tắc: - Nguyên tắc thứ nhất: Thương mại không có sự phân biệt đối xử. Nguyên tắc này thể hiện ở hai nội dung: + Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành viên khác sự đối xử không kém ưu đãi hơn so với sự đối xử mà thành viên đó dành cho sản phẩm của một nước thứ ba (gọi là quy chế đãi ngộ tối huệ quốc – MFN) + Mỗi thành viên sẽ không dành cho sản phẩm của công dân nước mình sự đối sử ưu đãi hơn so với sản phẩm của người nước ngoài (gọi là quy chế đãi ngộ quốc gia – NT) - Nguyên tắc thứ hai: Thương mại phải ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán. Nguyên tắc này của WTO nhằm đảm bảo thương mại giữa các quốc gia ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp các hàng rào thương mại để thúc đẩy buôn bán. - Nguyên tắc thứ ba: Minh bạch hóa, ổn định và có thể dự báo được. Nguyên tắc này nhằm ràng buộc các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo được trong thương mại quốc tế. - Nguyên tắc thứ tư: Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. Nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. - Nguyên tắc thứ năm: Dành cho các nước thành viên là nước đang phát triển một số ưu đãi. Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách. 1.1.3.2. Các quy định của WTO về xuất khẩu hàng nông sản đối với các tổ chức thành viên: Trong thương mại thế giới, thương mại hàng nông sản phẩm là vấn đề rất nhạy cảm, rất phức tạp, nó liên quan đến nhiều vấn đề như chiến lược an toàn lương thực, nhân tố chính trị, môi trường địa lý và khí hậu, cơ cấu sản xuất, việc làm, lợi ích xuất khẩu, nhân khẩu của một nước. Dựa trên những nguyên nhân này, các nước trên thế giới đều đang thực hiện rất nhiều chính sách và biện pháp, gây rối nghiêm trọng trật tự thương mại nông sản phẩm, trong vòng đàm phán Uruguay, các bên kí kết đã đạt được “Hiệp định nông sản phẩm” nên đã giải quyết vấn đề tự do hóa thương mại nông sản phẩm. “ Hiệp định nông sản phẩm” gồm ba nội dung sau: 1.1.3.2.1.Mở rộng thị trường cho phép nhập: Mở rộng thị trường cho phép nhập là xác định rõ, cắt giảm hoặc loại bỏ về các biện pháp thuế quan và phi thuế quan gây trở ngại đi vào thị trường mà các bên ký kết thực thi trong thương mại nông sản phẩm. Cụ thể bao gồm: - Thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan. Các biện pháp phi thuế quan thực thi trong thương mại nông sản phẩm như hạn chế số lượng nhập khẩu, các loại thuế chênh lệch giá nhập khẩu, giá nhập khẩu thống nhất cho phép hạn chế hạn ngạch các bên thành viên cần phải trước hết chuyển đổi thành những biện pháp, thuế quan có mức độ bảo hộ như nhau, sau đó giảm dần tỷ suất thuế nhẩp khẩu. Cách làm cụ thể là, lấy giá trị trung bình các năm từ năm 1986 – 1988 làm cơ sở căn cứ mức chênh lệch giá trong và ngoài, chuyển hóa các loại biện pháp phi thuế quan thành thuế quan cùng hạn ngạch, lại cộng thêm tỷ suất thuế quan bình thường hiện hành của sản phẩm chịu ảnh hưởng của biện pháp phi thuế quan, tạo lên thuế quan hỗn hợp. Nhưng thuế quan hóa của biện pháp phi thuế quan có 3 ngoại lệ: + Một là, biện pháp sử dụng để duy trì và cân bằng thanh toán quốc tế. + Hai là, biện pháp bảo vệ nói chung, căn cứ GATT năm 1994 hoặc các hiệp định khác của WTO, đặc biệt là những biện pháp phi thuế quan có liên quan đến nông nghiệp, không chịu sự ràng buộc thuế quan hóa. + Ba là, nếu một thành viên nào đó tự nguyện cam kết cung cấp tiêu chuẩn cho phép vào thị trường thống nhất, thì có thể lựa chọn biện pháp tiếp tục duy trì phi thuế quan. - Cắt giảm thuế quan nhập khẩu nông sản phẩm. Các thành viên cần cam kết dựa theo tỷ lệ phần trăm nhất định tiến hành cắt giảm thuế quan ràng buộc. Thành viên các nước phát triển từ năm 1995 – 2001 cắt giảm bình quân 30% thuế quan nhập khẩu và đảm bảo tỷ lệ cắt giảm mỗi mục thuế không thấp hơn 15%. Thành viên nước đang phát triển từ năm 1995 – 2005 cắt giảm bình quân thuế quan nhập khẩu 24 %, và đảm bảo mỗi năm tỷ lệ cắt giảm mỗi hạng mục thuế không thấp hơn 10%. Mỗi năm cắt giảm với số lượng bằng nhau. Nếu sản phẩm không chịu sự hạn chế biện pháp phi thuế quan, việc cắt giảm thuế quan của sản phẩm lấy mức thuế quan ràng buộc làm cơ sở để tính toán. Nếu thuế quan không bị ràng buộc thì cắt giảm thuế quan lấy mức thuế quan ngày 1 tháng 9 năm năm 1986 làm cơ sở, các nước chậm phát triển mặc dù cũng đặt sự ràng buộc mức cao nhất của thuế quan của họ, nhưng không có nghĩa vụ cắt giảm thuế quan tương quan. - Hạn ngạch thuế quan sau khi thuế quan hóa biện pháp phi thuế quan. Có loại thuế quan vẫn ở mức rất cao, nó cũng sẽ gây trở ngại cho sự phát triển thương mại nông sản phẩm. “Hiệp định nông sản phẩm” quy định, đối với thuế quan hóa thực hiện quota thuế quan để quản lý. Thành viên thực hiện quota thuế quan cần phải cam kết số lượng cho nhập quota thuế quan hàng năm. Nhập khẩu vượt quá lượng cho phép nhập, thu thuế quan theo tỷ suất thuế của thuế quan hóa. Lượng cho phép nhập hạn ngạch thuế quan cần ít nhất duy trì mức cho phép nhập của thị trường thực tế hiện hành tức không thấp hơn lượng nhập khẩu bình quan 3 năm gần đây nhất nếu lượng nhập khẩu này không đạt được 3% lượng tiêu dùng bình quân năm gần đây ở trong nước thì cần xác định lượng hạn ngạch là 3% và cam kết tăng số lượng nhất định, đến cuối thời kỳ thực hiện đạt 5%. Lượng cho phép nhập hạn ngạch thuế quan nói ở đây chỉ là cơ hội cho phép nhập của thị trường không phải là nghĩa vụ mua thấp nhất. Cũng có nghĩa là nếu thành viên cam kết cho phép nhập hạn ngạch là 10 triệu T, kôg có nghĩa là lượng nhập khẩu thực tế của thành viên này cần phải đạt đến 10 triệu T. Nếu thị trường trong nước không có nhu cầu, thành viên này thậm chí hoàn toàn có thể không. - Biện pháp thủ vệ đặc thù, sau khi thuế quan hóa biện pháp phi thuế quan của nông sản phẩm, nếu nhập khẩu tăng rất mạnh và gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước, thành viên WTO có thể sử dụng điều khoản tự vệ của “GATT năm 1994”, biện pháp tự vệ đặc thù được quy tính trong “Hiệp định về biện pháp tự vệ” và “Hiệp định nông sản phẩm” để bảo hộ lợi ích bản thân mình. Nhưng chỉ chọn một trong những biện pháp đã được quy định trong hiệp định trên không thể đồng thời sử dụng cả hai. Hai nữa, các thành viên khi vận dụng biện pháp tự vệ đặc thù cần báo trước hoặc trong mười ngày khi sử dụng hành động, thông báo cho Ủy ban nông nghiệp WTO, và cần tạo cơ hội bàn bạc với thành viên có quan hệ lợi và hại. 1.1.3.2.2. Cắt bỏ trợ giá sản xuất nông sản phẩm: “ Hiệp định nông sản phẩm” phân chia sự trợ giá sản xuất đối với nông sản phẩm làm hai loại lớn là trợ giá đèn xanh và trợ giá đèn vàng và quy định tương đối tỉ mỉ pạhm vi mỗi loại. - Trợ giá đèn xanh là chỉ không có cung cấp sự giúp đỡ giá cả đối với người sản xuất, không có trợ giá hoặc chỉ trợ giá một ít đối với thương mại nông sản phẩm, chủ yếu gồm: + Một là, Quỹ cộng đồng hoặc chi ngân sách cung cấp dịch vụ sản xuất nông nghiệp chung chung. Bao gồm nghiên cứu hạng mục môi trường và nghiên cấm sản phẩm đặc biệt, kiểm soát sâu bọ phá hoại, việc bồi dưỡng nhân viên khoa học kĩ thuật nông nghiệp và thao tác sản xuất, phổ biến kĩ thuật và dịch vụ tư vấn, dịch vụ giám định, dịch vụ thúc đẩy bán trên thị trường, xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp. + Hai là, chi phí cất giữ để bảo đảm sự cung cấp thực phẩm. + Ba là, trợ giá viện trợ thực phẩm và trợ giá hộ gia đình riêng. + Bốn là, trợ giá bảo đảm sự thu nhập nông nghiệp nói chung. Loại trợ giá này cần phải phù hợp các tiêu chuẩn sau đây. Số thiệt hại về thu nhập của người sản xuất được trợ giá cần phải cao hơn 30% thu nhập bình quân toàn thể người sản xuất nông nghiệp, hoặc sự thiệt hại này cao hơn 30% thu nhập bình quân hàng năm bình thường của họ, trợ giá có liên quan cần nhằm giúp đỡ giảm bớt thu nhập này, không nhằm vào sản xuất và sản lượng tổng số trợ giá cần phải ít hơn 100% thiệt hại thu nhập. + Năm là, trợ gia thiệt hại thiên tai: Tiêu chuẩn của trợ giá này là: Cần phải dựa trên sự thiệt hại thực tế xảy ra, cần phải dựa vào thiệt hại thực tế( gồm thiệt hại thu nhập, thiệt hại gia xúc, thiệt hại đất đai và các yếu tố sản xuất khác); số lượng trợ giá không được cao hơn số thiệt hại thực tế. + Sáu là, Sự trợ giá điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Cụ thuể bao gồm: Kế hoạch thôi sản xuất của những người sản xuất và đã từng tiêu thụ thuận lợi nông sản phẩm: đất đai và các tài nguyên khác trong sản xuất nông sản phẩm có thể tiêu thụ được bao gồm kế hoạch luân phiên của chăn nuôi gia xúc. Sự giúp đỡ đầu tư để giúp đỡ người sản xuất thực hiện điều chỉnh ngân sách trong kinh doanh hoặc điều chỉnh cơ cấu hiện vật. - Bảy là, cung cấp trợ giá phát triển khu vực cho những khu vực có điều kiện sản xuất nông nghiệp rõ ràng không thuận lợi. Khu vực nhận viện trợ cần dựa trên sự xác định tiêu chuẩn hợp lý rõ ràng cái gọi là “ điều kiện sản xuất không thuận lợi” cần phải có tính lâu dài, loại trợ giá này cần phải đảm bảo cho đông đảo những người sản xuất nông nghiệp trong khu vực có thể nhận được, hạn ngạch trợ giá này cần hạn chế ở mức cao hơn giá thành sản xuất bình quân nói hcung so với giá thành sản xuất bình quân khu vực. Sự vận dụng những biện pháp trợ giávậy cần có sự giám sát của WTO, nhằm đề phòng biến thành sự giúp đỡ giá cả trong nước đối với nông sản phẩm. - Trợ giá đèn vàng: Đây là sự bù giá cần phải có nghĩa vụ cắt giảm, chủ yếu bao gồm sự trợ giá hình thành sự giúp đỡ giá cả trong nước đối với nông sản phẩm. “ Hiệp định nông sản phẩm” quy định, sự trợ giá đền vàng của các nước phát triển cần trong thời kỳ thực thị hiệp định ( 6 năm) dựa theo mức cơ số ( mức bình quân trợ giá từ năm 1986 – 1988) cắt giảm 20 % trong đó EU cắt giảm 17%, Nhật bản và Mỹ cắt giảm 20%, các nước đang phát triển trong thời kỳ thực thi(10 năm) cắt giảm 13,3% tổng khối lượng bình quan hàng năm. Sau khi thực hiện hiệp định, tổng số trợ giá của bên tham gia sẽ từ 19,7 tỷ USD giảm xuống còn 16,2 tỷ USD, biên độ cắt giảm là 18%. Hiệp định quy định những trợ giá sau đây không thuộc diện trợ giá đèn vàng, không có nghĩa cắt giảm: + Một là, mỗi năm cấp cho một sản phẩm cụ thể một số trợ giá không có hơn 5% (nước phát triển) hoặc 10%( nước thuộc lãnh thổ đanh phát triển) giá trị sản lượng hàng năm của sản phẩm ấy. + Hai là, Sự trợ giá trong nước không dựa theo sự phân chia sản phẩn cụ thể, nếu tổng số lượng trợ giá của họ không cao hơn 5% (nước phát triển) hoặc 10% (nước và lãnh thổ đang phát triển) tổng giá trị sản phẩm nông sản phẩm năm ấy. Ngoài ra, sự trợ giá cao của sản lượng hạn chế (sản lượng nông sản phẩm có liên quan hạn chế dưới 15% của mức thời kì gốc) cũng không thuộc phạm vi cam kết cắt giảm. 1.1.3.2.3. Cắt giảm trợ giá xuất khẩu nông sản phẩm: Trợ giá xuất khẩu nông sản phẩm chủ yếu gồm: - Một là, chính phủ hoặc cơ quan đại lý căn cứ thành tích thực tế xuất khẩu cung cấp các loại trợ giá trực tiếp cho xí nghiệp, ngành nghề nhất định hoặc người sản xuất kinh doanh nông sản phẩm. - Hai là, chính phủ hoặc cơ quan đại lý dự trữ nông sản phẩm bán với giá rẻ hàng dự trữ thấp hơn so với giá thị trường dùng cho xuất khẩu. - Ba là, hành động của chính phủ, như cung cấp tiền cho vay ưu đãi hoặc sự đảm bảo, giảm miễn thuế nông sản phẩm xuất khẩu có liên quan với hiệu quả xuất khẩu. - Bốn là, cung cấp sự trợ giá để giảm giá thành kinh doanh xuất khẩu, bao gồm xử lý, phân cấp nông sản phẩm, hoặc các trợ giá cho giá thành chế biến khác, trợ giá cho giá thành vận tải quốc tế và vận tải trong nước. Hiệp định đối với số lượng và kim ngạch trợ giá nông sản phẩm xuất khẩu dựa trên thời kỳ cơ sở những năm 1986 – 1990 cắt giảm theo tỷ lệ. Có 22 loại lớn nông sản phẩm tiến hành cắt giảm trợ giá gồm lương thực, dầu thực vật... Thành viên nước phát triển trong 6 năm cắt giảm 36% kim ngạch trợ giá xuất khẩu, thành viên nước đang phát triển trong 10 năm cắt giảm 24%. Số lượng trợ giá xuất khẩu, thành viên nước phát triển trong 6 năm cắt giảm 21%, thành viên nước đang phát triển cắt giảm 14 %. Nếu nông sản phẩm trong những năm 1985 – 1990 chưa được hưởng đối xử trợ giá xuất khẩu, sau này không được sử dụng bất kì biện pháp trợ giá xuất khẩu nào nữa. 1.1.3.3. Cam kết của Việt Nam tới việc xuất khẩu nông sản – cà phê đối với WTO : 1.1.3.3.1. Sự ràng buộc của WTO đối với các thành viên: Để buộc thành viên WTO thực hiện nghĩa vụ của mình theo hiệp định WTO cần phải có sự ràng buộc tương ứng đối với họ. Phương thức chủ yếu gồm có: - Thành viên tự ràng buộc mình: Là thành viên cuả WTO thì cần phải tuân theo sự cam kết của mình. Đặc biệt đảm bảo luật pháp trong nước không trái với hiệp định, nguyên tắc của WTO. Nếu có tình hình này, luật pháp trong nước cần phải sửa đổi. Đây là cơ sở vận hành có hiệu quả của WTO. - Ràng buộc tập thể: Những ràng buộc có hiệu quả như: giám sát việc chấp hành hiệp định thương mại nhiều bên, các thành viên tiến hành đàm phán để xử lý quan hệ thương mại nhiều bên, dựa theo quy tắc và trình tự giải quyết tranh chấp, tiến hành thẩm xét chính sách thương mại. - Ràng buộc trả đũa: Cùng có lợi và ưu đãi lẫn nhau là cơ sở duy trì quan hệ thương mại bình thường. Phá hoại quy tắc này, gây thiệt hại cho người khác, tất nhiên sẽ bị đối phương trả đũa, gieo gió ắt gặp bão. Cho nên, khi các nước thành viên đơn phương sử dụng biện pháp bảo hộ, đều rất thận trọng. Dù có một số ít thành viên vi phạm nguyên tắc và đơn phương sử dụng biện pháp cũng thường mượn cớ người khác vi phạm nguyên tắc nên đe dọa sử dụng “trả đũa”, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là hai bên đạt được thỏa hiệp, đều trở về trong phạm vi nguyên tắc để hiệp thương giải quyết vấn đề. 1.1.3.3.2. Cam kết của Việt Nam với WTO về thương mại hàng nông sản: Theo kết quả đàm phán về cam kết đa phương, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào ngày 1/1/2007, đồng nghĩa với việc Việt Nam là thành viên thứ 50 của tổ chức thương mại thế giới, một tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất toàn cầu đang là vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm của trong nước, của các nước thành viên WTO và của cả WTO. Đối với nước ta đây là cơ hội của hội nhập kinh tế thế giới, hội nhập thị trường quốc tế là vấn đề thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Có thể nói, đây là vấn đề nhạy cảm và phức tạp, vì vậy phải tìm hiểu WTO đến nơi đến chốn, có những hiểu biết thấu đáo cần thiết gia nhập WTO, thấy nhiều những cơ hội mới, đồng thời cả những thách thức mới, và quan trọng hơn là phải chuẩn bị thật tích cực và chu đáo. Cụ thể Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm (không muộn hơn 31/12/2018). Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. + Những cam kết về thương mại: Việt Nam cam kết này buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giả, đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của biểu thuế ( từ 17,4% xuống còn 13,4% )thời gian thực hiện sau 5 – 7năm. Trng toàn bộ biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 3800 dòng thuế ( chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế) ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của biểu thuế) ràn buộc theo mức thuế trần - cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3170 dòng thuế ( chiếm 30% số dòng của biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng hàng như xăng dầu, kim loại, hóa chất, một số phương tiện vận tải. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và 21% sẽ là mức cắt giảm cuối cùng. So sánh với mức thuế MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt giảm đi sẽ là 10%. Về trợ cấp nông nghiệp, ta cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khỏan hỗ trợ nữa vào khoảng 4000

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2382.doc
Tài liệu liên quan