Chuyên đề Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam gian đoạn 2007-2009

Hiện nay, thủy sản của ta đã xuất khẩu sang 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm một vị trí không nhỏ trong thị trường chung. Tuy thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, song với sự nỗ lực không ngừng ngành thủy sản vẫn trụ vững và đạt được những bước tiến đáng ghi nhận. Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường chủ yếu đều tăng trong năm 2008, nhưng giảm vào năm 2009.

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4583 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam gian đoạn 2007-2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,6 nghìn tấn, tỷ trọng 19,1%. - Năm 2008: - Tôm đạt 113,4 nghìn tấn, chiếm 5,3% tỷ trọng, tăng 2,0 nghìn tấn tức tăng 1,8% so với năm trước. - Cá đạt 1605,7 nghìn tấn, chiếm 75,2% tỷ trọng, tăng 39,2 nghìn tấn, tăng 2,5% so với năm trước. - Thủy sản khác đạt 417,3 nghìn tấn với 19,5% tỷ trọng, tăng 20,7 nghìn tấn, tức tăng 5,2% so với 2007. - Năm 2009: - Sản lượng tôm tiếp tục tăng, đạt 124,6 nghìn tấn, chiếm 5,5% tỷ trọng, tăng 9,9% tức chênh lệch 11,2 nghìn tấn so với năm trước. - Cá khai thác đạt 1703,1nghìn tấn, chiếm 74,8% tỷ trọng, tăng 97,4 nghìn tấn, tăng 6,0 % so với năm trước. - Thủy sản khác đạt 450,1 nghìn tấn, chiếm 19,7% tỷ trọng tăng 32,8 nghìn tấn tức tức tăng 7,9% so với 2007. Sản lượng khai thác và nuôi trồng đạt kết quả khả quan như vậy trong thời gian qua là do nước ta có nhiều lợi thế phát triển thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản ở cả nước ngọt, nước lợ và biển, phần lớn nguồn lợi tự nhiên như nguồn lợi hải sản ven bờ, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đã và đang được khai thác, sử dụng ở mức tối đa. Sự tăng trưởng thời gian qua đã có chú ý phát triển theo chiều sâu và cả phát triển theo chiều rộng, qua việc tăng diện tích nuôi trồng, tăng số lượng tàu thuyền khai thác, phát huy tiềm năng nguồn lợi và điều kiện tự nhiên là chính. c) Về tổng sản lượng cả nước: Bảng 4: SẢN LƯỢNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2007- 2009 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch 2008/2007 Chênh lệch 2009/2008 Mức Tỷ lệ (%) Mức Tỷ lệ (%) Sản lượng (nghìn tấn) 4197,8 4602,0 4864,0 404,2 9,63 262 5,69 Nguồn: Tổng cục thống kê Năm 2007, sản lượng thủy sản đạt 4197,8 nghìn tấn. Năm 2008, sản lượng thủy sản đạt 4602 nghìn tấn, tăng 9,63% và chêch lệch 404,2 nghìn tấn so với năm 2007. Bước sang năm 2009, sản lượng vẫn ở mức cao và tiếp tục tăng so với năm 2008. Tuy nhiên mức tăng có thấp hơn mức tăng của năm 2008. Tổng sản lượng là 4864 nghìn tấn, tăng 5,69% so với năm 2008, chỉ tăng ở mức 262 nghìn tấn. Sản lượng thủy sản có sự tăng trưởng mạnh trong thời gian qua là do nhiều nguyên nhân. Tình trạng số lượng tàu thuyền khai thác thủy sản tăng mạnh, công tác quản lý tàu cá đã được Bộ và các cơ quan quản lý chuyên ngành chú trọng. Chính sách hỗ trợ kịp thời, hợp lý và đúng vào thời điểm ngư dân đang gặp khó khăn, cho nên hoạt động khai thác được duy trì và phát triển, bảo đảm ổn định đời sống của ngư dân và cộng đồng dân cư ven biển. Thời tiết và diễn biến nguồn lợi thủy sản trong các vụ cá Bắc, cá Nam tại nhiều địa phương khá thuận lợi cho hoạt động khai thác. Bên cạnh đó, các địa phương tiếp tục chuyển đổi và mở rộng diện tích nuôi trồng theo hướng kết hợp đa canh, đa con. Bên cạnh đó, mô hình nuôi thuỷ sản lồng, bè tiếp tục phát triển, đặc biệt là nuôi lồng, bè trên biển ở các tỉnh: Kiên Giang, Quảng Nam, Ninh Thuận, Phú Yên, Hải Phòng… 1.2 Định hướng phát triển ngành thủy sản Theo dự thảo chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn khẳng định ngành thủy sản sẽ trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn về xuất khẩu, có khả năng cạnh tranh hội nhập vững chắc. Nói về tiềm năng ngành thủy sản, hiện chúng ta đã xác định định được 544 loài cá, trong đó có khoảng 97 loài kinh tế. Sản lượng khai thác nước ngọt đạt khoảng 200 nghìn tấn/năm, tập trung ở các tỉnh Nam Bộ đặc biệt là ĐBSCL. ĐBSCL rất thuận lợi cho phát triển thủy sản nói riêng trên các vùng sinh thái: nuôi ngọt, nuôi lợ, nuôi biển, khai thác thủy sản biển và nội địa đồng tạo ra nhiều mặt hàng thủy sản xuất khẩu có giá trị cho quốc gia. ĐBSCL được xem là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển thủy sản đặc biệt là NTTS nhất trong cả nước và khu vực. Giá trị xuất khẩu thủy sản tăng liên tục trong thời gian qua, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. So với 1985, giá trị kim ngạch XKTS năm 2008 đã tăng trên 50 lần từ 0,09 tỷ USD lên 4,5 tỷ USD. Sản phẩm thủy sản đã có mặt ở 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nuôi trồng thủy sản có thể phát triển ở các vùng kinh tế khác nhau từ miền núi, trung du, đồng bằng đến các vùng biển đảo. Xu hướng và nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản đã và đang tiếp tục tăng mạnh. Riêng sản phẩm cá tra của nước ta đang được nhiều quốc gia quan tâm và xem là sản phẩm thay thế cá thịt trắng có nguồn gốc từ các vùng biển bởi giá cả hợp lý mà chất lượng lại thơm ngon, sản lượng dồi dào và ổn định. Các nhà máy chế biến thuỷ sản tại châu Âu cũng rất cần nguyên liệu cá tra và cá ba sa Việt Nam để chế biến và cung cấp cho các thị trường. Mặc dù ngành thuỷ sản đã đóng góp rất lớn kim ngạch xuất khẩu của cả nước và có tiềm năng phát triển nhưng sản xuất vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Hiện ngành thuỷ sản tiềm ẩn nhiều bất cập, rủi ro và thiếu bền vững, thậm chí nếu không được đầu tư có thể sẽ “lụi tàn”. Chính vì vậy mà định hướng để phát triển ngành thuỷ sản trong tương lai là: sản lượng khai thác hàng năm phải tăng theo năng suất lao động cũng như tỷ lệ đóng góp của nghề cá so với việc sử dụng tài nguyên, sự tăng trưởng của nghề phải đi đôi với việc thay đổi bộ mặt nông thôn và thể hiện rõ vai trò gắn kết giữa ngư nghiệp – nông nghiệp và nông thôn... Mục tiêu mà ngành Thủy sản đặt ra đến năm 2012 là đảm bảo 90% cá tra và tôm nuôi có thể truy nguồn gốc xuất xứ; 70% thủy sản khai thác có nhật ký theo dõi, 90% cơ sở chế biến thủy sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng. Từ nay đến năm 2020, ngành thuỷ sản đặt mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD. Mỗi giai đoạn, thị trường lại có những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau, vì vậy, ngành phải tìm hiểu yêu cầu của thị trường trong từng giai đoạn để tổ chức lại sản xuất. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM QUA 3 NĂM 2007-2009 2.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản trong 3 năm 2007-2009 2.1.1 Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu thủy sản Thuỷ sản được xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Ngành thủy sản đã và đang tận dụng mọi lợi thế để phát huy nội lực góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam. Bảng 5: SẢN LƯỢNG VÀ KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM TRONG 3 NĂM 2007 – 2009 Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch 2008/2007 Chênh lệch 2009/2008 Mức Tỷ lệ (%) Mức Tỷ lệ (%) Sản lượng (nghìn tấn) 924,46 1236,00 1216,00 311,54 33,7 -20,00 1,6 Kim ngạch (tỷ USD) 3,76 4,51 4,250 0,75 19,8 -0,26 5,7 Nguồn:tổng cục hải quan Năm 2007, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước là 924,46 nghìn tấn với kim ngạch là 3,76 tỷ USD. Bước sang năm 2008, cả sản lượng và kim ngạch thủy sản xuất khẩu đều tăng so với năm 2007. Cụ thể, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 1236 nghìn tấn, tăng 33,7% so với năm 2007,chêch lệch 311,54 nghìn tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt 4,509 tỷ USD tăng 0,749 tỷ USD tức tăng 19,8% so với cùng kì năm 2007. Năm 2009, tuy sản lượng khai thác và nuôi trồng có tăng nhưng xuất khẩu lại ở mức tăn trưởng âm. Đó là lần đầu tiên trong 13 năm xuất khẩu thủy sản đạt tăng trưởng âm. Cụ thể, sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 1216 nghìn tấn, giảm 20 nghìn tấn, tức giảm 1,6% so với năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu đạt 4,250 tỷ USD giảm 0,259 tỷ USD, tức giảm 5,7% so với năm 2008. Sở dĩ có sự biến động như vậy là do một số nguyên nhân sau đây: năm 2008, ngành thủy sản trãi qua nhiều sóng gió, cả thế giới nằm trong tình trạng lạm phát, kinh tế tăng trưởng chậm, tỷ giá đồng USD bấp bênh, chi phí đầu tư tăng vọt, lãi suất ngân hàng cao ngất ngưỡng… Trong hoàn cảnh đó, các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã chủ động chuyển hướng để tránh được cơn bão do cuộc khủng hoảng gây ra. Họ chuyển từ “trọng tâm” của các cuộc khủng hoảng là: EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…để khai phá những thị trường mới như Nga, Ucraina, Ai Cập… Năm 2009, tuy xuất khẩu có giảm so với năm 2008, nhưng đó cũng là một kết quả đầy khả quan cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trước những khó khăn về việc thiếu nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ chính giảm nhu cầu, những rào cản kĩ thuật và thuế quan của các nước nhập khẩu.. 2.1.2 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản theo thị trường Hiện nay, thủy sản của ta đã xuất khẩu sang 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm một vị trí không nhỏ trong thị trường chung. Tuy thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt với không ít khó khăn, song với sự nỗ lực không ngừng ngành thủy sản vẫn trụ vững và đạt được những bước tiến đáng ghi nhận. Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường chủ yếu đều tăng trong năm 2008, nhưng giảm vào năm 2009. Bảng 6: MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM TRONG 3 NĂM 2007- 2009 Thị trường Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch 2008/2007 Chênh lệch 2009/2008 Số tiền (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Mức (tỷ USD) Tỷ lệ (% Mức (tỷ USD) Tỷ lệ (%) EU 0,905 24,1 1,140 25,3 1,096 25,8 0,235 26,0 -0,044 3,9 Nga 0,120 3,2 0,218 4,8 0,085 2,0 0,098 81,7 -0,133 61,0 Nhật Bản 0,746 20,0 0,828 18,4 0,758 17,8 0,082 11,0 -0,070 8,5 Hoa Kì 0,767 20,4 0,745 16,5 0,713 16,8 -0.022 2,9 -0,032 4,3 Trung Quốc - - 0,156 3,5 0,200 4,7 - - 0.044 28,2 Các nước khác - - 1,420 31,5 1,398 32,9 - - -0,022 1,5 Tổng cộng 3,76 100 4,509 100 4,250 100 0,749 19,8 -0,259 -5,7 Nguồn: - Năm 2007: Tính đến cùng kì năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản sang với 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tình hình xuất khẩu sang các thị trường như sau: - Thị trường châu Âu (EU): đứng đầu với 24,1% tỷ trọng, với KNXK đạt 0,905 tỷ USD. - Thị trường Hoa Kì: đứng thứ nhì, chiếm khoảng 20,4% tỷ trọng, KNXK đạt 0,767 tỷ USD. - Thị trường Nhật Bản: đứng thứ ba, chiếm 20% tỷ trọng với KNXK là 0,746 tỷ USD. - Thị trường Nga: chiếm 3,2% về tỷ trọng với KNXK đạt 0,120 tỷ USD. - Các thị trường khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ukraine, Asean…chiếm khoảng 32,3% tỷ trọng với KNXK khoảng 1,222 tỷ USD. -Năm 2008: Bước sang năm 2008, Việt Nam XK thủy sản sang 160 thị trường với gần 70 loại sản phẩm khác nhau. -Liên minh Châu Âu (EU): tiếp tục giữ vị trí nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với KNXK đạt 1,14 tỷ USD, tăng 0,235 tỷ USD, chênh lệch 26% so với năm 2007, chiếm 25,3% về tỷ trọng KNXK - Đứng thứ hai là thị trường Nhật Bản, KNXK đạt 0,828 tỷ USD, chiếm 18,4% về tỷ trọng, tăng 0,082 tỷ USD tức tăng 11% so với năm trước. - Năm 2008, Mỹ đã tụt xuống hàng thứ 3 về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Tỷ trọng của thị trường Mỹ giảm từ 20,4% xuống 16,5% trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam. KNXK thủy sản sang thị trường này đạt 0,745 tỷ USD giảm 0,022 tỷ USD tức giảm 2,9% so với năm trước. - Cũng trong năm 2008, Nga vẫn là “lực hút” lớn cho nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. So với năm 2007, xuất khẩu thủy sản sang thị trường này đạt 0,218 tỷ USD, tăng tới 81,7% và chênh lệch 0,098 tỷ USD. Tỷ trọng của thị trường này năm 2008 là 4,8 %. - Thị trường Trung Quốc: chiếm 3,5% về tỷ trọng, KNXK đạt 0,156 tỷ USD. - Các thị trường khác: KNXK đạt 1,420 tỷ USD, chiếm 31,5% về tỷ trọng. -Năm 2009: Năm 2009, Việt Nam XK 85 loại sản phẩm thủy sản sang 163 thị trường. Số lượng sản phẩm và thị trường XK đều tăng, nhưng giảm về khối lượng và giá trị, so với năm 2008. - Góp phần đáng kể vào sự sụt giảm này là thị trường EU– nhà nhập khẩu lớn nhất thuỷ sản Việt Nam, chiếm 25,8% tỷ trọng XK của Việt Nam. Xuất khẩu sang thị trường này giảm 3,9% về giá trị, đạt 1,096 tỷ USD, giảm 0,044 tỷ USD trong đó 5 thị trường đơn lẻ trong khối là Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia và Bỉ chiếm 64% tổng nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam. -Thị trường Nhật Bản vẫn đứng vị trí thứ 2 trong tốp các thị trường nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam với 0,758 tỷ USD, giảm 8,5% so với năm 2008, giảm 0,07 tỷ USD, tỷ trọng của thị trường Nhật Bản trong năm 2009 là 17,8%. - Tiếp đến là Mỹ với tỷ trọng 16,8%, KNXK là 0,713 USD, giảm 4,2% tức giảm 0,032 tỷ USD so với năm 2008. - Đến hết năm 2009, KNXK sang Nga là 0,085 tỷ USD, giảm 61% tức giảm 0,133 tỷ USD so với năm trước. Tỷ trọng của thị trường này giảm từ 4,8% xuống còn 2% trong năm 2009. - Đáng lưu ý là thị trường Trung Quốc luôn đạt tăng trưởng 2 - 3 con số liên tiếp trong các tháng, cả năm tăng 28,2% về giá trị, tăng 0,044 tỷ USD đạt khoảng 0,200 tỷ USD, chiếm 4,7% tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. - Các thị trường khác chiếm khoảng 32,9% tỷ trọng, KNXK đạt 1,398 tỷ USD, giảm 0,022 tỷ USD tức giảm khoảng 1,5 %. Nguyên nhân về sự biến động KNXK ở các thị trường là do: năm 2007, Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo thuận lợi để xuất khẩu thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng cao, khi các doanh nghiệp đã chủ động chuyển hướng thị trường, vừa giữ được thị trường truyền thống, vừa mở rộng phát triển sang các thị trường mới. Trong 2008, Việt Nam tiếp tục giữ vững và nâng cao KNXK thủy sản ở thị trường nhập khẩu lớn nhất là EU, ta đã xuất khẩu thủy sản sang 26/27 quốc gia thuộc khối này, đứng đầu là 5 thị trường: Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan và Bĩ. Năm 2009, KNXK thủy sản giảm . Nguyên nhân do sự vắng mặt của thị trường Nga 4 tháng đầu năm do lệnh cấm thuỷ sản Việt Nam từ cuối năm 2008, một yếu tố chính khiến xuất khẩu thuỷ sản giảm, vì Nga vốn là thị trường đơn lẻ tiêu thụ nhiều nhất cá tra của Việt Nam trong năm 2008. 2.1.3 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản theo mặt hàng Bảng 7: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THỦY SẢN THEO MẶT HÀNG TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2009 Mặt hàng Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch 2008/2007 Chênh lệch 2009/2008 Số tiền (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Mức (tỷ USD) Tỷ lệ (%) Mức (tỷ USD) Tỷ lệ (%) Tôm 1,500 40,0 1,625 36,0 1,675 39,4 0,125 8,3 0,050 3,0 Cá tra, basa 0,977 26,0 1,450 32,2 1,340 31,5 0,473 48,4 -0,110 7,6 Cá ngừ 0,151 4,0 0,189 4,2 0,183 4,3 0,038 25 -0,006 3,1 Mực, bạch tuộc 0,290 7,7 0,297 6,6 0,276 6,5 0,007 2,4 -0,021 7,0 Mặt hàng khác 0,842 22,3 0,948 21,0 0,776 18,2 0,106 12,6 -0,172 18,1 Tổng cộng 3,76 100 4,509 100 4,250 100 0,749 19,8 -0,259 -5,7 Nguồn: tổng cục hải quan Về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản cho thấy không có sự biến động nhiều giữa các nhóm sản phẩm, nhìn chung tôm vẫn là nhóm sản phẩm chủ lực đóng góp trung bình 40% tỷ trọng KNXK thủy sản mỗi năm, tiếp theo là nhóm sản phẩm cá, mực, bạch tuộc đông lạnh… - Năm 2007: - Tôm là mặt hàng chủ lực đóng góp 40% tỷ trọng với KNXK đạt 1,5 tỷ USD. - Tiếp theo là cá tra, basa chiếm 26% tỷ trọng, KNXK đạt 0,977 tỷ USD. - Mặt hàng cá ngừ, mực, bạch tuộc chiếm tỷ trọng khá nhỏ so với tôm và cá tra, basa. KNXK cá ngừ đạt 0,151 tỷ USD, tỷ trọng 4%, mực bạch tuộc chiếm 7,7% với KNXK 0,290 tỷ USD. Các mặt hàng còn lại chiếm 22,3% với 0,842 tỷ USD. - Năm 2008: Các mặt hàng đều có kim ngạch tăng so với năm 2007. Cụ thể: - Xuất khẩu tôm đạt 1,625 tỷ USD, chiếm 36% tỷ trọng, tăng 0,125 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm trước. - KNXK cá tra,basa đạt 1,45 tỷ USD, chiếm 32% tỷ trọng, tăng khá mạnh so với 2007 tăng tới 48,4% tức tăng 0,473 tỷ USD. - Cá ngừ, mực, bạch tuộc cũng tăng so với cùng kì năm trước. KNXK cá ngừ tăng 0,038 tỷ USD, tăng 25% so với 2007 với kim ngạch và tỷ trọng lần lượt là 0,189 tỷ USD và 4,2%. Mực, bạch tuộc tăng 2,4% tức tăng 0,007 tỷ USD, KNXK đạt 0,297 tỷ USD, chiếm 6,6% KNXK thủy sản. Các mặt hàng khác tăng 12,6% tức tăng 0,106 tỷ USD. - Năm 2009: KNXK thủy sản của các mặt hàng đều giảm so với năm 2008, chỉ có mặt hàng tôm tiếp tục giữ vị trí số 1 và là mặt hàng thủy sản duy nhất tăng trưởng trong năm 2009. Cụ thể: - KNXK tôm tăng 0,05 tỷ USD, chỉ tăng 3% so với 2008, đạt 1,675 tỷ USD với tỷ trọng là 39,4%. - Xuất khẩu cá tra, basa giảm 7,6% tức giảm khoảng 0,110 tỷ USD, KNXK đạt 1,34 tỷ USD chiếm 31,5% tỷ trọng. - Cá ngừ cũng giảm KNXK xuống còn 0,183 tỷ USD với tỷ trong 4,3%, giảm 3,1% so với 2008, tức giảm 0,006 tỷ USD. Mực, bạch tuộc cũng giảm khá mạnh, giảm 7% so với năm trước tức giảm 0,021 tỷ USD, KNXK đạt 0,276 tỷ USD, chiếm 6,5% tỷ trọng. Các mặt hàng khác giảm 18,1% tức giảm 0,172 tỷ USD. Một số nguyên nhân làm biến động KNXK của các mặt hàng như sau: -Công tác kiểm soát chất lượng tôm nguyên liệu được thực hiện khá tốt, nguồn cung tôm nguyên liệu trong nước luôn ở mức cao và ổn định, nguồn cung tôm của thế giới cũng tăng khá cao, trong khi nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này tại một số thị trường lớn lại giảm. - EU chiếm hơn 40% xuất khẩu cá tra của Việt Nam. Năm 2009, xuất khẩu cá tra sang thị trường EU giảm vì nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến thông tin xấu “bôi bẩn” cá tra ở một số quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Ai Cập. Sự vắng mặt của thị trường Nga 4 tháng đầu năm do lệnh cấm thủy sản Việt Nam từ cuối năm 2008 cũng là một yếu tố khiến xuất khẩu cá tra, basa giảm vì Nga vốn là thị trường đơn lẻ tiêu thụ nhiều nhất cá tra của Việt Nam trong năm 2008. - Xuất khẩu cá ngừ tăng trong 2008 do nhu cầu tiêu thụ cá ngừ trên thị trường thế giới tăng, trong khi sản lượng đánh bắt ở các quốc gia xuất khẩu chính đang giảm sút, nhưng 2009 thì xu hướng này đã đi ngược lại do nhu cầu ở các thị trường lớn giảm đáng kể và giá xuất khẩu tăng đáng kể vào những tháng cuối năm… -Năm 2008, lượng dự trữ mực, bạch tuộc của của các thị trường chính giảm, giá bạch tuộc trong năm 2008 và các tháng đầu năm 2009 tăng nhẹ, Sức tiêu thụ bạch tuộc ở châu Âu có nhu cầu ổn định. Nhưng do nguồn nguyên liệu chế biến thiếu trầm trọng do thời tiết biển bất lợi, các tàu đánh bắt phải nằm bờ để tránh bão, hầu hết thị trường tiêu thụ vẫn chưa phục hồi do hệ lụy của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những rào cản về kỹ thuật và chất lượng của một số thị trường khó tính khác dẫn tới KNXK mực 2009 bị giảm đi… 2.2 Sự biến động về giá của các mặt hàng thủy sản Hiện nay ngành thủy sản nước ta đã xuất khẩu hơn 85 loại sản phẩm thuộc các chủng loại như: tôm, cá tra , basa, cá ngừ, mực, bạch tuộc…với hai mặt hàng chủ lực là tôm và cá tra, basa. Sự biến động giá của một số sản phâm chủ yếu như sau: 2.2.1 Giá tôm đông lạnh xuất khẩu: Giá xuất khẩu trung bình tôm đông lạnh của Việt Nam năm 2007 đạt 9,6 USD/kg. Trong tháng 12/2007, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này đạt 8,93 USD/kg. Giá xuất khẩu trung bình tôm đông lạnh trong tháng 1/2008 giảm mạnh, chỉ đạt 7,99 USD/kg, giảm 2,3 USD/kg so với tháng 1/2007 và gần 1 USD/kg so tháng 12/2007. Nguyên nhân là do lượng tôm thẻ đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam tăng và tôm sú cỡ nhỏ xuất khẩu tăng tới các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada tăng. giá xuất khẩu trung bình của tôm đông lạnh trong quí I/2008 chỉ dao động từ 8 – 8,5USD/kg. Năm 2009, do giá tôm nguyên liệu tăng nên giá tôm đông lạnh xuất khẩu tăng và đạt mức trung bình 9,4USD/kg. 2.2.2 Giá cá tra, basa đông lạnh xuất khẩu: Trong năm 2007, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng cá tra đông lạnh của Việt Nam đạt 2,58 USD/kg. Tháng 12/2007 là tháng có giá xuất khẩu trung bình thấp nhất trong năm đạt 2,356 USD/kg. Theo quy luật, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này thường tăng cao vào 6 tháng đầu năm và giảm nhẹ vào 6 tháng cuối năm. Giá xuất khẩu trung bình cá tra phi lê của Việt Nam trong quý I/2008 đạt 2,3 USD/kg giảm 0,27 USD/kg so với quý I/2007. Như vậy trong quý I/2008 giá xuất khẩu trung bình cá tra, ba sa là tương đối ổn định trong khi giá cá tra, ba sa nguyên liệu lại biến động mạnh từng tuần trong quý I/2008. Nguyên nhân chính là do các lô hàng xuất khẩu cá tra, ba sa trong quý I/2008 đều được ký kết từ trước đó. Tính toán sơ bộ cho thấy giá xuất khẩu trung bình cá tra đông lạnh của Việt Nam trong tháng 10/2008 đạt 2,44 USD/kg, giảm 0,52 USD/kg so với cùng kỳ năm trước và tăng nhẹ so với tháng 3/2008. Giá xuất khẩu cao nhất trong năm đạt từ 3,1 đến 3,2 USD/kg cao hơn giá cao nhất năm 2007 từ 0,28 – 0,38 USD/kg. Tháng 7/2009, giá cá tra, basa dạng phi lê bán sang Nga là 3,1 USD/kg. Đến tháng 12/2009, giá cá tra liên tục bị trược giá Cụ thể, 10 tháng đầu năm, xuất khẩu cá tra sang Tây Ban Nha tăng về lượng nhưng lại giảm về giá trị. Riêng trong tháng 10, giá trung bình xuất khẩu giảm từ 2,83 USD cùng kỳ năm 2008 xuống còn 2,35 USD, giảm 17,5%. Khối lượng xuất khẩu cá tra sang Ai Cập cũng tăng trong tháng 10, nhưng lại giảm về giá trị, giá trung bình giảm gần 24% từ 2,10 USD/kg xuống 1,60 USD/kg. Tương tự như vậy, giá trung bình nhập khẩu cá tra vào thị trường Mêhicô những tháng gần đây cũng giảm khá mạnh. Trong tháng 10, giá trung bình nhập khẩu cá tra của Việt Nam vào Mêhicô chỉ đạt 2,24 USD/kg, giảm gần 23% so với 2,90 USD cùng kỳ năm ngoái. 2.2.3 Giá của sản phẩm từ cá ngừ xuất khẩu: Theo Hệ thống phân tích Vebimo, giai đoạn 2005-2010, giá xuất khẩu cá ngừ vàng nằm trong xu hướng tăng khá mạnh. tháng 3/2007 giá cá lên đến mức tương đối cao là 2.200 USD/tấn, nhưng điều đáng chú ý là mức giá dao động lên xuống khá ổn định xoay quanh trục 1.500 USD/tấn. Giá thăn cá ngừ vây vàng đang tăng lên theo xu hướng của cá ngừ vây vàng nguyên con, đến tháng 2/2007 giá thăn cá ngừ này ở Italia đã đạt mức trên 4,6 EUR/kg. Nguyên nhân tăng giá là do tình hình sản lượng khai thác thấp dần. Những tháng cuối năm 2009, giá trung bình xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, có xu hướng tăng, nhất là sản phẩm xuất vào thị trường Mỹ, Nhật Bản, Canada, có thể đạt mức trung bình 3830 USD/tấn. 2.2.4 Giá mực, bạch tuộc đông lạnh xuất khẩu: Từ năm 2004 đến cuôi năm 2007, giá xuất khẩu sản phẩm mực và bạch tuộc của nước ta có xu hướng tăng nhẹ. Mức đơn giá trung bình đạt được cao nhất là trên thị trường Nhật Bản (4-5USD/kg), tiếp đến là EU (2,5-3USD/kg) và thấp hơn là Hàn Quốc (dưới 2,5USD/kg). Tính đến hết tháng 11/2009, cả nước đã xuất khẩu được trên 70,5 nghìn tấn mực, bạch tuộc, đạt giá trị gần 250,2 triệu USD, giảm về lượng và về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Riêng trong tháng 11/2009, xuất khẩu mực, bạch buộc đạt giá trung bình 3,71 USD/kg. tuy sản lượng từ các nguồn cung cấp truyền thống ở tây nam Đại Tây Dương giảm mạnh nhưng giá bán vẫn không được cải thiện bao nhiêu so với mức giá thấp kỷ lục từ năm trước. Đơn giá nhập khẩu mực ống Achentina của Tây Ban Nha giảm nhẹ, từ 1.067 USD/tấn xuống còn 1.000 USD/tấn. Nguyên nhân nguồn nguyên liệu chế biến thiếu trầm trọng do thời tiết biển bất lợi, các tàu đánh bắt phải nằm bờ để tránh bão, hầu hết thị trường tiêu thụ vẫn chưa phục hồi sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những rào cản về kỹ thuật và chất lượng… CHƯƠNG 3 NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU THỦY SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI 3.1 Thuận lợi và khó khăn 3.1.1 Thuận lợi Thuận lợi đầu tiên phải kể đến là điều kiện tự nhiên của nước ta. Nước ta có bờ biển dài hơn 3260 km, so sánh với vùng lãnh thổ trung bình cứ 100km2 diện tích đất liền là có 1km chiều dài bờ biển. Đây là một tỷ lệ bờ biển thuộc vào loại rất cao trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có biển trên thế giới. Vùng biển Việt Nam thuộc phạm vi ngư trường Trung tây Thái Bình Dương có nguồn lợi sinh vật phong phú và đa dạng, là một trong những ngư trường có trữ lượng hàng đầu trong các vùng biển trên thế giới. Không những là ngư trường thuận lợi cho khai thác, vùng biển Việt Nam còn có các điều kiện tự nhiên thích hợp để nuôi trên biển. Bên cạnh đó nước ta còn có nguồn lợi thủy sản nước ngọt nằm trong 2860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu ha đất ngập nước, ao hồ ruộng trũng, rừng ngập mặn đặc biệt ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long. Những điều kiện trên đây rất thuận lợi cho việc phát triển sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện đang có những lợi thế lớn về chính sách và thị trường. Xét trong bối cảnh kinh tế thế giới, các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… đang trên đà phục hồi. Vấn đề thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 sẽ tốt hơn so với năm 2009, có rất nhiều lợi thế, đặc biệt với hai mặt hàng chính là tôm sú và các sản phẩm cá tra, basa. Ưu thế của tôm sú cở lớn của Việt Nam so với các nước sẽ khiếm xuất khẩu tôm tăng lên, đặc biệt trên thị trường Mỹ. Mặt khác thị trường châu Âu đang thực hiện việc quản lý chặc chẽ và hạn chế thuỷ sản đánh bắt. Đây sẽ là cơ hội để các sản phẩm thủy sản nuôi trồng của Việt nam chiếm lĩnh thị trường. Xuất khẩu thủy sản sang EU có thể sẽ tăng mạnh, với trị giá khoảng 1,4 tỉ USD/năm, tăng 3,5% so với năm 2009. Nhu cầu nhậu khẩu thủy sản của hầu hết các thị trường cũng tăng lên đáng kể. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa vào Nga năm 2010 sẽ tăng và đạt khoảng 100 triệu USD và Nga sẽ trở thành một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản lớn của Việt Nam. Các thị trường khác như Ba Lan, Tây Ban Nha, Mêxicô, Braxin... cũng sẽ tăng khoảng 30% sản lượng nhập khẩu thủy sản so với cùng kì năm trước. Một số thị trường khác cũng rất quan trọng như Hàn Quốc, Nga, Trung Đông đang trở thành những thị trường không thể bỏ qua với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Cùng với đó, hiệp định đối tác kinh tế Việt -Nhật (VJPA) sẽ được triển khai đồng bộ. Trong số 330 mặt hàng thỷ sản xuất khẩu vào Nhật Bản, 64 mặt hàng được giảm thuế, chiếm tới 71% xuất khẩu th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctinh_hinh_xuat_khau_thuy_san_cua_viet_nam_2007_2009_0672.doc
Tài liệu liên quan