Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có thể kính thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng từng thời kỳ nhất định.
Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đề có tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Song khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng Trung ương có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2142 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Phân tích và đánh giá việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Các công cụ của chính sách tiền tệ
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực tiễn của nền kinh tế, Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng. Nghĩa là, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện việc đưa tiền vào lưu thông là thiếu hụt hay dư thừa. Các công cụ mà Ngân hàng Trung ương thường sử dụng là: Tái cấp vốn; Dự trữ bắt buộc; Nghiệp vụ thị trường mở; Hạn mức tín dụng; Lãi suất và Tỷ giá.
4.1. Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng. Khi cấp một khoản tín dụng cho tổ chức tín dụng, một mặt, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thì trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ này được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác, hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ chức tín dụng được thực hiện không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, như: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có gía ngắn hạn khác; Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn; Cho vay trong thanh toán bù trừ; Cho vay theo hình thức chỉ định; Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
ìƯu điểm:
Qua công cụ tái cấp vốn, Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kính thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các tổ chức tín dụng, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì Ngân hàng Trung ương là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì, với số tiền Ngân hàng Trung ương cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.
ìNhược điểm:
Ngân hàng Trung ương không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của Ngân hàng Trung ương và tổ chức tín dụng là ngang nhau. Ngân hàng Trung ương có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng tổ chức tín dụng lại có quyền quyết định vay hoặc không vay và nếu tổ chức tín dụng không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện được.
4.2. Công cụ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các tổ chức tín dụng. Nếu khả năng thanh toán quá lớn (tổ chức tín dụng đang dư thừa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng (bành trướng khối tiền tệ)
ìƯu điểm:
Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng.
Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do tổ chức tín dụng thực hiện và nhu cầu tái cấp vốn tại Ngân hàng Trung ương.
Tăng cường quyền lực cho Ngân hàng Trung ương vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các tổ chức tín dụng có trách nhiệm thực hiện.
Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng vì nó áp dụng không phân biệt mọi tổ chức tín dụng trong toàn hệ thống tài chính.
Đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, giúp tổ chức tín dụng tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
ìNhược điểm:
Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay
đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một tổ chức tín dụng có dự trữ vượt mức thấp.
Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các tổ chức tín dụng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những tổ chức tín dụng đó khó khăn hơn.
4.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua, bán giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn (Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu Ngân hàng Trung ương, Chứng chỉ tiền gửi…) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung – cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các tổ chức tín dụng, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể :
- Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
- Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ và Thuỵ Sĩ áp dụng từ những năm đầu của thế kỷ XX. Cho đến nay nó đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông tiền tệ.
ìƯu điểm:
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ :
- Ngân hàng Trung ương có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, Ngân hàng Trung ương cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán.
- Ngân hàng Trung ương dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu Ngân hàng Trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, Ngân hàng Trung ương có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
ìNhược điểm:
Ngân hàng Trung ương có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ thị trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt đã phát triển.
4.4. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dự nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy có chế tác động của nó mang tính áp đặt đối với hệ thống tài chính.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các tổ chức tín dụng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng tổ chức tín dụng. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống tài chính, tổ chức tín dụng chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng quy định. Lúc này, Ngân hàng Trung ương phải theo dõi hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, nếu tổ chức tín dụng cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt.
ìƯu điểm:
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được Ngân hàng Trung ương sử dụng nếu các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu quả.
ìNhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền
kinh tế có một số bất lợi sau :
- Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới hạn không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
- Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Bởi vì, một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì tổ chức tín dụng đó không còn muốn huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và thiệt hại cho tổ chức tín dụng.
- Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các tổ chức tín dụng, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế.
- Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Bởi những tổ chức tín dụng có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các tổ chức tín dụng không có khả năng huy động vốn sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ tín dụng ngoài phạm vi kiểm soát của Ngân hàng Trung ương. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khởi hạn mức đó.
4.5. Công cụ lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có thể kính thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng từng thời kỳ nhất định.
Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đề có tác động đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Song khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng Trung ương có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung ương thường quy định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lải suất “trần” tối thiểu cho tiền vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của tổ chức tín dụng, thì Ngân hàng Trung ương thường quy định ngược lạị: mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. Ngân hàng Trung ương muốn kiểm soát được lãi suất, bời vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả.
Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các tổ chức tín dụng sẽ triệt tiêu cạnh tranh trong quá trình hoạt động của nó. Hiện nay, các nước phát triển đã và đang chuyển sang qúa trình tự do hoá lãi suất.
ìƯu điểm:
Biện pháp này có ưu điểm là giúp các tổ chức tín dụng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả.
ìNhược điểm:
Tuy nhiên quy định khung lãi suất tiền gửi hay quy định lãi suất trần và sàn làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các tổ chức tín dụng bị động trong kinh doanh, hạn chế đầu tư.
Trong bối cảnh đó đòi hỏi phải có sự linh động hơn trong việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ và đòi hỏi có sự sáng tạo về công cụ tiền tệ để hoàn thành các mục tiêu kinh tế.
4.6. Công cụ tỷ giá
Tỷ giá là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung – cầu ngoại hối. Đến lượt mình, tỷ giá là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung – cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Chế độ tỷ giá là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ bản là chế độ tỷ giá “thả nổi” theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá, hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá “cố định” theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền các nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp gốc đó.
Chế độ tỷ giá “thả nối có điều tiết” là một chế độ tỷ giá nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá cố định tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng Chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường.
II. Chính sách tiền tệ Việt nam trong thời gian qua
1.Giai đoạn từ năm 1986-2008
1.1.Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986-2008
Vào những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 1990), nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự hội nhập với nền kinh tế thế thế giới. Nền kinh tế chậm phát triển, đang phải vật lộn với lạm phát phi mã với tỷ lệ lạm phát lên tới 774,7%.
Thêm vào đó, sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng nhân dân đã làm giảm lòng tin của dân chúng vào hệ thống tài chính và giá trị của Việt Nam đồng.
Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam á đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng.
1.2.Chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 1986-2008
Từ năm 1990, Ngân hàng Nhà nước đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước đã lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được Chính phủ phê duyệt hàng năm. Do vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất - lưu thông không bị ách tắc, kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi lạm phát phi mã. Đặc biệt từ năm 1993, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội. Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn bởi Quốc hội, Chính phủ tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Việt Nam đã mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng nên mức siêu cao để thu hút lượng tiền cung ứng về ngân hàng, đồng thời từng bước thả nổi tỷ giá hối đoái (VNĐ/USD) nhằm tạo lập quan hệ như vậy chỉ là tức thời.
Đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp khác tích cực hơn nữa để sử dụng chính sách tiền tệ là vấn đề sử dụng và thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước. Từ đó để hỗ trợ đầu tư, phát triển kinh tế ... Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải thực thi chính sách tiền tệ sao cho đảm bảo các nguồn tích luỹ, tiết kiệm nguồn vốn nhàn rỗi khác trong nền kinh tế được khai thác, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn. Chiến lược huy động vốn được phát động mạnh mẽ liên tục trong suốt thời kỳ 1993 -1997. Phương châm là hạn chế, giảm thiểu dần cung ứng tiền cơ bản qua kênh tín dụng, buộc các tổ chức tín dụng phải đi vay để cho vay làm tốt vai trò trung gian tài chính của nền kinh tế. Các hình thức huy động vốn cũng được đa dạng hoá, có cơ cấu hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư trung và dài hạn. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng chính thức khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ khác trên thế giới như IMF, WB, ADB... Qua đó tranh thủ được sự giúp đỡ về mặt tổ chức, điều hành... của các tổ chức này.
Tháng 6 năm 1995, Ngân hàng Nhà nước chính thức tổ chức bán đấu giá tín phiếu kho bạc tạo nên công cụ huy động vốn mới trên thị trường tiền tệ, góp phần lành mạnh hoá ngân sách.
Ngân hàng Nhà nước còn mở rộng đối tượng cho vay sang nhiều thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế làm cho nền kinh tế có sự phát triển đồng đều
Bên cạnh việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm Ngân hàng Nhà nước còn phải bổ sung phần tiền cung ứng khi chuyển đổi ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu ổn định sức mua đối với đồng tiền Việt Nam.
Tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%
Từ năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%
Ngân hàng Nhà nước đã từng bước tăng dần tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá trị, đồng thời, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm.
Tóm lại, chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả
1.3. Thực trạng thực hiện chính sách tiền tệ giai đoạn 1986-2008
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, chính sách tiền tệ của một quốc gia, nhất là quốc gia đang phát triển khó có thể tách khỏi xu hướng chính sách tiền tệ của các nước lớn.
Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng, hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và từng bước đổi mới chuyền từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp phù hợp với thống lệ quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay chưa hẳn là hoàn thiện. Vẫn còn nhiều bất cập khi điều hành chính sách tiền tệ mà Ngân hàng Nhà nước và các Bộ hữu quan cần phải tập trung giải quyết.
Kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tâp trung chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nyo là do Chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền (D) của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỷ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ…
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng như thời kỳ kế hoạch hóa tập trung (lãi suất cố định nhiều năm… )
Cơ chế điều hành: năm 1988, hệ thống ngân hàng đã được phân thành hai cấp Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng; trực thuộc Chính phủ. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đi đúng hướng. Lãi suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời. Lãi suất của dự trữ bắt buộc cũng được thay đổi linh hoạt. Tính thanh khoản của thị trường cũng được tăng lên thông qua việc Ngân hàng Nhà nước mua lại trái phiếu đã phát hành.
Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày.
2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008-2009
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008-2009
Giai đoạn 2008-2009 là một giai đoạn kinh tế đen tối của thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới và Việt Nam cũng không thể nào tránh khỏi sự ảnh hưởng.
- Tăng trưởng kinh tế chậm lại hai quý liên tiếp (quý IV/2008 tăng 5,5%, quý I/2009 tăng 3,1%); lạm phát tuy ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng do tác động của các chính sách kích thích kinh tế.
Hình 4: Diễn biễn tăng trưởng kinh tế hàng quý trong năm 2008-2009
Nguồn: Tổng Cục thống kê
- Giá dầu mỏ và các mặt hàng xuất khẩu giảm, kéo theo thâm hụt ngân sách tăng lên (năm 2009 dự kiến dưới 7%); kim ngạch xuất khẩu giảm (7 tháng đầu năm 2009 giảm 13,4%); giải ngân vốn FDI, ODA và thu hút kiều hối đều giảm so với cùng kỳ năm 2008, cùng với việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất 4%/năm đã gây áp lực đáng kể lên thị trường ngoại hối và tỷ giá.
- Khi xảy ra khủng hoảng tài chính, hệ thống ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro về tiền gửi ở nước ngoài, phải rút trước hạn để chuyển về gửi ở trong nước hoặc chuyển sang các ngân hàng có uy tín khác, đã làm giảm thu lãi; huy động vốn từ nước ngoài giảm, chi phí vay vốn tăng lên; nợ xấu tăng hơn so với cuối năm 2008.
2.2. Chính sách tiền tệ giai đoạn 2008-2009
Để ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và lạm phát tăng cao, Ngân hàng nhà nước đã có những điều chỉnh chủ động trong chính sách tiền tệ:
E Điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản giảm từ 13%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 12%/năm xuống 5%/năm); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 3%; điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống 1,2%/năm;
EĐiều hành linh hoạt tỷ giá USD/VND (điều chỉnh tăng tỷ giá giao dịch USD/VND bình quân thị trường liên ngân hàng, tăng biên độ tỷ giá giữa VND với USD từ +3% lên +5% đối với giao dịch mua bán của các NHTM); can thiệp mua bán ngoại tệ và thực hiện các biện pháp chống đầu cơ ngoại tệ;
EGiám sát chặt chẽ việc thực hiện các tỷ lệ bảo đảm an toàn, hoạt động kinh doanh, chất lượng tín dụng, giảm lãi suất cho vay và cơ cấu lại thời hạn trả nợ của NHTM
2.3. Kết quả
Kết quả đạt được là tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức thích hợp (năm 2008, tổng phương tiện thanh toán tăng 20%, tín dụng tăng 23,58%; 7 tháng đầu năm 2009, hai chỉ tiêu này tăng 20,22% và 22,61%); lãi suất thị trường trở về thời kỳ ổn định, tỷ giá VND so với USD tăng 2,12%, hệ thống TCTD hoạt động an toàn.
Hình 5: Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-2009
Hình 6: Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
- Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến cuối tháng 7/2009 là 403.448 tỷ đồng; trong đó, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của NHTM và công ty tài chính là 389.327 tỷ đồng, Ngân hàng Ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHINH SACH TIEN TE - N2.doc