MỤC LỤC
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2
1.1.Tổng quan về ngân hàng thương mại và dịch vụ ngân hàng 2
1.1.1. Một số vấn đề về ngân hàng thương mại 2
1.1.1.1.Khái niệm và sự ra đời ngân hàng thương mại 2
1.1.1.2.Các hoạt động cơ bản 7
1.2.1. Dịch vụ ngân hàng 9
1.2.1.1.Khái niệm dịch vụ ngân hàng 9
1.2.1.2.Các loại dịch vụ của ngân hàng thương mại 10
1.2.Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng 19
1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế 19
1.2.2.Yêu cầu của WTO,hiệp định thương mại Việt-Mỹ trong lĩnh vực ngân hàng 21
1.2.2.1.Yêu cầu của WTO 21
1.2.1.2.Yêu cầu của hiệp định thương mại Việt -Mỹ 24
1.2.3.Những cơ hội và thách thức đối với ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. 25
1.2.3.1.Cơ hội 25
1.2.3.2.Thách thức 30
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 36
2.1.Giới thiệu chung về ngân hàng petrolimex chi nhánh Gia lâm 36
2.1.1.Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức 36
2.1.2.Các dịch vụ cơ bản tại chi nhánh ngân hàng Petrolimex Gia Lâm 38
2.2.Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng tại chi nhánh Gia Lâm 43
2.2.1.Điều kiện tiếp cận với sản phẩm dịch vụ 43
2.2.1.1.Mật độ phục vụ về mặt địa lý 43
2.2.1.2.Mức độ đa dạng về sản phẩm dịch vụ 43
2.2.1.3.Công tác khách hàng 44
2.2.2.Chất lượng dịch vụ mà ngân hàng cung cấp 44
2.2.2.1.Việc ứng dụng công nghệ mới 44
2.2.2.2.Trình độ nhân viên 45
2.3.Phân tích và đánh giá 45
2.3.1.Hoạt động cung cấp dịch vụ ở chi nhánh PG Bank-Gia Lâm-Hà Nội 45
2.3.2.Những thành tích đạt được 52
2.3.3.Một số tồn tại 54
2.3.4.Một số nguyên nhân 54
CHƯƠNG III:MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM TRONG ĐIỀU KIỆN HNKTQT 56
3.1 Định hướng hoạt động trong tiến trình hội nhập 56
3.1.1Định hướng chung về phát triển của ngân hàng Petrolimex 56
3.1.2Định hướng phát triển của PG bank Gia Lâm 56
3.2Một số giải pháp chủ yếu 56
3.2.1Nhóm giải pháp củng cố tiềm lực tài chính 56
3.2.2.Nhóm giải pháp hiện đại hoá công nghệ 57
3.2.3.Nhóm giải pháp đẩy mạnh hoạt động marketing 58
3.2.4. Nhóm giải pháp cơ cấu lại mô hình tổ chức,tăng cường năng lực điều hành,nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng. 61
3.3.Một số kiến nghị 62
3.3.1.Đối với chính phủ 62
3.3.2.Đối với ngân hang petrolimex 63
KẾT LUẬN 64
64 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập tại ngân hàng Petrolimex chi nhánh Gia Lâm – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tới đãi ngộ quốc gia,bởi lẽ trong thương mại dịch vụ,bên cạnh sự di chuyển dịch vụ còn có sự di chuyển của nhà cung cấp dịch vụ vào Việt Nam.
Theo nguyên tắc tiếp cận thị trường,Việt Nam sẽ phải loại bỏ dần các biện pháp hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ,về tổng giá trị các giao dịch trong dịch vụ hoặc về tổng số lượng sản phẩm dịch vụ,hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng,các biện pháp hạn chế về loại hình pháp nhân hoạt động trong từng lĩnh vực dịch vụ,và hạn chế tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài.Ví dụ,các hạn chế vế số lượng nhà cung cấp dịch vụ như việc cấp phép thành lập một chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải dựa trên cơ sở kiểm tra về nhu cầu kinh tế,các hạn ngạch được đặt ra hàng năm đối với những người nước ngoài làm việc trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng…
Liên quan tới lĩnh vực dịch vụ ngân hàng,các nước thành viên phải thực hiện nghĩa vụ”Thanh toán và chuyển tiền”(Điều XI của GATS).Theo quy định tại Điều XI,các nước thành viên không được áp dụng các hạn chế đối với chuyển khoản và thanh toán quốc tế trong các giao dịch vãng lai liên quan đến các cam kết cụ thể của GATS.Ngoại trừ trường hợp cán cân thanh toán gặp khó khăn thì khi đó một số hạn chế sẽ được áp dụng mang tính tạm thời và căn cứ vào các điều kiện cụ thể.Theo phần ghi chú số 8 thuộc Điều XVI”Tiếp cận thị trường”của GATS,khi Việt Nam cam kết tiếp cận thị trường đối với cung cấp dịch vụ theo phương thức cung cấp qua biên giới và nếu di chuyển vốn qua biên giới là một phần thiết yếu của dịch vụ này thì Việt Nam sẽ cam kết cho phép sự di chuyển vốn này,và khi Việt Nam cam kết tiếp cận thị trường đối với cung cấp dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại,Việt Nam cho phép chuyển khoản vốn liên quan vào lãnh thổ của mình.Ngoài ra,khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO,Việt Nam sẽ phải tuân thủ nhiều nghĩa vụ khác được quy định trong các điều khoản của GATS,chẳng hạn như quy định về thông lệ kinh doanh(Điều IX)quy định về thừa nhận lẫn nhau(Điều VII)…
1.2.1.2.Yêu cầu của hiệp định thương mại Việt -Mỹ
Hiệp định thương mại gồm 4 phần:tiếp cận thị trường,thương mại dịch vụ,quyền sở hữư trí tuệ và đầu tư.
Trong lĩnh vực dịch vụ,Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của WTO về tối huệ quốc,đối xư quốc gia và các nguyên tắc trong pháp luật quốc gia.Bên cạnh đó,Việt Nam đồng ý cho phép các công ty và các cá nhân Mỹ đầu tư vào các thị trường của một loạt các lĩnh vực,bao gồm kế toán,quảng cáo,ngân hàng,máy tính,phân phối,giáo dục,bảo hiểm,luật và viễn thông.Hầu hết các cam kết về lĩnh vực đó có lộ trình thực hiện sau 3 đến 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.Cam kết của Việt Nam trong 3 lĩnh vực dịch vụ lớn nhất của Mỹ là ngân hàng,bảo hiểm và viễn thông.Trong lĩnh vực ngân hàng như sau:
Trong vòng 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực,các ngân hàng của Mỹ được phép thành lập liên doanh với các đối tác Việt Nam,trong đó phần vốn góp của Hoa Kỳ từ 30-49% vốn pháp định của liên doanh.Sau 9 năm,được phép thành lập ngân hàng 100% vốn đầu tư của Hoa Kỳ.
1.2.3.Những cơ hội và thách thức đối với ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.3.1.Cơ hội
a. Về phía doanh nghiệp:
Tăng nhu cầu về dịch vụ ngân hàng,đặc biệt là dịch vụ ngân hàng quốc tế,các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường hàng hoá quốc tế,đấy mạnh hoạt động xuất khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh như dệt may,nông sản,thuỷ hải sản…Ngược lại các nhà đầu tư,doanh nghiệp nước ngoài cũng có nhiều cơ hội thâm nhập và xuất khẩu hàng hoá vào thi trường Việt Nam.Sự gia tăng các luồng chu chuyển thương mại hàng hoá sẽ kéo theo sự gia tăng các luồng vốn chu chuyển thông qua hệ thống tài chính,ngân hàng.
Hội nhập kinh tế là “cú hích” đồng thời là “động lực” đối với sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam:hội nhập quốc tế không chỉ đem lại cơ hội cho kinh doanh mà cũng thúc đẩy cạnh tranh trên mọi lĩnh vực.Qúa trình hội nhập quốc tế sẽ đào thải những doanh nghiệp yếu kém,buộc các doanh nghiệp phải đổi mới,nâng cao năng lực và kinh doanh có hiệu quả hơn,vì vậy môi trường kinh doanh ngân hàng có mức độ rủi ro thấp hơn.Sự lành mạnh và hiệu quả của khách hàng sẽ góp phần bảo đảm cho hoạt động an toàn,lành mạnh và hiệu quả của các ngân hàng.
b.Về phía ngân hàng
Nâng cao hiệu quả hoạt động,khả năng cạnh tranh
Đối với ngân hàng nhà nước,hội nhập quốc tế tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành,thực thi chính sách tiền tệ độc lập,đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ,lãi suất,tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường thay cho các biện pháp kiểm soát hành chính có thể làm méo mó thị trường tiền tệ.Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra lực đẩy cho sự phát triển của thị trường của thị trường tiền tệ.Đây là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.Hệ trọng tạo môi trường chính sách tiền tệ hoạt động hữu hiệu.
Hội nhập quốc tế thúc đẩy cạnh tranh và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng.Các ngân hàng sẽ phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường.Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động,phân bổ các nguồn vốn,mà còn trong hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng.Mở cửa thị trường tài chính trong nước dẫn đến quá trình sắp xếp lại thị trường và hoạt động ngân hàng theo hướng chuyên môn hoá(bán lẻ,đầu tư hoặc bán buôn)tuỳ theo thế mạnh cạnh tranh của mỗi ngân hàng.Qúa trình hội nhập sẽ tạo ra những ngân hàng có quy mô lớn,tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả,các ngân hàng kinh doanh yếu kém sẽ bị đào thải bởi sự cạnh tranh hoặc phải vươn lên,nếu muốn tồn tại.Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết hợp tác với các đối tác nước ngoài trong chuyển giao công nghệ,phát triển sản phẩm và khai thác thị trường.Dưới tác động của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng,các dịch vụ ngân hàng sẽ phát triển nhanh và có chất lượng cao hơn,đặc biệt là dịch vụ ngân hàng có hàm lượng công nghệ cao,chẳng hạn hoạt động ngân hàng đầu tư,dịch vụ ngân hàng bán lẻ,thẻ thanh toán,các dịch vụ thanh toán.Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh do mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các khu vực thị trường mới,các nhóm khách hàng có mức độ rủi ro thấp.
Sự tăng cường phối hợp chính sách,trao đổi thông tin và phối hợp hành động giữa ngân hàng nhà nước và các ngân hàng trung ương,tổ chức tài chính đa phương ,quốc tế sẽ giúp tăng cường sự an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam và đối phó với những biến động của thị trường tài chính,tiền tệ trong nước.
Học hỏi kinh nghiệm,nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng
Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo các cam kết song phương và đa phương tức là cho phép ngân hàng nước ngoài thành lập dưới các hình thức hiện diện thương mại khác nhau như chi nhánh,ngân hàng liên doanh,ngân hàng con 100% vốn nước ngoài…Đây là điều kiện tốt để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính,đồng thời các công nghệ ngân hàng và các kỹ năng quản lý tiên tiến được các ngân hàng trong nước tiếp thu thông qua sự liên kết,hợp tác kinh doanh,quá trình học hỏi và hỗ trợ kỹ thuật của các ngân hàng nước ngoài cho ngân hàng trong nước.Sự tham gia điều hành,quản trị của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng trong nước.
Các ngân hàng trong nước có nhiều cơ hội nhận được sự hỗ trợ và tư vấn,đào tạo,bồi dưỡng kiến thức mới của ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế,hỗ trợ xây dựng năng lực quản trị ngân hàng tiên tiến(hệ thống quản trị rủi ro,quản lý tài sản nợ-tài sản có,quản lý tín dụng,đầu tư,ngoại hối ,hệ thống thanh toán,hệ thống thông tin quản lý nội bộ,cơ cấu lại tổ chức bộ máy…)Nhờ vậy,khoảng cách chênh lệch về trình độ công nghệ của các ngân hàng trong nước so với các ngân hàng nước ngoài dần được thu hẹp.Hội nhập quốc tế sẽ đem lại cho các ngân hàng trong nước khả năng lớn hơn trong việc phòng ngừa và xử lý rủi ro nhờ áp dụng công nghệ ngân hàng,kỹ năng quản trị,phát triển sản phẩm mới.
Khơi thông thu hút nguồn vốn.
Khơi thông dòng vốn,trao đổi thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam nhờ loại bỏ hàng rào thuế quan,bảo hộ bất hợp lý gây cạnh tranh không lành mạnh:tăng xuất nhập khẩu,thu hút FDI và ODA.Các ngân hàng trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.Nguồn vốn trên thị trường tài chính trong nước trở nên sẵn có hơn và được phân bổ có hiệu quả không chỉ do nguồn vốn quốc tế,mà còn do tăng khả năng huy động các nguồn tiết kiệm nội địa nhờ tác động của tự do hoá tài chính và đầu tư.Do các hạn chế về đầu tư tài chính được dỡ bỏ,các ngân hàng trong nước sẽ linh hoạt hơn trong việc phản ứng,điều chỉnh hành vi của mình theo các diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế để tối đa hóa cơ hội sinh lời và giảm thiểu rủi ro.
Quan hệ đại lý quốc tế của ngân hàng trong nước có điều kiện phát triển rộng rãi để tạo điều kiện cho các hoạt động thanh toán quốc tế,tài trợ thương mại phát triển,kèm theo đó quan hệ hợp tác đầu tư và trao đổi công nghệ được phát triển.Sự hiện diện của các thể chế tài chính quốc tế sẽ giúp cho các ngân hàng trong nước tiếp cận được dễ dàng hơn với thị trường vốn quốc tế.Tự do hoá tài chính làm giảm chi phí vốn do giảm mức độ rủi ro trên thị trường nội địa,thị trường tài chính trong nước trở nên có tính thanh khoản lớn hơn,vì vậy cả các trung gian tài chính và doanh nghiệp đều được hưởng lợi.
Động lực thúc đẩy cải cách ngân hàng và hệ thống tài chính nội địa
Cạnh tranh là động lực thúc đẩy cải cách của mỗi ngân hàng và toàn bộ hệ thống ngân hàng.Hệ thống ngân hàng trong nước không thể hội nhập quốc tế và chống đỡ rủi ro khi còn nhiều yếu kém về tài chính,hoạt động,công nghệ và quản trị điều hành.Các ngân hàng trong nước,một mặt phải giải quyết những tồn tại,yếu kém như vấn đề nợ xấu và tăng vốn tự có,mặt khác phải cũng phải tăng cường năng lực kỷ luật kinh doanh như quản lý tín dụng và kiểm soát tăng trưởng tín dụng,nợ xấu.Khi mở cửa thị trường thì quy mô thị trường ngày càng mở rộng do đó các ngân hàng trong nước không chỉ cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài mà còn cạnh tranh với các ngân hàng trong nước dưới điều kiện mở cửa hội nhập đang lớn dần lên.Với mục tiêu trở thành thành viên WTO sớm cùng với sự nhận định về cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng nên các ngân hàng thương mại nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đã có những bước chuẩn bị cho quá trình mở cửa thị trường với việc tăng vốn tự có,hiện đại hoá công nghệ,nâng cao trình độ quản lý kinh doanh,sắp xếp lại cơ cấu tổ chức.
Hội nhập quốc tế thúc đẩy cải cách thể chế ,hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính.Ngân hàng nhà nước đã có những cải cách to lớn đối với chính sách tiền tệ và hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng phù hợp với xu hướng tự do hoá tài chính và mở cửa hệ thống ngân hàng,chẳng hạn như tự do hoá lãi suất,nới lỏng kiểm soát tỷ giá chính và các biện pháp quản lý ngoại hối,tự do hoá tài khoản vãng lai,sửa đổi luật ngân hàng,đang có kế hoạch cải cách hệ thống thanh tra-giám sát ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế(basel).Tất cả các biện pháp cải cách vĩ mô và vi mô nhằm tạo lập môi trường hoạt động ngân hàng an toàn và hiệu quả,hệ thống tiền tệ-ngân hàng có khả năng thích ứng cao đối với môi trường toàn cầu.Hội nhập quốc tế,thực hiện các cam kết theo hiệp định thương mại song phương và đa phương ,đòi hỏi phải loại bỏ các biện pháp bảo hộ,bao cấp vốn,tài chính đối với các ngân hàng thương mại nhà nước.Điều này buộc các lãnh đạo ngân hàng thương mại nhà nước có them động lực để tự cải cách,tăng cường năng lực cạnh tranh bởi chính mình,hạn chế trông chờ,ỷ lại vào nhà nước.Chính phủ cũng buộc phải có những biện pháp cải cách ngân hàng quyết liệt hơn như cổ phần hóa,lành mạnh hoá tài chính,tăng vốn nhằm tạo thế phát triển bền vững của các ngân hàng thương mại nhà nước.Như vậy,hội nhập quốc tế khuyến khích hình thành môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp và ngân hàng,phát triển hệ thống thể chế ngày càng phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
1.2.3.2.Thách thức
1.2.3.2.1.Thách thức đối với khách hàng của ngân hàng
Khách hàng chủ yếu của các ngân hàng thương mại trong nước là các doanh nghiệp nhà nước nhất là các doanh nghiệp nhà nước lớn.Sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn yếu,vì vậy hội nhập quốc tế có thể làm tăng rủi ro khách hàng,nguy cơ kinh doanh thua lỗ,mất thị trường,phá sản,giải thể đối với doanh nghiệp Việt Nam.Mặt khác,theo lộ trình thực hiện cam kết Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ,Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu hiện đang phổ biến từ 0-5%xuống còn 0% đến năm 2006.Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ yêu cầu hạn chế sự bảo hộ của nhà nước,như bỏ ưu đãi thuế theo tỷ lệ nội địa hoá,bỏ chế độ phụ thu,trợ giá và chênh lệch giá đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.Trong các vòng đàm phán WTO đối với bản chào của Việt Nam yêu cầu Việt Nam phải cắt giảm thuế quan và các hình thức bảo hộ mạnh hơn.Như vậy,một số doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực sắt thép,xi măng,phân bón…hiện đang được hưởng nhiều sự ưu đãi của nhà nước sẽ bị tổn thương,ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh,làm tăng rủi ro đối với hoạt động ngân hàng.
1.2.3.2.2.Thách thức đối với ngân hàng Việt Nam
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam(vốn,nhân lực,công nghệ,quản lý và điều hành,dịch vụ ngân hàng và thị trường).
Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết song phương và đa phương sẽ làm tăng số lượng các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về tài chính,công nghệ và trình độ quản lý,gia tăng áp lực cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa do nới lỏng các hạn chế về mở chi nhánh,phạm vi hoạt động và huy động vốn(quy mô,đồng tiền,khách hàng và sản phẩm) của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.Trong khi đó,năng lực cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam còn thấp,những gì ngân hàng Việt Nam thiếu và yếu thì các ngân hàng nước ngoài lại có và mạnh hơn.
Vốn nhỏ và năng lực tài chính yếu,chất lượng tài sản có thấp:nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam(theo tiêu chuẩn quốc tế)còn lớn.Các ngân hàng thương mại cổ phần hầu hết còn có quy mô tài chính và hoạt động nhỏ.Khả năng tăng vốn và xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại nhà nước còn gặp nhiều khó khăn.Vì vậy,khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam thấp,trong khi đó trình độ quản trị ngân hàng còn yếu.So với yêu cầu bảo đảm an toàn hoạt động và quy mô hoạt động,mức vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn trong việc làm tăng vốn để đạt tỷ lệ an toàn vốn 8%trong ngắn hạn do nợ xấu lớn,khả năng tích luỹ nội bộ nhỏ và khả năng bổ sung vốn từ ngân sách nhà nước cũng rất khó khăn,trong khi đó tài sản có,nhất là tín dụng,lại tăng trưởng nhanh(bình quân 25%/năm từ năm 1998 trở lại đây,thậm chí có ngân hàng thương mại nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng 30%/năm).
Hiện nay,sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng trong nước còn đơn điệu,nghèo nàn,tính tiện lợi chưa cao,chất lượng dịch vụ thấp, “độc canh” kinh doanh tín dụng còn phổ biến ở nhiều ngân hàng.Các dịch vụ ngân hàng mới như ngân hàng điện tử,môi giới kinh doanh,nghiệp vụ ngân hàng đầu tư,tư vấn chưa được phát triển hoặc ở giai đoạn thí điểm,thử nghiệm.Hầu hết các ngân hàng thiếu chiến lược kinh doanh bền vững,chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng bằng tăng tài sản có,mở rộng tín dụng,không chú trọng nâng cao chất lượng tài sản và khả năng sinh lời.Các tổ chức tín dụng gặp nhiều hạn chế trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Công nghệ ngân hàng còn lạc hậu:các ngân hàng Việt Nam chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu,hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu,hệ thống kiểm tra,kiểm toán chưa hiệu quả,hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán,quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của quá trình hội nhập quốc tế.Đội ngũ cán bộ của hệ thống ngân hàng khá đông nhưng trình độ am hiểu về chuyên môn nghiệp vụ,luật pháp quốc tế và trong nước,các nguyên tắc của WTO…còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng hiện đại,yêu cầu của hội nhập quốc tế.Luật pháp và chính sách quản lý lao động hiện nay còn nhiều bất cập,đặc biệt là thiếu hệ thống khuyến khích hợp lý để thu hút và phát triển đội ngũ cán bộ có trình độ cao.Cơ cấu tổ chức bộ máy của các ngân hàng Việt Nam còn cồng kềnh và chưa được phân bổ hợp lý,gây khó khăn cho quá trình hiện đại hoá và áp dụng các thông lệ quản trị ngân hàng tốt nhất.
Rủi ro ngoại sinh từ thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng rủi ro thị trường(giá cả,lãi suất,tỷ giá,chu chuyển vốn)do tác động từ bên ngoài,xoá đi khả năng tận dụng chênh lệch tỷ giá,lãi suất giữa thị trường trong nước và quốc tế.Hệ thống ngân hàng trong nước cũng phải đối mặt lớn hơn với các rủi ro khủng hoảng và các cú sốc kinh tế,tài chính khu vực và trên thế giới.Sự kém phát triển của thị trường vốn có thể sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do rủi ro gây nên.Quy mô và tốc độ luân chuyển các luồng vốn quốc tế càng nhiều,khủng hoảng tài chính-tiền tệ trở thành nguy cơ luôn thường trực đối với các nền kinh tế của các nước đang phát triển,trong khi đó hệ thống giám sát tài chính toàn cầu chưa có hiệu quả.
Rủi ro gia tăng song năng lực điều hành vĩ mô của ngân hàng nhà nước và khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng thương mại còn thấp.Năng lực điều hành tiền tệ của ngân hàng nhà nước,đặc biệt là kiểm soát tỷ giá và lãi suất trong điều kiện tự do hoá,còn nhiều hạn chế.Hội nhập tài chính quốc tế làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ nếu như tỷ giá không được tự do hoá trong điều kiện tài khoản vốn được nới lỏng.Mặt khác năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của ngân hàng nhà nước còn yếu,đặc biệt khả năng giám sát rủi ro-phát hiện sớm và ngăn chặn rủi ro-và đối với một số nghiệp vụ và sản phẩm ngân hàng mới được tung vào thị trường.
Mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô,khách hàng và hệ thống kênh phân phối.
Hiện tại ưu thế thị phần,khách hàng và kênh phân phối thuộc về các ngân hàng trong nước do các ngân hàng nước ngoài vẫn còn chịu sự hạn chế về phạm vi và quy mô hoạt động.Tuy nhiên,những hạn chế này và sự phân biệt đối xử sẽ được loại bỏ căn bản từ sau năm 2010,vì vậy các ngân hàng nước ngoài cung cấp tăng lên.Điều này buộc các ngân hàng của Việt Nam phải nhường một phần khách hàng và thị trường cho các ngân hàng nước ngoài.Khi nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng,các ngân hàng nước ngoài với công nghệ,trình độ quản lý và hệ thống sản phẩm dịch vụ đa dạng,có chất lượng cao hơn để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng từ bản địa sang làm ăn ở Việt Nam và các cá nhân,tổ chức kinh tế Việt Nam.
Gia tăng chi phí quá mức cho hiện đại hoá công nghệ ngân hàng so với lợi nhuận đem lại trong điều kiện tốc độ phát triển công nghệ và dịch vụ ngân hàng diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trước áp lực cạnh tranh mạnh khi mở cửa thị trường tài chính,các ngân hàng trong nước có thể hiện đại hoá công nghệ quá nhanh,vượt quá năng lực vận hành và kiểm soát có hiệu quả của mình.Một số ngân hàng khác,do nguồn lực tài chính hạn chế,đã hiện đại hoá công nghệ một cách thiếu đồng bộ và không có tính hệ thống mở.Vì vậy công nghệ ngân hàng mới có khi lại tạo ra những rủi ro gây ra lãng phí tài chính.Vấn đề này trở nên nghiêm trọng hơn khi các ngân hàng trong nước không có khả năng quản lý và giám sát hiệu quả các rủi ro gắn liền với công nghệ và sản phẩm ngân hàng mới do thiếu các công cụ và kỹ năng quản trị rủi ro.Mặt khác,tốc độ phát triển của công nghệ và sản phẩm mới trong lĩnh vực tài chính làm rút ngắn vòng đời của công nghệ và sản phẩm tài chính.Vì vậy,đây cũng là thách thức đối với các ngân hàng trong nước trong điều kiện nhu cầu thị trường về các dịch vụ ngân hàng mới còn hết sức hạn chế.
Hệ thống pháp luật ngân hàng chưa đồng bộ và nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hệ thống chính sách,pháp luật.ngân hàng hiện nay vẫn còn tồn tai những hạn chế tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng,giữa các nhóm ngân hàng và giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài,tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh.Một số quy định pháp luật thể hiện sự can thiệp hành chính quá sâu vào hoạt động của các ngân hàng,hạn chế quyền tự chủ kinh doanh của các ngân hàng.Hiệu lực thực thi pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng chưa cao dẫn đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các ngân hàng chưa được bảo vệ hợp lý.
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG PETROLIMEX CHI NHÁNH GIA LÂM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1.Giới thiệu chung về ngân hàng petrolimex chi nhánh Gia lâm
2.1.1.Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức
Tiền thân của ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex là ngân hàng TMCP Nông thôn Đồng Tháp.Ngân hàng Đồng tháp Mười được phép hoạt động theo giấy phép số 0045/NH-GP ngày 13/11/1993 do thống đốc ngân hàng nhà nước cấp với vốn điều lệ ban đầu là 700.000.000đ,phạm vi hoạt động tại địa bàn tỉnh Đồng Tháp.Sau 10 năm hoạt động,bộ máy tổ chức của ngân hàng đã không ngừng được củng cố,ngân hàng luôn đạt được tốc độ tăng trưởng tốt,nợ quá hạn thấp,kết quả kinh doanh hàng năm đều có lãi chia cổ đông,vốn điều lệ đạt 5.000 triệu đồng(tăng 7 lần so với số vốn điều lệ ban đầu).
Thực hiện phương án tái cấu trúc cơ cấu hoạt động ngân hàng tháng 7 năm 2005,Ngân hàng Đồng Tháp Mười đã mời thêm các cổ đông mới tham gia,tăng vốn điều lệ lên 90 tỷ đồng,trong đó có các cổ đông lớn có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như tổng công ty xăng dầu Việt Nam(PETROLIMEX),công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn(SSI)
Thực hiện phương án tái cấu trúc cơ cấu hoạt động ngân hàng tháng 7 năm 2005,Ngân hàng Đồng Tháp Mười đã mời thêm các cổ đông mới tham gia,tăng vốn điều lệ lên 90 tỷ đồng,trong đó có các cổ đông lớn có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như tổng công ty Xăng dầu Việt Nam(PETROLIMEX),Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn(SSI).
Với sự tham gia của các cổ đông lớn,hoạt động của ngân hàng đã có nhiều chuyển biến tích cực,tháng 9 năm 2006 ngân hàng tăng vốn lên 200 tỷ đồng, tổng tài sản của PG Bank tại thời điểm 31/12/2006 đạt1.187 tỷ đồng,tổng dư nợ 801 tỷ đồng,tổng doanh thu năm 2006 đạt 69 tỷ đồng,lợi nhuận trước thuế là 17,49 tỷ đồng.Ngân hàng đã cùng với một tổ chức tư vấn nước ngoài hoàn thiện chiến lược phát triển dài hạn.Đồng thời,ngân hàng cũng lựa chọn và triển khai phần mềm ngân hàng lõi (Core banking)của hàng IFLEX,một trong những phần mềm ngân hàng hiện đại nhất hiện nay.
Tháng 3 năm 2007,PG Bank được ngân hàng nhà nước cho phép chuyển đổi thành ngân hàng cổ phần đô thị theo quyết định số 125/QĐ-NHNN ngày 12/01/2007.Theo đó,ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex sẽ được phép mở rộng mạng lưới trên phạm vi toàn quốc và thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ ngân hàng như thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối.
Chi nhánh ngân hàng PETROLIMEX Gia Lâm ra đời vào tháng 6/2007 là một trong mười chi nhánh tại miền bắc với các phòng ban là phòng hành chính,phòng kế toán,phòng ngân quỹ,phòng hỗ trợ tín dụng.
-Phòng hành chính:là phòng nghiệp vụ thực hiện các tác tổ chức cán bộ,đào tạo cán bộ theo chủ trương chính sách của nhà nước và của NHPG VN.Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh của chi nhánh.Thực hiện công tác an ninh bảo vệ an toàn chi nhánh.
-Phòng kế toán:Là phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng đồng thời tham
mưu cho giám đốc và tổ chức thực hiện công tác tài chính ,chi tiêu nội bộ;thực hiện công tác hạch toán kế toán .Cung cấp các dich vụ ngân hàng liên quan tới nghiệp vụ thanh toán ,xử lí hạch toán giao dịch.Xử lí và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy ; quản lí quỹ tiền mặt đến các thanh toán viên theo đúng quy định của nhà nước và NGPG VN.Ngoài ra còn tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
của nhà nước và NHCT VN
-Phòng ngân quỹ: là phòng nghiệp vụ quản lí kho quỹ an toàn ,quản lí tiền mặt theo quy định của NHNN và NHPG VN .Ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm ,các giao dịch viên;thu tiền mặt cho các daonh nhgiệp có chi tiền mặt lớn.Ngoài ra còn tham mưu cho giám đốc về điều hành tiền mặt hàng ngày đảm bảo an toàn,có hiệu quả.
-Phòng hỗ trợ tín dụng:xem xét các hoạt động tín dụng nhằm đảm bảo tính hợp pháp,hợp lệ,đầy đủ của hồ sơ tín dụng,đồng thời tổ chức kiểm soát,theo dõi tình hình dư nợ,thu hồi nợ và đề xuất các giải pháp liên quan đến việc thu nợ…
2.1.2.Các dịch vụ cơ bản tại chi nhánh ngân hàng Petrolimex Gia Lâm
Hiện nay PG Bank có mười loại dịch vụ phục vụ khách hàng bao gồm:tài khoản,tiết kiệm,bảo lãnh,cho vay,ngân quỹ,ngoại hối,ngân hàng điện tử,thanh toán quốc tế,chuyển tiền,thẻ.
Dịch vụ tài khoản tiền gửi :
Là giải pháp hiện đại cho việc giữ tiền an toàn,sinh lời và thanh toán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3238.doc.doc