MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN II: NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN XUẤT KHẨU 2
1.1. Tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 2
1.1.1. Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế 2
1.1.2.Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại 5
1.2. Nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu 8
1.2.1. Nghiệp vụ bao thanh toán 8
1.2.2. Vai trò, chức năng và quy trình nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu 11
1.2.3. Những lợi ích của Bao thanh toán xuất khẩu 18
1.2.5. Điều kiện để ngân hàng thương mại thực hiện Bao thanh toán xuất khẩu 23
1.2.6. Hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam thời gian qua 26
CHƯƠNG II: KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN BAO THANH TOÁN 28
XUẤT KHẨU TẠI EXIMBANK HÀ NỘI 28
2.1. Tổng quan về Eximbank Hà Nội 28
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Eximbank Hà Nội 28
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu thời gian qua 31
2.1.3. Đánh giá chung về Eximbank Hà Nội 36
2.2. Nhu cầu phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 38
2.2.1. Nhu cầu hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu 38
2.2.2. Tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội 43
2.3. Đánh giá các điều kiện thực hiện nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 52
2.3.1. Những điều kiện thuận lợi 52
2.3.2. Những điều kiện còn hạn chế và nguyên nhân 54
CHƯƠNG III: PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN XUẤT KHẨU TẠI EXIMBANK HÀ NỘI 62
3.1.Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội thời gian tới 62
3.1.1.Định hướng xuất khẩu nói chung c5ủa Việt Nam giai đoạn 2010-2015 62
3.1.2. Định hướng tài trợ xuất khẩu của Eximbank Hà Nội giai đoạn 63
3.2. Phát triển nghiệp vụ Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội 64
3.2.1. Xu hướng phát triển Bao thanh toán xuất khẩu trên thế giới 64
3.2.2. Giải pháp và kiến nghị 65
PHẦN III. KẾT LUẬN 71
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2512 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh Eximbank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
truyền thống vừa hiện đại.
Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của Eximbank Hà Nội
Eximbank Hà Nội là một ngân hàng thương mại cổ phần tiến hành các hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng nhằm phục vụ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Nội dung hoạt động kinh doanh cụ thể là:
- Nhận tiền gửi tiết kiệm dân cư, tiền gửi của các cá nhân và đơn vị bằng VNĐ, ngoại tệ và vàng. Tiền gửi của khách hàng được bảo hiểm theo quy định của Nhà nước.
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn; cho vay đồng tài trợ; cho vay thấu chi, cho vay sinh hoạt, cho vay tiêu dùng; cho vay theo hạn mức tín dụng bằng VNĐ, ngoại tệ và vàng.
- Mua bán các loại ngoại tệ theo phương thức giao ngay, hoán đổi, kỳ hạn và quyền lựa chọn tiền tệ.
- Thanh toán, tài trợ xuất nhập khẩu hàng hoá, chiết khấu chứng từ hàng xuất; thực hiện chuyển tiền qua hệ thống SWIFT với thời gian nhanh chóng, chi phí hợp lý, an toàn với các hình thức thanh toán bằng L/C, D/A, D/P, T/T, OP, Checks.
- Thực hiện dịch vụ ngân quỹ, chi lương, thu chi nội bộ, thu chi tại chỗ, thu đổi ngoại tệ, nhận và chi trả kiều hối, chuyển tiền trong và ngoài nước.
- Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa và quốc tế, thẻ Eximbank MasterCard, thẻ Eximbank Visa; phát hành và thanh toán thẻ ATM; thanh toán qua mạng bằng thẻ.
- Dịch vụ tài chính trọn gói, hỗ trợ du học; tư vấn đầu tư - tài chính - tiền tệ.
- Các nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước như: bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, thanh toán thuế, chào bán, bảo hành, ứng trước...).
- Dịch vụ đa dạng về địa ốc; Home – Banking, Telephone – Banking, Internet – Banking, Moblie – Banking... Đây đều là những dịch vụ của một ngân hàng hiện đại.
Ngoài ra còn có các dịch vụ khác như: Bồi hoàn chi phiếu bị mất cắp đối với trường hợp Thomas Cook Traveller’ Cheques, cùng với những dịch vụ và tiện ích ngân hàng khác đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu thời gian qua
Trong hơn 20 năm hoạt động, dù có những lúc hết sức khó khăn nhưng Eximbank Hà Nội đã luôn cố gắng, nỗ lực hết mình và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Với sự tăng trưởng về nhiều mặt, chi nhánh đã dần dần khẳng định được vị thế của mình trên nhiều lĩnh vực hoạt động. Sau đây là một số kết quả hoạt động của Eximbank Hà Nội thời gian qua:
Về huy động huy động vốn:
Qua các năm, tốc độ tăng trưởng huy động vốn của Eximbank đã không ngừng được tăng lên. Trong năm 2009, tổng nguồn huy động của chi nhánh là 1048,81 tỷ đồng, tăng 13% so với năm 2008, đạt 9,9% so với toàn hệ thống Eximbank Việt Nam. Chi nhánh đã triển khai mở rộng công tác huy động vốn tập với các đối tượng khách hàng khác nhau, đảm bảo cho nhu cầu vốn để kinh doanh của chi nhánh. Việc áp dụng linh hoạt cơ chế lãi suất thoả thuận, phí dịch vụ ngân hàng, chính sách khách hàng ưu đãi, tiếp thị và chăm sóc khách hàng có trọng tâm, trọng điểm đã nâng tổng số lượng khách hàng giao dịch tại chi nhánh. Ngoài nguồn vốn huy động từ các tổ chức dân cư, Eximbank còn được sự hỗ trợ về vốn từ Ngân hàng Nhà nước, nhận vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ từ chương trình viện trợ của Chính phủ Thuỵ Sỹ. Eximbank Hà Nội cũng liên tục triển khai các chương trình huy động vốn với những hình thức đa dạng và phong phú như: các chương trình tiết kiệm dự thưởng, Lộc tài liền tay, gửi tiết kiệm và du xuân cùng Eximbank... với những phần quà hấp dẫn, lãi suất cao cho khách hàng.
Về hoạt động tín dụng
Mặc dù chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trong hệ thống ngân hàng và vừa hoàn thành cơ cấu lại hoạt động tín dụng, song thời gian qua hoạt động tín dụng của Eximbank Hà Nội cũng đã đạt được những sự tăng trưởng nhất định cả về doanh số lẫn chất lượng các khoản cho vay. Đến ngày 31/12/2010, doanh số cho vay của chi nhánh đạt 2504,679 tỷ đồng, tăng 23,20% so với cùng kì năm 2009, chiếm tỷ trọng 11,2% tổng doanh số toàn hệ thống. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng và cơ cấu dư nợ tăng thêm trong năm được đánh giá là lành mạnh, thể hiện được chiến lược của ngân hàng là tăng trưởng nợ theo hướng phân tán rủi ro, đa dạng hoá danh mục cho vay, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm tín dụng.
Bảng 1:Báo cáo kết quả cho vay của Eximbank Hà Nội
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm
Doanh số cho vay
Dư nợ
Trị giá
% tăng giảm
Trị giá
% tăng giảm
2008
1664,008
663,503
2009
2033,019
+22,18%
790,138
+19,09%
2010
2504,679
+23,20%
995,851
+26,04%
(Nguồn: Phòng tín dụng đầu tư Eximbank Hà Nội)
Trong những năm gần đây, ngoài những sản phẩm cho vay truyền thống như tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay vốn lưu động chủ yếu phục vụ doanh nghiệp... chi nhánh cũng đã nỗ lực thực hiện đa dạng hoá với các hoạt động mới như: cho vay tiêu dùng cá nhân, hỗ trợ du học, chiết khấu giấy tờ có giá... Đây là nguồn mà lãi suất cho vay không chỉ cao hơn mức cho vay các doanh nghiệp mà còn giúp ngân hàng phân tán được rủi ro. Chính sự chuyển dịch này đã giúp cho hoạt động tín dụng của Eximbank Hà Nội thời gian qua phát triển nhưng vẫn kiểm soát tốt tình hình nợ xấu mới phát sinh. Chi nhánh cũng đã chủ động tư vấn cho doanh nghiệp vay vốn với chi phí rẻ nhất như phân tích tình hình biến động tỷ giá và tư vấn khách hàng nên vay vốn bằng ngoại tệ. Tư vấn tài chính cho khách hàng của chính mình là một trong nhiều dịch vụ mà Eximbank Hà Nội đang tiến hành và đạt được hiệu quả.
Về nghiệp vụ bảo lãnh:
Đây là một trong những nghiệp vụ đem lại nguồn thu đáng kể cho Eximbank Hà Nội trong những năm gần đây. Điều này chứng tỏ khách àng có sự tin tưởng và tín nhiệm lớn đối với ngân hàng. Sự tín nhiệm này vẫn không ngừng được củng cố và phát triển.
Về hoạt động thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế vừa là thế mạnh vừa là nghiệp vụ truyền thống của Eximbank Việt Nam nói chung và của Eximbank Hà Nội nói riêng. So với các ngân hàng khác trên địa bàn về thanh toán quốc tế, chi nhánh chiếm tỷ trọng khá lớn và là một trong những ngân hàng rất có uy tín. Tổng giá trị thanh toán xuất nhập khẩu của chi nhánh trong năm 20010 đạt 165.374,93 ngàn USD, tăng 28,01% so với năm 2009. Trong đó giá trị thanh toán xuất khẩu đạt 67.192,48 ngàn USD, chiếm 40,63% tổng giá trị thanh toán; giá trị thanh toán nhập khẩu đạt 98.182,45 ngàn USD, chiếm 59.37% tổng giá trị thanh toán.
Bảng 2: Doanh số thực hiện thanh toán quốc tế tại Eximbank Hà Nội
CHỈ TIÊU
2008
2009
2010
THANH TOÁN HÀNG XUẤT KHẨU
L/C
Số món
286
342
263
Giá trị (ngàn USD)
49.132,02
58.752,28
66.344,28
Nhờ thu
Số món
43
58
52
Giá trị (ngàn USD)
519,71
701
848,2
THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU
L/C
Số món
646
721
925
Giá trị (ngàn USD)
50.263,66
56.099,22
76.824,48
Nhờ thu
Số món
143
152
152
Giá trị (ngàn USD)
3.222,35
3425,15
1.887,3
TTR
Số món
573
688
791
Giá trị (ngàn USD)
8.507,77
10.215,26
19.470,67
TỔNG GIÁ TRỊ ( NGÀN USD)
111.645,51
129.192,91
165.374,93
(Nguồn: Phòng thanh toán quốc tế Eximbank Hà Nội)
Eximbank tài trợ tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những nhóm mặt hàng thanh toán xuất khẩu là nông sản, thuỷ sản, may mặc, giày da, thủ công mỹ nghệ, than đá. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu như: nguyên liệu dược, xăng dầu, hạt nhựa, giấy, sợi, sắt thép phục vụ cho sản xuất trong nước và máy móc thiết bị đầu tư mở rộng. Trong thời gian tới, chi nhánh sẽ tiếp tục đưa ra nhiều gói sản phẩm mới để khách hàng lựa chọn nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Hơn 20 năm hoạt động, Eximbank Hà Nội luôn chấp hành tốt các quy định, quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế, không để xảy ra sai sót, rủi ro trong thanh toán, khối lượng thanh toán qua chi nhánh không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Về lĩnh vực thanh toán quốc tế, Eximbank được đánh giá rất cao bởi không chỉ các khách hàng trong nước mà cả bởi các ngân hàng lớn, có uy tín trên thế giới. Năm 2010 vừa qua, ngân hàng đã vinh dự được nhận bằng khen về chất lượng dich vụ thanh toán điện quốc tế qua mạng SWIFT do ngân hàng Standard Chertered Bank trao tặng. Đây là lần thứ hai Eximbank nhận được danh hiệu này.
Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Kinh doanh ngoại tệ cũng là một trong những thế mạnh của Eximbank Hà Nội, hoạt động này cũng liên quan mật thiết với hoạt động thanh toán quốc tế. Trong những năm qua, chi nhánh đã luôn chủ động khai thác được những nguồn ngoại tệ phục vụ hoạt động của ngân hàng và khách hàng. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đáp ứng cho cả nhu cầu của khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp với những nghiệp vụ hết sứàn mới mẻ và hiệu quả như: các giao dịch giao ngay (Spot), giao dịch kì hạn (Forward), quyền chọn tiền tệ ( option)... Đây là những công cụ rất hữu hiệu trong việc phòng chống rủi ro tỷ giá cho khách hàng. Hiện nay chi nhánh cũng cung cấp miễn phí cho khách hàng bản tin dự báo tỷ giá ngoại tệ, vàng và áp dụng cơ chế mua bán linh hoạt, trực tiếp với khách hàng có nhu cầu theo diễn biến cung cầu của thị trường. Trong năm 2010, tổng giá trị mua bán ngoại tệ đạt 1,2597 tỷ USD, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm 2009 trong đó giá trị giao dịch trên thị trường tài chính trong nước đạt 0,9570 tỷ USD.
Về hoạt động thẻ
Về nghiệp vụ thẻ, Eximbank Hà Nội đã mạnh dạn đầu tư về công nghệ, con người... để phát triển hệ thống thanh toán và phát hành các loại thẻ ngân hàng. Eximbank phát hành cả thẻ nội địa, thẻ quốc tế và thẻ tín dụng. Trong năm 2010, doanh số phát hành thẻ Eximbank Mastercard và VisaCard đạt 19,52 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2009. Doanh số thanh toán thẻ đạt 1,21 triệu USD. Trong năm 2010, Eximbank đã phát hành thẻ VisaDebit với rất nhiều tiện ích và là ngân hàng đầu tiên trong cả nước phát hành loại thẻ này. Với loại thẻ này, khách hàng có thể sử dụng để mua hàng, thanh toán tiền hàng tại các điểm chấp nhận thẻ, thanh toán tiền điện, nước... Khách hàng sẽ dễ dàng kiểm soát được chi tiêu củamình, đồng thời vẫn được hưởng lãi suất cho số tiền chưa sử dụng. Trong vòng hai tháng kể từ thời điểm khai trương, toàn hệ thống Eximbank đã phát hành hơn 6000 thẻ Eximbank VisaDebit. Hệ thống thanh toán thẻ ATM được đưa vào hoạt động năm 2009, đến nay đã tương đối phát triển, đã phát hành được khoảng 5000 thẻ, làm tăng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt cho nền kinh tế. Trong tương lai, chi nhánh vẫn có kế hoạch phát triển và khai thác triệt để nghiệp vụ này nhằm tăng thu từ mảng dịch vụ đầy tiềm năng này.
Về hoạt động đối ngoại
Trong thời gian qua, Eximbank Hà Nội đã xây dựng được mạng lưới các ngân hàng đại lý rộng khắp và uy tín trên toàn thế giới. Trong năm 2009 Eximbank đã thiết lập thêm quan hệ đại lý với 21 ngân hàng nước ngoài gồm 9 hội sở và 12 chi nhánh tại 10 quốc gia. Tính đến 31/12/2009, chi nhánh đã có quan hệ đại lý với 623 ngân hàng tại 61 quốc gia. Bên cạnh đó, chi nhánh còn nhận được sự hợp tác, đào tạo từ các chương trình hỗ trợ cấp quốc gia của các tổ chức quốc tế triển khai tại Việt Nam, điển hình là dự án Đức Việt. Các chuyên gia quốc tế nhiều kinh nghiệm đã giúp đỡ Eximbank rất nhiều trong việc nâng cao kĩ năng cho cán bộ quản lý và nhân viên của chi nhánh. Với mối quan hệ với các ngân hàng trên quốc tế hiệu quả, Eximbank ngày càng khẳng định được vị thế của mình khi bước vào thời kì hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1.3. Đánh giá chung về Eximbank Hà Nội
Qua quá trình thực tập tổng hợp, em rút ra một số nhận xét về ngân hàng như sau:
- Về điểm mạnh:
Với tư cách là một ngân hàng xuất nhập khẩu, so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác, Eximbank nói chung và Eximbank Hà Nội nói riêng hiện có ưu thế hơn về mảng hoạt động ngân hàng quốc tế, phục vụ xuất nhập khẩu, đặc biệt là mảng thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối. Ngân hàng cũng có những chủ trương chú trọng tăng năng lực cạnh tranh vào mũi nhọn này. Khi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần sự trợ giúp từ ngân hàng, bên cạnh Ngân hàng Ngoại thương, họ đều nghĩ đến Eximbank với sự tín nhiệm và tin tưởng. Với kinh nghiệm gần 20 năm hoạt động, Eximbank đã dần tạo được vị trí của mình trong lòng khách hàng, trở thành ngân hàng phục vụ mạnh về xuất nhập khẩu, góp phần vào thành công trong hoạt động xuất nhập khẩu của khu vực miền bắc nói riêng và cả nước nói chung.
So với các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cổ phần, Eximbank là một trong những ngân hàng có số vốn điều lệ lớn nhất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh, có thể đầu tư nhiều hơn vào công nghệ và những sản phẩm mới…
Eximbank Hà Nội là chi nhánh lớn của một ngân hàng thương mại cổ phần nên hoạt động tương đối năng động, có sự nhạy bén trước những sự thay đổi của tình hình kinh tế nói chung cũng như tình hình trên thị trường tài chính tiền tệ nói riêng. Đây cũng là thế mạnh của Eximbank. Việc nắm bắt khoa học công nghệ hiện đại áp dụng vào thực tiễn hoạt động được chú trọng thường xuyên. Trước những thay đổi của thị trường như : Sự tăng lãi suất của FED, sự tăng đột biến của giá vàng đã được ngân hàng phản ứng rất nhanh nhạy. Ngân hàng cũng là ngân hàng đầu tiên thực hiện một số sản phẩm mới như: phát hành thẻ Visa Debit, thực hiện quyền chọn ngoại tệ giúp không ít khách hàng phòng ngừa rủi ro về tỷ giá... So với các ngân hàng thương mại khác trong, Eximbank Hà Nội có ưu thế hơn trong mảng hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối.
Eximbank Hà Nội cũng có một đội ngũ nhân viên trẻ trung, nhiệt tình, năng động, chuyên môn nghiệp vụ cao. Đội ngũ này là nguồn tài sản vô cùng quý giá của ngân hàng, góp phần không nhỏ vào thành công chung.
- Về điểm yếu: Cũng như các ngân hàng thương mại cổ phần khác, Eximbank Hà Nội tuy có những bước phát triển song số vốn vẫn còn ít, đặc biệt là so với các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Điều này cũng gây ra những khó khăn trong hoạt động của hệ thống nói chung và của chi nhánh nói riêng, làm hạn chế nhiều hoạt động của ngân hàng như hoạt động cho vay, bảo lãnh, đầu tư...
Một trong những điểm yếu của Chi nhánh là mạng lưới các chi nhánh còn mỏng hơn so với các ngân hàng khác cùng địa bàn. Eximbank Hà Nội hiện mới có 3 chi nhánh cấp III, chưa có các phòng giao dịch rộng rãi Hơn nữa tại khu vực miền bắc chỉ có Chi nhánh Eximbank Hà Nội và ba chi nhánh cấp II cũng tập trung ở địa bàn này. Điều này gây khó khăn trong việc ngân hàng tiếp cận với khách hàng của mình cũng như việc triển khai rộng khắp các dịch vụ và sản phẩm của chi nhánh, đặc biệt với các khách hàng xa khu vực Hà Nội.
Với nhiệm vụ chính là phục vụ xuất nhập khẩu, chế biến hàng xuất khẩu, tuy nhiên hoạt động phục vụ nhập khẩu vẫn là chính, đặc biệt là trong thanh toán quốc tế và tín dụng. Chính vì vậy trong tương lai cần phải có những biện pháp tích cực hơn nữa để hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời làm tăng thêm nguồn thu cho ngân hàng, phát huy đúng vai trò và chức năng của một ngân hàng xuất nhập khẩu.
- Cơ hội: Hội nhập kinh tế ngày càng sâu sắc, đem lại cho ngân hàng nhiều cơ hội mơi. Ngân hàng có cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, điều hành từ những ngân hàng uy tín, nổi tiếng. Đây là những kinh nghiệm hết sức quý báu. Hơn nữa chúng ta còn có thể được tiếp cận với những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại, nhanh chóng nắm bắt, áp dụng vào thực hiện trong các nghiệp vụ ngân hàng, tăng tính cạnh tranh. Hội nhập và phát triển cũng có nghĩa là thị trường cho ngân hàng có thể được mở rộng hơn.
- Thách thức: Quá trình hội nhập ngày càng sâu sắc, nhiều ngân hàng nước ngoài sẽ bước vào thị trường tài chính Việt Nam. So với các ngân hàng trong nước, ngân hàng nước ngoài có rất nhiều điểm mạnh về công nghệ, nguồn nhân lực, và vốn. Điều này thực sự là một thách thức đối với các ngân hàng Việt Nam trong việc vươn lên cạnh tranh để giữ vững và mở rộng thị phần.
Với những nhận định và đánh giá trên, chúng ta hy vọng rằng trong thời gian tới Eximbank Hà Nội sẽ tiếp tục phát huy những thế mạnh đã có đồng thời khắc phục những điểm yếu của mình để trở thành một trong những ngân hàng phát triển trên địa bàn và trong cả nước.
2.2. Nhu cầu phát triển Bao thanh toán xuất khẩu tại Eximbank Hà Nội
2.2.1. Nhu cầu hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu
2.2.1.1. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua
Diễn biến kinh tế xã hội trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra khá nhiều thách thức cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, tăng trưởng kinh tế đạt khá, xuất khẩu tăng trưởng ở mức cao trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Năm 2010, quy mô xuât khẩu liên tục tăng và đạt mức cao nhất từ trước tới nay ( 32 tỷ USD), mức bình quân mỗi tháng đạt 2,69 tỷ USD. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 66,1%, mức khá cao so với các nước trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đã tăng với tốc độ khá cao, nhất là so với tốc độ tăng trưởng các năm trước đây: năm 1998 tăng 1,19%; năm 1999 tăng 23,3%; năm 2000 tăng 25,5%; năm 2001 tăng 3,8%; năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 20,8%; năm 2004 tăng 28,9%. Các mặt hàng xuất khẩu gia tăng cả về chủng loại, số lượng và cơ cấu. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu là: dầu thô có kim ngạch xuất khẩu đạt 7,39 tỷ USD, tăng 30,3%; gạo xuất khẩu đạt trên 5,2 triệu tấn, thu về gần 1,4 tỷ USD; cao su tăng gần 32%, đạt 787 triệu USD… Có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, thuỷ sản, giày dép, hàng điện tử - linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và gạo. Trong hoạt động xuất khẩu đã có bước tiến trong thực hiện mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo ra những mặt hàng có khối lượng lớn, thị trường ổn định, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng thay đổi rõ rệt theo hướng bền vững hơn. Tập trung xuất khẩu vào các thị trường lớn nhưng khó tính như Mỹ, Nhật, EU… và thị trường mới như Châu Phi. Tóm lại tình hình xuất khẩu của nước ta thời gian qua có nhiều khởi sắc, khẳng định hướng đi đúng trong việc khuyến khích xuất khẩu, và đầu tư hơn nữa vào lĩnh vực xuất khẩu của đất nước.
2.2.1.2. Nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
Trong những năm vừa qua, hoạt động xuất khẩu đã có những bước phát triển, song còn hạn chế. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hoạt động, sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu gặp rất nhiều trở ngại, đặc biệt là doanh nghiệp mới thành lập và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo số liệu điều tra mới đây, những trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu là không tiếp cận được với nhà nhập khẩu nước ngoài, khó nhận được thông tin về thị trường nước ngoài, khó tiếp cận với nguồn vốn tài trợ xuất khẩu...
Qua bảng điều tra dưới đây, chúng ta có thể thấy nhu cầu được hiểu biết thông tin về thị trường xuất khẩu và các bạn hàng đối tác của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là rất lớn, chiếm 38%. Hầu hết những thông tin mà các doanh nghiệp có được đều thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, không mang tính hệ thống và chuyên nghiệp. Các công ty chuyên cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài lại chỉ đóng một vai trò hạn chế. Chính bởi thiếu thông tin nên các doanh nghiệp Việt Nam không thể đánh giá đầy đủ được đối tác của mình. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro khi các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần thông tin tin cậy, chính xác để đánh giá được khách hàng của mình, qua đó họ yên tâm hơn khi thực hiện giao dịch và tránh được những rủi ro từ phía đối tác.
Bảng 3: Điều tra nhu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
Đơn vị: Doanh nghiệp
STT
Các nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu các DN coi trọng
Số DN
%
1
Cung cấp thông tin về thị trường XK và uy tín của các đối tác thương mại.
384
38,0
2
Đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu.
176
17,4
3
Cung cấp tín dụng xuất khẩu và thành lập một hệ thống bảo hiểm thương mại.
110
11
4
Tăng cường tính minh bạch về thuế xuất khẩu.
30
3,0
5
Hoàn thiện cơ quan kiểm hoá hàng xuất khẩu.
47
4,5
6
Đào tạo kiến thức về chuẩn mực quốc tế đối với công nghệ.
32
3,2
7
Cung cấp dịch vụ tư vấn về xuất khẩu.
49
4,8
8
Tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu
100
10
9
Thành lập các trung tâm đầu mối để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu.
78
7,7
10
Các biện pháp khác.
5
0,4
Tổng
1011
100
(Nguồn: Bộ thương mại)
Một nhu cầu khác cũng rất được các doanh nghiệp xuất khẩu quan tâm đó là nhu cầu được tài trợ tín dụng, nhu cầu vốn để hoạt động. Có rất nhiều kênh dẫn vốn tới doanh nghiệp xuất khẩu như: Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, vốn ngân hàng, thu hút vốn trên thị trường chứng khoán... Có được kết quả xuất khẩu khả quan trong xuất khẩu, hoạt động tín dụng xuất khẩu trong nước đã góp một phần không nhỏ. Nếu hỗ trợ Nhà nước mang tầm vĩ mô và tác động một cách gián tiếp thì hỗ trợ tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng lại ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp một cách trực tiếp, tức thời và qua từng thương vụ.
Hoạt động tín dụng xuất khẩu của Nhà nước thời gian qua đã có nhiều kết quả đáng kể trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, sự ra đời của Quỹ bình ổn giá, Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Quỹ hỗ trợ phát triển đã thực hiện hỗ trợ thông qua ba hình thức : cấp tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Chủ yếu vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển tập trung vào một số ngành sản xuất, chế biến nông lâm sản, thuỷ hải sản, dệt may, cơ khí... Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có chức năng hỗ trợ về lãi suất, tài chính có thời hạn đối với những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, thưởng kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, để được hỗ trợ thông qua các quỹ này, các doanh nghiệp cũng phải đạt được một số điều kiện mà nhiều khi doanh nghiệp không đáp ứng được đặc biệt với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa, phần lớn việc tài trợ mới chỉ thực hiện với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động xuất khẩu, việc hỗ trợ cho các thành phần khác còn rất ít, không đáng kể. Các doanh nghiệp dân doanh tiếp cận nguồn vốn ưu đãi này là rất khó khăn; họ gặp phải nhiều trở ngại trong khâu vay vốn bởi nhiều quy định, thủ tục rắc rối, phức tạp, gây nhiều phiền hà. Một vấn đề nữa là ở chức năng, nhiệm vụ của Quỹ hỗ trợ phát triển. Quỹ không có chức năng thanh toán nên các doanh nghiệp thường thiên về vay vốn ngân hàng thương mại để tiết kiệm thời gian, phí chuyển nhượng và tránh các thủ tục rườm rà.
Thiếu vốn không chỉ là vấn đề lớn của các doanh nghiệp xuất khẩu mà còn là vấn đề chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Một kênh khác có thể tạo vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu là huy động thông qua thị trường chứng khoán. Mặc dù thị trường chứng khoán của nước ta đã ra đời được năm năm, nhưng thực tế vẫn chưa phát huy được đúng chức năng của nó. Thị trường chứng khoán nước ta mới huy động được số vốn chiếm khoản 0.03% - 0.04% GDP, đây là một con số quá bé nhỏ. Hơn nữa các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, hoạt động manh mún, chưa có nhiều uy tín trên thị trường nên việc tiếp cận vốn theo kênh này là rất khó khăn. Vì vậy, để có vốn, các doanh nghiệp xuất khẩu một lần nữa lại phải dựa vào hệ thống các ngân hàng thương mại.
Trong việc tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, các ngân hàng thương mại có một vai trò hết sức quan trọng. Đến nay, tại Việt Nam có 4 NHTM Quốc doanh, khoảng 36 NHTM Cổ phần, và hơn 40 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh với nước ngoài. Các NHTM không chỉ là bạn hàng mà còn là người đỡ đầu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Dù đã có nhiều cố gắng song hoạt động tài trợ xuất khẩu của khối các NHTM vẫn còn hạn chế. Nghiệp vụ tài trợ xuất khẩu còn khá đơn điệu, chủ yếu dưới hình thức cổ điển, còn các hình thức tiên tiến khác chưa áp dụng hoặc áp dụng nhưng kết quả không đáng kể. Hoạt động tài trợ tín dụng chủ yếu là thanh toán L/C, phát hành bảo lãnh, hối phiếu đi kèm bộ chứng từ nhờ thu... Dịch vụ chiết khấu chứng từ thì mới chỉ dừng lại ở chiết khấu có truy đòi.
Như vậy có thể nói nhu cầu vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu là rất lớn, nhưng đến nay nhu cầu này vẫn chưa được đáp ứng một cách đầy đủ.
Một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp xuất khẩu quan tâm hiện nay đó là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế còn rất thấp. Khả năng cạnh tranh có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Nó tạo ra những lợi thế so sánh của một doanh nghiệp, một mặt hàng này với một doanh nghiệp, một mặt hàng khác. Khả năng cạnh tranh thể hiện trên nhiều khía cạnh: giá, chất lượng sản phẩm, các điều kiện thanh toán giữa hai bên... Các doanh nghiệp nước ta sản xuất thường với công nghệ lạc hậu hơn, do đó chất lượng hàng thấp, giá thành lại cao, khả năng cạnh tranh với mặt hàng cùng loại là rất kém. Hơn nữa, các điều kiện thanh toán đưa ra cũng chưa đủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp thường bán hàng và yêu cầu điều khoản thanh toán mở L/C để phòng tránh rủi ro. Đây là một biện pháp tương đối an toàn nhưng lại không mang tính cạnh tranh. Điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 167.doc