Phụ lục
Lời mở đầu .1
Chương I 2
Quản lý Nhà nước đối với sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa 2
1/ Lịch sử hình thành và phát triển nhãn hiệu hàng hóa 2
1.1/ Trên thế giới 2
1.2/ Ở Việt Nam 8
2/ Quản lý Nhà nước sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa 14
2.1/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa 14
2.2/ Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam 16
Chương II 17
Thực trạng quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa trong giai đoạn 2005-2007 17
1/ Thực trạng về SHTT nhãn hiệu hàng hóa 17
1.1/ Thực trạng chung 17
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội 19
1.3/ Đánh giá, kết luận 22
2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội 23
2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn hiệu hàng hóa 23
2.2/ Quy trình xét duyệt và cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa 34
2.3/ Hệ thống quản lý thông tin về nhãn hiệu hàng hóa 48
2.4/ Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Cục 51
2.5/ Đánh giá, kết luận 52
Chương III 56
Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa 56
1/ Hệ thống luật pháp 56
2/ Quy trình xét duyệt 56
3/ Quản lý hệ thống thông tin nhãn hiệu 57
4/ Thanh tra, kiểm tra về nhãn hiệu hàng hóa 57
5/ Sự phối hợp giữa các cơ quan 58
Kết luận 59
Các tài liệu sử dụng trong chuyên đề. 60
Phụ lục 61
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản lý nhà nước đối với sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (National office of intellectual property of Viêt Nam) tại địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n xuất xe máy thì nhiều hộ kinh doanh đã bước đầu nhận thức được hành vi vi phạm quyền SHCN và hậu quả pháp lý của nó. Nhiều hộ đã yêu cầu các nhà sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước phải cam kết sản phẩm của mình không vi phạm quyền SHCN
Trong lĩnh vực dược phẩm, theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), mỗi năm Việt Nam có khoảng 80 bằng độc quyền được cấp liên quan đến dược phẩm. Tuy nhiên, đó hầu hết là các loại dược phẩm nước ngoài, trong khi doanh nghiệp dược trong nước cũng như cơ quan quản lý chưa thích ứng kịp với các quy định liên quan đến vấn đề này. Điều này đồng nghĩa với việc các sản phẩm dược nội địa đã và đang đứng ở một vị trí bất lợi mà nó có thể gây ra thiệt hại rất lớn khi tranh chấp sở hữu trí tuệ xảy ra.
Trong lĩnh vực phần mềm Việt Nam vẫn đang đứng trên top-5 thế giới về tỉ lệ phần mềm lậu (88%) năm 2006. Không chỉ phần mềm lậu, Việt Nam vốn nổi tiếng là “thiên đường” của các sản phẩm sở hữu trí tuệ lậu, nhất là phim ảnh, âm nhạc, sách tiếng Anh, và games. Trong khi đó, chúng ta đã ký công ước Berne và nó có hiệu lực từ ngày 26 tháng 10 năm 2004
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội
Không ít doanh nghiệp vẫn thờ ơ, thậm chí thiếu hiểu biết về bảo hộ sở hữu công nghiệp hay lợi ích thực sự của việc làm này. Trong khi đó, pháp luật về sở hữu trí tuệ của VN chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở. Đây là một thực tế khiến tình trạng vi phạm diễn ra ngày càng nghiêm trọng và phức tạp.
Theo thống kê, mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000 vụ sản xuất và tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi chiếm phần lớn. Thực trạng này đang gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp cả về uy tín và doanh thu. Theo ông Trịnh Sỹ, Phó Giám đốc Công ty Bánh kẹo Tràng An, do sự gia tăng của các sản phẩm bánh kẹo giả, doanh thu của công ty năm nay đã giảm 30% so với năm ngoái. Tương tự như vậy, các sản phẩm bánh kẹo giả mạo sản phẩm của Công ty Hải Hà đã làm giảm 40% sản lượng của công ty so với trước đây. Những đối tượng vi phạm ngày càng có nhiều hành vi tinh vi hơn. Thậm chí, hành vi của nhiều đối tượng còn có một lực lượng hậu thuẫn giúp việc "tư vấn" để lách luật
Trên thực tế là nhiều doanh nghiệp không thể lường trước được việc nhãn hiệu hàng hóa uy tín của mình đã có người khác nhanh chân đăng ký bảo hộ "giúp" một cách hợp pháp. Thậm chí nhiều sản phẩm hàng hóa giả và nhái nhãn mác của họ đã được sản xuất và tung ra thị trường với số lượng lớn gây sự nhầm lẫn khó phân biệt cho người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp phải làm lại từ đầu, bằng cách xây dựng một nhãn hiệu mới, điều này đồng nghĩa với việc họ tự đánh mất mình. Trước thực tế trên, nhiều doanh nghiệp nhằm tránh những "vết xe đổ" đi trước, vội vàng làm thủ tục đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho cả những sản phẩm/dịch vụ chưa thực sự chiếm lĩnh được thị trường.
Tại địa bàn Hà Nội, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007 khi Cục quản lý thị trường tiến hành khảo sát đã có HN có 19 tụ điểm nghi vấn có hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả, đã lập danh sách 178 đầu mối sản xuất nghi có sản xuất hàng giả, kém chất lượng. Trong đó, có 33 cơ sở lương thực, thực phẩm, 128 cơ sở hàng tiêu dùng, 7 cơ sở vật liệu xây dựng, 20 cơ sở thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh đó, còn có 171 điểm giáp ranh mà lực lượng QLTT khó kiểm soát (13 khu vực giáp ranh với các tỉnh bạn, 55 khu vực giữa các quận, huyện, 103 khu vực giữa các phường, xã). Ngoài ra, với 631 chợ, 73 bến ôtô, 7 ga xe lửa, 4 khu vực triển lãm và 603 tụ điểm về hình sự... là những nơi hoạt động thương mại phức tạp. Có thể nói, hàng hoá Trung Quốc nhập vào TP đã tác động lớn tới thị trường HN và đây là nguồn chính của hàng giả mạo nhãn hiệu, xuất xứ. Qua 860 vụ vi phạm trong 6 tháng đầu năm 2007, có tới 415 vụ hàng giả, kinh doanh trái phép và vi phạm quy chế hàng hoá. Nổi lên một số thủ đoạn giả mạo và vi phạm nhãn hiệu hàng hoá như sau: Thị trường hàng giả đã "nội địa hoá" bằng phương thức nhập linh kiện, bán thành phẩm vào VN qua các làng nghề chế tác, gia công, gắn bao bì nhãn mác mới thành các sản phẩm "made in" Thái Lan và Nhật Bản như giày da các loại, kính mắt, bánh kẹo, tất chân...
Một số DN, đơn vị VN đặt hàng Trung Quốc sản xuất giống y hàng hiệu đã được thị trường chấp nhận như: Thiết bị vệ sinh (hiệu Joden, Clever), bếp ga Rinnai, Paloma, hoá mỹ phẩm (Gucci, Chanel...), máy nghe nhạc MP3, MP4. Hàng hoá này được đưa ra thị trường, bày bán công khai tại các khu phố thương mại với số lượng lớn.
Cũng trong thời gian này, cơ quan QLTT HN đã phát hiện thêm thủ đoạn mới của một số đối tượng như: Mở cửa hàng lấy tên thương hiệu nổi tiếng sau đó lừa bán cả cửa hàng và hàng hoá cho người khác (tập trung chính vào mặt hàng hoá mỹ phẩm). Một số đơn vị, cá nhân đăng ký tên thương mại trùng với tên nhãn hiệu đã được bảo hộ hàng hoá nổi tiếng để lừa dối người tiêu dùng như Cty TNHH cáp điện Trần Phú đặt Cty Thiên Phú sản xuất dây điện mang tên "Trần Phú" của Cty cơ điện Trần Phú đã bị CP15 và QLTT tịch thu tiêu huỷ 328 cuộn dây.
Trong lĩnh vực kỹ thuật số hàng giả đã đến mức báo động không chỉ đồng hồ, máy ảnh mà các loại linh kiện, cạc, sim, bộ nhớ, USB, màn hình LCD... giả mạo nhãn hiệu xuất xứ tăng rõ rệt với giá bán cạnh tranh tỉ lệ nghịch với chất lượng hàng hoá. Ông Vương Trí Dũng - Phó Chi cục trưởng Chi cục QLTT HN - cho biết: "Việc kinh doanh sử dụng tem NK giả, in ấn bao bì nhãn mác giả có quy mô và số lượng lớn đang tăng lên khó kiểm soát. Một số vụ hàng giả cho thấy có yếu tố móc nối với cá nhân, tổ chức nước ngoài làm hàng giả, nhất là giả mạo xuất xứ đưa vào VN ( theo Viêtbao.vn :
Bên cạnh đó, việc lợi dụng các nhãn hiệu nổi tiếng để sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng kém chất lượng cũng là tình trạng phổ biến và dễ bắt gặp. Chẳng hạn nhãn vụ nhãn hiệu Bia Hà nội, một thương hiệu được người dân biết đến như là một thương hiệu nổi tiếng trong thị trường bia và cũng không ngoại lệ nhãn hiệu này bị các cơ sở sản xuất khác nhái và cung cấp ra thị trường.
thống kê vi phạm nhãn hiệu – Cục sở hữu trí tuệ
1.3/ Đánh giá, kết luận
Xét trên bình diện chung, vi phạm sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa có thể được xem như một vấn nạn mà nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói chung phải ghánh. Qua thực trạng trên ta thấy mặc dù các cơ quan chức năng ngày càng nâng cao khả năng kiểm soát cũng như nhận thức của các cá thể kinh tế đã thay đổi khá nhiều nhưng về căn bản do còn quá nhiều mâu thuẫn cũng như bất cập và yếu kém đã làm cho vấn đề này không được giải quyết thấu đáo và hiệu quả mà ngược lại nó càng diễn ra phức tạp, sâu rộng và khó kiểm soát. Bản thân người làm chuyên đề khi khảo sát cũng như tìm hiểu cũng thực sự ngạc nhiên là thực trạng của vấn đề này lại lại phức tạp và mang tính thời sự hơn là những nhận định và cái nhìn cục bộ trước đó nhiều đến như vậy. Do đặc thù về địa bàn mà Hà nội là một trong nhưng trọng điểm của vấn đề sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa. Điểm sáng thì ít nhưng điểm tối lại dễ thấy và nhiều hơn nhiều lần so với những thống kê vì trên thực tế rất khó kiểm soát nếu không có một cơ chế, một nền tảng của pháp chế thực thi và kiểm soát gắn liền với thực tế. Vậy các cơ quan chức năng và một trong số đó là Cục Sở hữu trí tuệ đã quản lý lĩnh vực này thế nào trong những năm gần đây khi mà Việt Nam đã và đang đứng trước quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu và đã ra nhập WTO ?
2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội
2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn hiệu hàng hóa
a/ Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành năm 2005
Luật Sở hữu trí tuệ - một đạo luật lớn và phức tạp đã được quốc hội thông qua ngày 29/11/2005. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động sở hữu trí tuệ nói riêng và hoạt động quản lý nhãn hiệu nói chung. Nó là một nền tảng lớn để Việt Nam thắng lợi trong quá trình đàm phán ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật và kinh doanh đồng thời là công cụ quan trọng đối với hoạt động quản lý nhãn hiệu của Cục Sở hữu trí tuệ. Chúng ta điểm qua một vài điều quan trọng liên quan đến hoạt động quản lý nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ.
Theo điều 3- Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu hàng hóa nằm trong đối tượng quyền sở hữu công nghiệp cần được bảo hộ SHTT. Đối tượng SHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Tuy vậy vẫn có nhiều người nhầm lẫn rằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là tách biệt hoàn toàn với sở hữu công nghiệp trong khi trên thực tế nó lại là một bộ phận của SHCN. Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiều dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
Theo nội dung điều 3 ta thấy khi các sản phẩm được trao đổi, tiêu dùng sẽ phát sinh nhu cầu được bảo hộ nhãn hiệu của hàng hóa đó trong hoàn cảnh ngày càng có nhiều sản phẩm có chức năng và thiết kế giống nhau. Điều này càng làm tăng ý nghĩa và tầm quan trọng của nhãn hiệu trong kinh tế thương mại và đời sống.
Điều 6: Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Như vậy cũng như quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa chỉ được công nhận và xác lập quyền sở hữu trí tuệ khi nó được đăng kí bảo hộ tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Cục Sở hữu trí tuệ, tuân theo quy định tại luật SHTT và các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia như Thỏa ước Marid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp... Nếu nhãn hiệu hàng hóa không đăng kí hoặc đăng kí chậm thì nhãn hiệu đó mất quyền bảo hộ SHTT; bị loại trừ không được tồn tại và lưu hành trong các hoạt động kinh tế và xã hội. Như vậy bộ luật nhấn mạnh vào điều kiện để một nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ sở hữu trí tuệ là phải đăng kí đầu tiên và có đầy đủ điều kiện để thẩm định nhãn hiệu theo quy định của pháp luật. Điều này nghe có vẻ không phức tạp nhưng trên thực tế do sự thiếu hiểu biết và không nắm được luật mà có cá nhân doanh nghiệp bị thiệt hại rất lớn. Điển hình là các nhãn hiệu của Việt Nam bị mất quyền bảo hộ quốc tế hay bị kiện vì vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong điều 6 này có một thuật ngữ không phải ai cũng hiểu rõ đó là ”nhãn hiệu nổi tiếng”. Theo giải thích từ ngữ trong bộ luật có ghi” Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên để hiểu rõ nhãn hiệu khi nào trở thành nhãn hiệu nổi tiếng cần có những tiêu chí như đánh giá như :(Theo điều 75 trong bộ luật này)
Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo
Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành
Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp
Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu
Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;
Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu nổi tiếng;
Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị gop vốn đầu tư cảu nhãn hiệu.
Cũng bởi những tiêu chí đánh giá này mà sự thừa nhận nó lại không phụ thuộc vào thủ tục đăng kí mà lại dựa trên cơ sở sử dụng. Đây là điểm khác biệt mà người làm kinh tế cũng như các nhà hành pháp và lập pháp cần quan tâm.
Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc;
- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.
Điều 73. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ
Điều 105. Yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu
- Tài liệu, mẫu vật, thông tin xác định nhãn hiệu cần bảo hộ trong đơn đăng ký nhãn hiệu bao gồm:
+ Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
+ Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận.
+ Mẫu nhãn hiệu phải được mô tả để làm rõ các yếu tố cấu thành của nhãn hiệu và ý nghĩa tổng thể của nhãn hiệu nếu có; nếu nhãn hiệu có từ, ngữ thuộc ngôn ngữ tượng hình thì từ, ngữ đó phải được phiên âm; nhãn hiệu có từ, ngữ bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng Việt.
+ Hàng hoá, dịch vụ nêu trong đơn đăng ký nhãn hiệu phải được xếp vào các nhóm phù hợp với bảng phân loại theo Thoả ước Ni-xơ về phân loại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký nhãn hiệu, do cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp công bố.
- Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Tên, địa chỉ, căn cứ thành lập và hoạt động của tổ chức tập thể là chủ sở hữu nhãn hiệu;
+ Các tiêu chuẩn để trở thành thành viên của tổ chức tập thể;
+ Danh sách các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng nhãn hiệu;
+ Các điều kiện sử dụng nhãn hiệu;
+ Biện pháp xử lý hành vi vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu.
- Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu;
+ Điều kiện để được sử dụng nhãn hiệu;
+ Các đặc tính của hàng hoá, dịch vụ được chứng nhận bởi nhãn hiệu;
+ Phương pháp đánh giá các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ và phương pháp kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu;
+ Chi phí mà người sử dụng nhãn hiệu phải trả cho việc chứng nhận, bảo vệ nhãn hiệu, nếu có.
b/ Một số nghị định, thông tư liên quan đến SHTT nhãn hiệu
* Nghị định số 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.
Nghị định này quy định các hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong nghị định, các hình thức vi phạm, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục…đều được quy định một cách chi tiết giúp các cơ quan chức năng có cơ sở, thang đo cụ thể trong các hoạt động đánh giá mức độ vi phạm, mức phạt, tình tiết giảm nhẹ cũng như cách thức để khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm. Nghị định này ra đời cũng giúp các cơ quan áp dụng luật không còn bối rối trước hoạt động vận dụng luật vào trong công tác quản lý, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm vì vấn đề vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ, chưa đi vào được đông đảo ý thức người dân và ngay cả các cán bộ làm luật và áp dụng luật cũng không phải là hiểu hết, hiểu tường tận và có tầm nhìn xa đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Trong nghị định có một điểm đề cập đến tình tiết giảm nhẹ đó là phụ nữ có thai, người già, khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình. Điều này thực sự rất khó hiểu. Chưa có chứng minh cụ thể nào về việc ảnh hưởng đến nhận thức và kiểm soát hành vi của những đối tượng này và hơn thế nữa cũng chưa có quy định cụ thể trong việc giảm nhẹ hình phạt, giạm nhẹ tối đa là bao nhiêu trong khung hình phạt hay được giảm trong tất cả các trường hợp vi phạm…Cũng trong các hình thức xử phạt có một điều đáng chú ý đối với hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hóa đó là mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm càng lớn thì mức xử phạt càng tăng. Điều này sát với thực tế về hành vi vi phạm nhằm dăn đe và nghiêm khắc với các hành vi có mức độ vi phạm gây thiệt hại lớn.
* Nghị định sô 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp
Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về việc xác lập, chủ thể, nội dung, giới hạn quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, đại diện sở hữu công nghiệp và các biện pháp thúc đẩy hoạt động sở hữu công nghiệp.
* Nghị định sô 105/2006/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về SHTT
Nghị định này quy đinh chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, gồm việc xác định hành vi, tính chất và mức độ xâm phạm về quyền sở hữu trí tuệ, xác định thiệt hại, yêu cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành chính, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, giám định sở hữu trí tuệ và quy định quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
* Thông tư số 49/2001/TT-BKHCNMT
Thông tư của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3/5/2000 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành Thông tư này nhằm sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 03/5/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định số 12/1999/NÐ-CP, như sau:
1. Nội dung sửa đổi, bổ sung
Ðiểm 7.3 Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT được thay thế bằng nội dung mới như sau:
7.3. Cách xác định yếu tố vi phạm
c. Yếu tố vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá, kể cả nhãn hiệu nổi tiếng, và tên gọi xuất xứ hàng hoá có thể thuộc một trong hai dạng sau đây:
- Dấu hiệu đóng vai trò nhãn hiệu hàng hoá (chữ cái, chữ số, hình ảnh, biểu tượng, ký hiệu...) hoặc đóng vai trò tên gọi xuất xứ hàng hoá (địa danh), gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, kể cả phương tiện điện tử, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ.
- Dấu hiệu đóng vai trò chỉ dẫn thương mại (mọi thông tin dưới dạng chỉ dẫn, lời chú, ký hiệu...) trình bày trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, kể cả phương tiện điện tử, làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc, mối liên hệ của hàng hoá/dịch vụ với hàng hoá/dịch vụ có nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ.
Căn cứ để xem xét yếu tố vi phạm nhãn hiệu hàng hoá là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, gồm mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ, đã được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế, Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Căn cứ để xem xét yếu tố vi phạm tên gọi xuất xứ hàng hoá là phạm vi bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá, gồm địa danh và hàng hoá, đã được xác định tại Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hoá. Ðể xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm có phải là yếu tố vi phạm hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu/địa danh, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định yếu tố vi phạm nêu trên trong trường hợp đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:
- Ðiều kiện thứ nhất: Dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu/địa danh thuộc phạm vi bảo hộ.
Một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu/địa danh thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo (kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, ý nghĩa), cách trình bày (kể cả màu sắc). Một dấu hiệu bị coi là tương tự với nhãn hiệu/địa danh nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc.
- Ðiều kiện thứ hai: Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm trùng, hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ; hoặc hàng hoá, dịch vụ bất kỳ mang dấu hiệu đáp ứng điều thứ nhất đối với nhãn hiệu nổi tiếng gây ấn tượng sai lệch rằng người sử dụng dấu hiệu là chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc có quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu (quan hệ cấp li-xăng, quan hệ trực thuộc về vốn...).
b.5/ Thông tư của liên bộ ủy ban khoa học Nhà nước và Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và du lịch số 1191- TT/LB ngày 29/6/1991 quy định về việc quản lý nhãn và quảng cáo sản phẩm hàng hóa
Điều 2. Sản phẩm, hàng hoá phải đủ các điều kiện sau đây mới được in nhãn hoặc quảng cáo:
- Có giấy phép sản xuất, kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp;
- Sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục bắt buộc đăng ký chất lượng phải được cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng cấp giấy đăng ký.
- Sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục bắt buộc chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) phải được Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng cấp giấy chứng nhận phù hợp TCVN.
- Sản phẩm, hàng hoá là hoá dược hay thuốc chữa bệnh phải được cơ quan quản lý Y tế cấp giấy phép sản xuất.
- Bản thảo nhãn đưa vào in phải có giấy phép hợp lệ của cấp có thẩm quyền.
Điều 3. Cơ sở in (nhà in) muốn được in nhãn; tổ chức làm dịch vụ quảng cáo sản phẩm hàng hoá phải có giấy phép do cơ quan có thẩm quyền sau đây cấp:
- Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch cấp cho tổ chức làm dịch vụ quảng cáo và các cơ sở in được in nhãn ở cấp Trung ương.
- Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương cấp cho tổ chức làm dịch vụ quảng cáo và các cơ sở in được in nhãn ở cấp địa phương.
Các cơ sở in, các tổ chức làm dịch vụ quảng cáo phải tuân thủ các quy chế về công tác quảng các tại Chỉ thị số 738/VP ngày 10-8-1990 của Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch và quy định của Thông tư này.
Điều 6. Cấm mọi tổ chức, cá nhân buôn bán, trao đổi các loại nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá và bao bì đã in sẵn nhãn sản phẩm hay nhãn hiệu hàng hoá mà không được chủ sở hữu nhãn sản phẩm hay nhãn hiệu hàng hoá cho phép bằng văn bản hợp lệ.
c/ Một số hiệp ước quốc tế liên quan đến SHTT nhãn hiệu hàng hóa
*/ Hiệp ước marid
Thoả ước madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá (1891-1979):
Thoả ước này được ký tại Madrid năm 1891, trong đó quy định việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva. Theo Thoả ước này thì công dân của một nước thành viên của Thoả ước muốn bảo hộ một nhãn hiệu của mình tại nhiều nước thành viên khác, trước tiên phải đăng ký nhãn hiệu của mình tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia, sau đó thông qua Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia có thể nộp đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng quốc tế của WIPO. Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và chỉ rõ những nước thành viên mà người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu của mình (nước được chỉ định). Nước được chỉ định có thời gian 1 năm để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn hiệu trên lãnh thổ của mình. Nếu sau 1 năm nước được chỉ định không có ý kiến thì nhãn hiệu coi như được chấp nhận bảo hộ ở nước đó.
* Hiệp ước nhãn hiệu
Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT), được thông qua ngày 27/10/1994, đã có hiệu lực ngày 1/8/1996. TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan cấp phép đăng ký nhãn hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những yêu cầu tối đa mà một bên tham gia có thể đưa ra.
TLT dành cho nhãn hiệu dịch vụ - dấu hiệu nhận biết đặc thù của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ để phân biệt với hàng hóa - quy chế “bình đẳng” với nhãn hiệu. Trước đây, nhiều nước dành quy chế pháp lý khác nhau cho nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. TLT đã yêu cầu các quốc gia thành viên đăng ký nhãn h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33121.doc