Chuyên đề Quản trị nguồn vốn và thanh khoản ngân hàng thương mại

MỤC LỤC TÓM TẮT

 MỤC TIÊU:

A. NGUỒN VỐN:

I. KHÁI NIỆM NGUỒN VỐN

II. PHÂN LOẠI NGUỒN VỐN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

III. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGUỒN VỐN

B. QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN

I. KHÁI NIỆM

II. CÁC NGUON VỐN HUY ĐỘNG VÀ ĐẶC ĐIỂM

III. ƯỚC TÍNH CHI PHÍ TIỀN GỬI VÀ PHI TIỀN GỬI

IV. RỦI RO CỦA CÁC NGUỒN VỐN KHÁC NHAU

V. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN

C. THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

I. KHÁI NIỆM

II. CUNG CẦU VÀ TRẠNG THÁI THANH KHOẢN

III. CHIẾN LƯỢC QUẢN TRỊ THANH KHOẢN

IV. ƯỚC LƯỢNG NHU CẦU THANH KHOẢN

V. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG QUẢN TRỊ THANH KHOẢN

VI. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN THANH KHOẢN

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6240 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản trị nguồn vốn và thanh khoản ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gọi SPE sau đó SPE được bán lại cho các nhà đầu tư chứng khoán và NH có quyền thụ hưởng đối với thu nhập phát sinh từ khoản cho vay nguồn vốn thu từ việc bán các chứng khoán có nguồn gốc từ nhóm các khoản vay và có thể sử dụng để đầu tư mới hoặc đáp ứng nhu cầu ngân quỹ . Phương thức này gọi là chứng khoán hóa các khoản vay Đặc điểm: có hai lợi ích : - Đảm bảo tính thanh khoản cho các khoản vay bị yếu tố kì hạn làm cho ở trạng thái đóng băng - Tạo nguồn thu nhập phí bổ sung do NH thực hiện việc chứng khoán hóa các tài sản của mình III. Ước tính chi phí cho nguồn vốn tiền gởi và phi tiền gửi - Để có thể gia tăng nguồn vốn bằng các dịch vụ tiền gửi hay phi tiền gửi , NH cần phải biết được hai vấn đề chủ yếu sau : - Chi phí để có thể được một nguồn vốn là bao nhiêu? - Mối quan hệ phụ thuộc và rủi ro của nguồn vốn Mỗi NHTM trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay cần phải nắm rõ được chi phí và những yếu tố ảnh hưởng đến chi phí để có những quyết định phù hợp .Đặc biệt là đối với vốn huy động bởi vì chi phí trả lãi cho nguồn vốn này là cao nhất. Cho nên, ba phương pháp tính phí sau sẽ giúp NH tính toán và giải quyết được vấn đề về phí và trả lời hai vấn đề trên 1. Phương pháp tính chi phí bình quân Đây là phương pháp tính phổ biến nhất. Phương pháp này chú trọng vào cơ cấu hỗn hợp các nguồn vốn mà NH huy động được trong quá khứ và xem xét mức lãi suất mà thị trường đòi hỏi NH phải trả cho mỗi nguồn vốn đi vay. Thương số của lãi suất phải trả và tổng mức vốn đi vay trong quá khứ tạo thành chi phí bình quân gia quyền và được tính theo công thức: Tổng chi phí lãi Tổng nguồn vốn huy động Chi phí lãi bình quân = Phương pháp này có ích cho NH trong việc theo dõi biến động của chi phí huy động vốn theo thời gian và mức chi phí lãi suất bình quân, cung cấp một chuẩn mực tương đối cho việc ra quyết định nên cho vay và đầu tư như thế nào . Tuy nhiên ,tính theo phương pháp trên thì nó chỉ dừng lại ở mức độ xem xét giá vốn và vẫn còn nhiều chi phí khác cần phải tính thêm để thật sự có được nguồn vốn . Các chi phí này gồm: Chi phí phi lãi suất: + Tiền lương và chi phí quản lí gián tiếp + Mức dự trữ bắt buộc theo quy định + Phí bảo hiểm tiền gửi Như vậy tỷ suất sinh lời tối thiểu để bù đắp chi phí có thể tính như sau: Tổng chi phí trả lãi + phí lãi Tỷ suất sinh lợi tối thiểu Để bù đắp chi phí huy động vốn = Tổng mức cho vay đầu tư vào các tài sản sinh lợi khác Chi phí vốn chủ sở hữu: thực chất đây là chi phí vốn cơ hội thể hiện kì vọng của những người góp vốn hình thành NH . Để tính chi phí vốn chủ sở hữu , một phương pháp hợp lí là ước tính mức tỷ suất sinh lời cần thiết mà cổ đông cho rằng là cần thiết để duy trì vốn góp hiện tại Như vậy tỉ suất sinh lợi tối thiểu cần thiết phát sinh từ toàn bộ các nguồn vốn huy động và vốn chủ sở hữu của NH là : Lợi nhuận tối thiểu đối đối với vốn chủ sở hữu + Lợi nhuận tối thiểu để bù đắp chi phí vốn vay = Tỷ suất sinh lợi tối thiểu cần thiết trên vốn vay và vốn chủ sở hữu 2. Phương pháp chi phí vốn biên tế Chi phí biên là chi phí bỏ ra để có thêm một đồng vốn huy động. Phương pháp chi phí bình quân có ưu điểm là đơn giản nhưng chỉ nhìn về quá khứ để xem xét chi phí và và tỷ suất lợi nhuận. Trong khi đó , phần lớn các quyết định kinh doanh của NH là cho hiện tại và tương lai . Vì vậy ,phương pháp chi phí biên sẽ khắc phục nhược điểm đó .Chi phí biên tính như sau: C.Phi biên = LS mới x tổng vốn huy động theo LS mới - LS cũ x tổng vốn huy động theo LS cũ Thay đổi trong chi phí = T.Lệ chi phí biên Vốn huy động tăng thêm 3. Chi phí huy động vốn hỗn hợp Trong thực tế mỗi tài sản đầu tư sinh lợi của NHTM thường không thay đổi tương ứng với một nguồn vốn nhất định mà thực chất các chi phí này là tập hợp của nhiều nguồn vốn Như vậy , chi phí huy động vốn không thể tính riêng biệt mà phải tính trên nhiều nguồn vốn . theo phương pháp này sẽ tính qua các bước sau: Bước 1 : xác định lượng vốn dự kiến huy động mỗi nguồn để đáp ứng nhu cầu tài trợ Bước 2 : xác định mức khả dụng mỗi nguồn Bước 3 : xác định chi phí lãi và phi lãi của mỗi nguồn vốn Bước 4 : tập hợp chi phí lãi của tất cả nguồn vốn xác định tương quan với tổng nguồn vốn huy động IV. Rủi ro của các loại nguồn vốn khác nhau 1. Các rủi ro tác động nguồn vốn huy động Để đánh giá rủi ro của các loại nguồn tiền gửi và phi tiền gửi thì phải đánh giá theo nhiều hướng . Các hướng rủi ro đó bao gồm: - Rủi ro lãi suất : là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất trên thị trường hoặc của những yếu tố liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về tài sản và thu nhập của NH . Thường suất hiện đối với nguồn vốn dài hạn. Khi lãi suất thị trường giảm NH sẽ bị thiệt hại. Rủi ro lãi suất xuất hiện làm tăng chi phí nguồn vốn của NH , giảm thu nhập từ tài sản của NH , giảm giá trị thị trường của tài sản có và vốn chủ sở hữu của NH - Rủi ro thanh khoản : là tình trạng NH không đáp ứng được nhu cầu sủ dụng vốn khả dụng ( nhu cầu thanh khoản ). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, kinh doanh đình trệ ,nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản - Rủi ro sở hữu : khi vốn huy động quá lớn so với vốn chủ sở hữu , các nhà đầu tư sẽ lo lắng về khả năng chi trả của NH và có thể rút vốn ra . Vì vậy, có thể ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của NH 2. Lựa chọn chi phí và rũi ro Trên thực tế , việc lựa chọn nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của NH không chỉ phụ thuộc vào chi phí của mỗi nguồn vốn mà còn phụ thuộc vào mức độ rủi ro của mỗi nguồn. Thông thường , nguồn vốn nào được huy động với chi phí thấp thì có thể rủi ro cao và ngược lại. Mức độ rủi ro của các nguồn vốn khác nhau thay đổi theo chiều hướng rủi ro được xem xét. Chẳng hạn như, loại sổ tiết kiệm dành cho những hộ gia đình thu nhập trung bình hoặc thấp có thể ít ảnh hưởng với những thay đổi của lãi suất nhưng sẽ khá ảnh hưởng đến tính thanh khoản khi đến một thời điểm nào đó trong chu kì kinh tế trong năm như xảy ra rút tiền ồ ạt . Vì thế , thách thức ở đây là việc lựa chọn một hỗn hợp nguồn vốn bao gồm việc lựa chọn các mức độ rủi ro thích hợp ở mỗi chiều hướng huy động vốn và điều chỉnh theo chi phí huy động vốn của các mức rủi ro đó V. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆC QUẢN TRỊ NGUỒN VỐN 1. THUẬN LỢI: khi nền kinh tế phát triển ốn định ,đảm bảo được giá trị của đồng tiền , từ đó tiền gửi của khách hàng vào NH được bảo toàn ,tạo được yên tâm về tâm lí cho khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho NH thu hút mọi nguồn vốn , mở ra tiềm năng và mở rộng phạm vi đầu tư và lĩnh vực kinh doanh 2. KHÓ KHĂN: nhà quản trị sẽ gặp những thách thức về rủi ro. Thứ nhất , rủi ro về lãi suất đòi hỏi NH phải chủ động và linh hoạt trong việc điều chỉnh lãi suất của mình để phù hợp với thị trường ,phù hợp với đối thủ cạnh tranh đồng thời cũng đảm bảo lợi nhuận cho NH . Thứ hai, rủi ro về thanh khoản như đã biết nguồn vốn chủ yếu để NH hoạt động là vốn vay mượn cho nên sẽ phải hoàn trả lại cho khách hàng khi đáo hạn hay những khoản gửi không kì hạn có thể rút bất kì lúc nào vì vậy đòi hỏi NH lúc nào cũng có nguồn vốn dự trữ để kịp thời thanh toán. Bởi sự rủi ro trong thanh toán dễ dẫn đến khủng hoảng phá sản của một NH và sẽ kéo theo rủi ro trong hệ thống NH , dẫn đến khủng hoảng kinh tế tài chính của một quốc gia . Và khó khăn hiện nay đối với việc quản trị vốn NH hàng là tăng vốn điều lệ theo bắt buộc của ngân hàng nhà nước . Nếu đối với NH lớn thì việc tăng vốn khá dễ dàng nhưng đối với NH quy mô nhỏ thì việc tăng vốn sẽ gặp khó khăn và nếu không tăng đủ vốn trong kì hạn cho phép bắt buộc NH phải chấm dứt tư cách pháp nhân như tự giải thể hoặc sáp nhập NH khác v.v.. C. THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI I. KHÁI NIỆM: Chúng ta đã được biết tầm quan trọng của tiền mặt trong hoạt động kinh doanh, nhưng sẽ thật là thiếu xót nếu bỏ qua một khái niệm bao hàm hơn và không kém phần quan trọng đó là thanh khoản. Thuật ngữ “thanh khoản” được hiểu theo 3 cách: Thứ 1: Dùng chỉ khả năng chuyển thành tiền của tài sản( tất nhiên bao gồm cả chứng khoán) nhằm trang trải các khoản nợ và nghĩa vụ ngắn hạn. Để làm được việc này, doanh nghiệp cần phải cần sở hữu những tài sản có tính thanh khoản đó là tiền mặt và tương đuơng tiền( bao gồm: cổ phiếu blue- chip và các chứng khoán trên thị trường tiền tệ ví dụ như trái phiếu chính phủ.Các tài sản có tính thanh khoản phải đảm bảo có thể được mua bán trên thị trường nhanh chống mà không ảnh hưởng đến giá cả, tức là giá giao dịch không bị chênh lệch quá nhiều so với giá gốc. Tất nhiên tất cả các nhà đầu tư yêu thích đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao vì họ có thể dễ dàng rút khỏi vụ đầu tư của mình(kèm theo cả lãi hoặc nếu lỗ thì số tiền bị mất cũng không đáng kể) Thứ 2: Thanh khoản còn chỉ khả năng trả nợ của NH khi đến hạn Thứ 3: Thanh khoản liên quan đến khả năng vận hành trơn tru của thị trường, xét về khía cạnh các giao dịch mua và bán. Vậy tính thanh khoản luôn là vấn đề sống còn của bất cứ doanh nghiệp nào nhất là đối với ngân hàng. Sau đây là một số vụ khủng hoảng tính thanh khoản nổi tiếng trong lịch sử: + Công ty quản lý quỹ HedgeFund-LTCM 1998( Long term capital management): Bắt đầu từ chính phủ Nga vỡ nợ khiến trái phiếu chính phủ không còn tính thanh khoản, dẫn đến việc LTCM bị lỗ nặng vì công ty này kinh doanh sử dụng rất nhiều tài sản không có tính lỏng như Trái Phiếu Chính Phủ Nga.Đây là nguyên nhân khiến LTCM bị phá sản. + Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 bắt đàu từ Thái Lan và lan sang các nước Đông Á khác .Chỉ số thi trường chứng khoản của các nước đồng loạt giảm đột ngột và không còn tính thanh khoản. Nên kinh tế các nước rơi vào thời kỳ khó khăn, một thời kỳ dài trước khi có thể phục hồi trở lại. + Khủng hoảng nợ dưới chuẩn mùa thu 2007 ở Mỹ và gây ra hậu quả vô cùng khủng khiếp đối với tính thanh khoản của các ngân hàng, thị trường tài chinh, nền kinh tế Mỹ và thị trường chứng khoán toàn thế giới. Đây là vụ khủng hoảng đang làm đau đàu thị trường tài chính toàn thế giới. II CUNG CẦU VÀ TRẠNG THÁI THANH KHOẢN 1. Cung về thanh khoản: Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả cho ngân hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng. Thanh khoản ngân hàng được cung cấp từ các nguồn như sau: Các khoản tiền gửi từ khách hàng (S1) Thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ (S2) Các khoản tin dụng sẽ được thu vê (S3) Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng(S4) Vay mượn từ thị trường tiền tệ(S5) 2. Cầu về thanh khoản: Là những nhu cầu về vốn cho các hoạt động của ngân hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng. Trong lĩnh vực ngân hàng những hoạt động sau đây tạo ra nhu cầu thanh khoản: Khách hàng rút các khoản tiền gửi (D1) Đề nghị vay vốn của khách hàng (D2) Thanh toán các khoản phải trả khác (D3) Chi phí cho quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng (D4) Thanh toán cổ tức cho cổ đông (D5) 3 Trạng thái thanh khoản Trong nền kinh tế nếu lượng cung và cầu thanh khoản đến cùng một lúc thì sẽ xảy ra trang thái thanh khoản ròng.và ta có công thức sau đây: NLPt (Net LiquidityPosition)=(S1+S2+S3+S4+S5)-(D1+D2+D3+D4+D5) Ta có các trường hợp sau: NLPt > 0( Thặng dư thanh khoản) khi cung thanh khoản vượt quá cầu thanh khoản, ngân hàng đang ở trang thái thặng dư thanh khoản . Nhà quản trị ngân hàng cần cân nhắc đầu tư số vốn thặng dư vào đâu để mang lại hiệu quả cho tới khi chúng ta cần được sử dụng đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong tương lai. NPLt < 0 ( Thâm hụt thanh khoản) khi cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản, ngân hàng phải đối đầu với tình trạng thâm hụt thanh khoản .Nhà quản trị phải xem xét, quyết định nguồn tài trợ thanh khoản lấy từ đâu,bao giờ có và chi phí bao nhiêu. NPLt = 0 Cân bằng thanh khoản là khi cung thanh khoản bằng với cầu thanh khoản, tình trạng này được gọi là cân bằng thanh khoản. Tuy nhiên đây là tình trạng khó xảy ra trên thực tế. 4. Yếu tố thời gian của vấn đề thanh khoản Xét về tính thời gian, thanh khoản ngân hàng có 2 yếu tố đó là thanh khoản ngắn hạn (thanh khoản tức thời), thanh khoản dài hạn ( thanh khoản thời vụ) + Thanh khoản ngắn hạn : Là những khoản tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi có kì hạn đến hạn, các công cụ huy động thuộc công cụ tiên tiến… Đối với loại thanh khoản này thì ngân hàng cần phải duy trì các loại tài sản có tính thanh khoản cao như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng Trung Ương và các định chế tài chính khác, chứng khoán chính phủ… ở mức độ cao + Thanh khoản dài hạn: Là loại thanh khoản có tính chất thời vụ, chu kỳ và xu hướng tạo ra. Đối vơi loại thanh khoản này thì ngân hàng cần phải dự phòng trước nguồn vốn từ các nguồn khác nhau ở mứ độ cao hơn thanh khoản ngắn hạn để đáp ứng được khả năng cung cấp vốn cho khách hàng. VD: Đặt kế hoạch thu hút các khoản tiền gửi, thỏa thuận vay dài hạn từ công chúng và từ các quỹ dự trữ từ các ngân hàng khác… 5. Bản chất của vấn đề quản trị thanh khoản Bản chất của quản trị thanh khoản có thể hiểu thông qua các phát biểu dưới đây: Rất hiếm khi Cung- Cầu thanh khoản của một ngân hàng cân bằng với nhau cùng một thời điểm cụ thể. Các ngân hàng thường xuyên đối mặt và giải quyết 1 trong 2 trạng thái thanh khoản hoặc thâm hụt hoặc thặng dư. Có một số sự đánh đổi giữa khả năng sinh lợi và khả năng thanh khoản. Càng nhiều nguồn vốn hơn được giữ lại để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản, khả năng tạo ra lợi nhuận của ngân hàng càng thấp hơn và ngược lại. Giải quyết các vấn đề thanh khoản buộc các ngân hàng phải mất chi phí, chi phí thực tế và chi phí tiềm năng, bao gồm các chi phí trả lãi các nguồn vốn vay mượn, chi phí giao dịch để tìm nguồn vốn, chi phí cơ hội dưới hình thức lợi nhuận tương lai mất đi do bán các tài sản có khả năng sinh lợi. . Các nguyên nhân gây ra các vấn đề thanh khoản của ngân hàng Rủi ro trong NHTM luôn tiềm ẩn lớn gây ra những tổn thất xảy ra ngoài ý muốn và gây tổn thất đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sau đây là một số nguyên nhân cơ bản gây ra những vấn đề về thanh khoản Ø Thứ nhất: Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các cá nhân và định chế tài chính khác; sau đó chuyển hóa chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn . Cho nên xảy ra tình trạng mất cân đối về kỳ hạn của nguồn vốn và sử dụng vốn. Ø Thứ hai: Sự thay đổi lãi suất có thể tác động đến người gửi tiền và người vay vốn. Khi lãi suất giảm, một số người gửi tiền rút vốn để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn; còn những người đi vay tích cực tiếp cận với các khoản tin dụng vì lãi suất đã thấp hơn trước. Như vậy khi lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng trang thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa những xu hướng thay đổi lãi suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị trường của các tài sản mà các ngân hàng có thể đem bán để tăng nguồn cung thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ Ø Thứ ba: Do ngân hàng có chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả như : các chứng khoán đang sỡ hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ cho nhu cầu chi trả… III CHIẾN LƯỢC QUẢN TRỊ THANH KHOẢN Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo ba hướng: Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong Vay mượn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh khoản Phối hợp cân bằng cả hai hướng nêu trên. Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản “Có”(dự trữ bán các chứng khoán và tài sản) + Chiến lược tiếp cận thanh toán thực sự còn gọi là học thuyết cho vay thương mại. Khi thực hiện chiến lược này ngân hàng thực hiện chi cho vay ngắn hạn. Trong trường hợp nhu cầu thanh khoản phát sinh, ngân hàng có thể thu hồi các khoản cho vay hoặc bán nợ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Han chế của chiến lược này là ngân hàng mất dần thị phần cho vay trung và dài hạn + Chiến lược tiếp cận thị trường tiền tệ còn gọi là chiến lược tiếp cận vốn thị trường vốn ngắn hạn: Chiến lược này đòi hỏi ngân hàng phải dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh khoản cao chủ yếu là tiền mặt và chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh khoản ngân hàng sẽ bán các tài sản dự trữ cho đến khi nhu cầu thanh khoản được đáp ứng.Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường gọi là sự chuyển hóa tài sản Tài sản thanh khoản phải có đặc điểm sau: Phổ biến trên thị trường nên có thể chuyển hoá ra tiền một cách nhanh chóng. Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản Người bán có thể mua lại dễ dàng với giá không cao hơn nhiều so với giá cả đã bán ra để khôi phục khoản đầu tư ban đầu. Những tài sản có tính thanh khoản phổ biến bao gồm: trái phiếu kho bạc, các khoản vay ngân hàng trung ương, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác,chứng khoán của các cơ quan chính phủ, chấp phiếu của ngân hàng khác. Như vậy,trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản “Có”, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu ngân hàng này có thể tiếp cận nguồn cung thanh khoản với chi phí hợp lý, số lượng vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời. Chiến lược quản trị thanh khoản dựa vào tài sản “Có” có ưu điểm là ngân hàng hoàn toàn chủ động trong việc tự đáp ứng nhu cầu thanh khoản cho mình mà không bị lệ thuộc vào các chủ thể khác. Tuy nhiên, chiến lược này cũng có những nhược điểm sau: ² Một khi bán tài sản tức là ngân hàng mất đi thu nhập mà các tài sản này tạo ra. Như vậy, ngân hàng đã chịu chi phí cơ hội khi bán đi các tài sản đã đầu tư. ² Phần lớn các trường hợp khi bán tài sản đều tốn kém chi phí giao dịch như hoa hồng trả cho người môi giới chứng khoán. ² Tổn thất càng lớn cho ngân hàng nếu các tài sản đem bán bị giảm giá trên thị trường, hoặc bị người mua ép giá do phải gấp rút bán để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. ² Ngân hàng phải đầu tư nhiều vào các tài sản có tính thanh khoản cao, lại là các tài sản có khả năng sinh lợi thấp nên tất yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. v Chiến lược quản trị dựa vào nguồn vốn “Nợ” Đây là chiến lược quản trị thanh khoản phổ biến được các ngân hàng lớn sử dụng vào những năm 60 và 70 của thế kỷ trước. Trong chiến lược này, nhu cầu thanh khoản được đáp ứng bằng cách vay mượn trên thị trường tiền tệ. Việc vay mượn chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tức thời và chỉ thực hiện khi có nhu cầu thanh khoản phát sinh. Nguồn tài trợ cho chiến lược này thường bao gồm: vay qua đêm, vay ngân hàng trung ương, bán các hợp đồng mua lại, phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng mệnh giá lớn, ...Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản “Nợ” được các ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản. Nhược điểm của chiến lược này là ngân hàng bị phụ thuộc vào thị trường tiền tệ khi đáp ứng nhu cầu thanh khoản (nhưng đồng thời cũng đem lại lợi nhuận cao nhất) do sự biến động về khả năng cho vay và lãi suất trên thị trường tiền tệ. Hơn nữa, một ngân hàng vay mượn quá nhiều thường bị đánh giá là có khó khăn về tài chính, khi thông tin này lan rộng ra, những khách hàng gửi tiền sẽ rút vốn hàng loạt hoặc ngân hàng phải huy động vốn với chi phí cao gấp nhiều lần. Cùng lúc đó, các định chế tài chính khác, để tránh rủi ro có thể gặp phải, sẽ thận trọng, dè dặt hơn trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng này để giải quyết khó khăn về thanh khoản. vChiến lược quản trị thanh khoản cân bằng Định hướng của chiến lược này là: các nhu cầu thanh khoản thường xuyên,hàng ngày sẽ được đáp ứng bằng tài sản dự trữ như tiền mặt, chứng khoán khả mại, tiền gửi tại các ngân hàng khác ...; các nhu cầu thanh khoản không thường xuyên nhưng có thể dự đoán trước như nhu cầu thanh khoản theo thời vụ, chu kỳ, xu hướng ...sẽ được đáp ứng bằng các thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc nhà cung ứng vốn khác; các nhu cầu thanh khoản đột xuất không thể dự báo được đáp ứng từ việc vay mượn trên thị trường tiền tệ; các nhu cầu thanh khoản dài hạn được hoạch định và nguồn tài trợ là các khoản vay ngắn và trung hạn, chứng khoán có thể chuyển hoá thành tiền. IV ƯỚC LƯỢNG NHU CẦU THANH KHOẢN Các phương pháp sau đây được các ngân hàng sử dụng để ước lượng nhu cầu thanh khoản: - Phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn - Phương pháp cấu trúc vốn - Phương pháp các chỉ tiêu thanh khoản Mỗi phương pháp dựa trên một số giả thuyết cụ thể, và kết quả thu được chỉ là gần đúng so với nhu cầu thanh khoản thực sự tại thời điểm đã cho. 4.1 Phương pháp nguồn vốn và sử dụng vốn: Phương pháp bắt đầu với hai thực tế đơn giản: - Một là: Khả năng thanh khoản ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và tiền vay giảm. - Hai là: Khả năng thanh khoản ngân hàng giảm khi tiền gửi giảm và tiền vay tăng. Ngay đầu năm các ngân hàng ước lượng nhu cầu thanh khoản của các tháng quý trong năm. Bất cứ khi nào mà nguồn tạo ra thanh khoản và nhu cầu sử dụng thanh khoản không cân bằng với nhau, ngân hàng có sự chênh lệch thanh khoản (liquidity gap) có thể xác định như sau: Tổng cung nguồn thanh khoản (1) = Tổng nhu cầu sử dụng thanh khoản(2) - Độ lệch thanh khoản (LG) Khi (1) > (2), Độ lệch thanh khoản dương. Ngân hàng phải nhanh chóng đầu tư phần thanh khoản thặng dư này để sinh lợi. Khi (1) < (2), Độ lệch thanh khoản âm.. Ngân hàng phải tìm kím kịp thời các nguồn vốn tài trợ khác nhau với chi phí thấp.. Trên thực tế, các bước cơ bản trong phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn như sau: + Tiền vay và tiền gửi phải được dự báo trong một khoảng thời gian hoạch định thanh khoản đã cho. + Những thay đổi về tiền vay và tiền gửi phải được tính toán cho cùng khoảng thời gian xác định đó. + Người quản trị thanh khoản ước lượng trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng, hoặc thặng dư hoặc thâm hụt. Để xây dựng mô hình dự báo về tiền gửi và tiền vay trong tương lai nhà quản trị có thể sử dụng các biện pháp thống kê khác nhau cộng với kinh nghiệm của mình. Chẳng hạn. môtj mô hình dự báo về sự thay đổi trong tiền gửi và tiền vay có thể như sau: Thay đổi dự kiến của tiền vay phụ thuộc vào các biến số sau: ª Tăng trưởng GDP dự kiến. ª Lợi nhuận doanh nghiệp dự kiến. ª Tỷ lệ tăng trưởng về cung ứng tiền của NHTW. ª Tỷ lệ tăng trưởng của tín dụng. ª Tỷ lệ lạm phát ước tính. Thay đổi dự kiến của tiền gửi phụ thuộc vào các biến số sau: ª Tăng trưởng về thu nhập cá nhân dự kiến. ª Mức tăng bán lẻ ước tính. ª Tỷ lệ tăng tưởng của NHTW. ª Lợi suất dự kiến cho tiền gửi trên thị trường tiền tệ. ª Tỷ lệ lạm phát dự kiến. Sau khi dùng những biến số thống kê kinh tế dự đoán này, tiếp đó ngân hàng có thể ước lượng nhu cầu thanh khoản bằng cách tính: Thay đổi dự kiến của tiền vay - Thay đổi dự kiến của tiền gửi = Mức thặng dư(+) hay thâm hụt(-) thanh khoản 4.2 Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn Phương pháp nay dược tiến hành theo trình tự hai bước: v Bước 1: Chia các khoản tiền gửi và các nguồn khác nhau thành nhiều loại trên cơ sở ước lượng xác suất rút tiền của khách hàng.Chẳng hạn các khoản tiền gửi và nguồn khác của ngân hàng có thể chia thanh 3 loại: Ø Loại 1: Ổn định thấp Ø Loại 2: Ổn định vừa phải Ø Loại 3: Ổ định cao v Bước 2: Xác định mức dự trữ thanh khoản cho từng loại tiền gửi trên cơ sở ấn định tỷ lệ dự trữ thích hợp với trang thái của chúng. Ví dụ: ² Loại 1: 95% ² Loại 2: 30% ² Loại 3: 15% Như vậy , nhu cầu thanh khoản cho tổng các loại tiền gửi được tính như sau: Dự trữ thanh khoản cho tài sản “nợ” huy động = 95% * (loại1 – DTBB) + 30% * (loại2 - DTBB) + 15% * (loại3 - DTBB) Đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng, ngân hàng phải sẳn sàng khi khách hàng có nhu cầu và đảm bảo các điều kiện tín dụng tức là các khoản vay chất luọng cao. Trong trường hợp này, nhu cầu thanh khoản cho các khoản cho vay là: Dự trữ thanh khoản cho tài sản “Có” cho vay = Dự trữ thanh khoản tài sản “Nợ” huy động + Nhu cầu tiền vay tiềm năng. 4.3 Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống Phương pháp này được thực hiện theo trình tự hai bước: Bước 1: Ngân hàng dự đoán khả năng xảy ra của mỗi trạng thái thanh khoản theo ba cấp độ: Ø Khả năng xấu nhất khi: tiền gửi xuống thấp dưới mức dự kiến hoặc tiền vay lên cao trên mức dự kiến. Ø Khả năng tốt nhất khi: tiền gửi lên cao trên mức dự kiến hoặc tiền vay xuống thấp dưới mức dự kiến. Ø Khả năng thực tế: nằm ở cấp độ nào đó giữa hai cấp độ trên. Bước 2: Xác định nhu cầu thanh khoản theo công thức: n Trạng thái thanh khoản dự kiến = Σ PixSDi i=1 Trong đó: Pi: Xác suất tương ứng với một trong ba khả năng. SDi: Thặng dư hay thâm hụt thanh khoản theo mỗi khả năng. 4.4 Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản: Phương pháp này dựa trên cơ sở kinh nghiệm riêng có của ngân hàng và các Tiền mặt + tiền gửi trong các định chế tài chính chỉ số trung bình trong ngành. Năm chỉ số thanh khoản sau thường được sử dụng: Ø Trạng thái tiền mặt = Tài sản “CÓ” Chỉ số này càng cao chứng tỏ ngân hàng có khả năng xử lý các tình huống thanh khoản tức thời. Trạng thái tiền mặt phụ thuộc vào: § Các yếu tố mà ngân hàng có thể kiểm soát được: - Nhóm yếu tố làm tăng quỹ tiền tệ: Bán chứng khoán, nhận lãi chứng khoán; vay qua đêm, phát hành chứng chỉ tiền gửi hay nhận tiền gửi khách hàng; những khoản tín dụng đã đến hạn thu hồi. - Nhóm yếu tố làm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản trị nguồn vốn và thanh khoản ngân hàng thương mại.doc
Tài liệu liên quan