Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Phần A: Quyền tự do kinh doanh trong thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam 3
I. Sơ lược về quyền tự do kinh doanh 3
1. Quyền tự do kinh doanh 3
2. Những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh 5
II. Những khái niệm cơ bản 8
1. Khái niệm kinh doanh 8
2. Đơn vị kinh doanh 8
3. Khái niệm doanh nghiệp 9
III. Quyền tự do kinh doanh trước và sau khi có Luật Doanh nghiệp 10
1. Quyền sở hữu tài sản, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tồn tại lâu dài của "sự nghiệp" kinh doanh 11
2. Quyền tự do trong thành lập doanh nghiệp 12
3. Quyền tự quyết của doanh nghiệp 32
IV. Thực trạng và giải pháp trong thực hiện quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 33
1. Một số thành tựu sau hai năm thực hiện Luật Doanh nghiệp 33
2. Một số vướng mắc trong qua trình thực hiện Luật Doanh nghiệp 33
3. Giải pháp 36
Phần B: Quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế trong cơ chế thị trường 39
I. Sự ra đời và phát triển của hợp đồng kinh tế 39
1. Sự ra đời của hợp đồng kinh tế 39
2. Quá trình phát triển hoạt động kinh tế ở Việt Nam 40
II. Khái niệm hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam 42
1. Khái niệm hợp đồng kinh tế 42
2. Đặc điểm của hợp đồng kinh tế 43
3. Phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự 43
III. Quyền ký kết hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp 44
1. Thời kỳ khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân (1954-1959) 44
2. Thời kỳ đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế hoạch tập trung (1960-1974) 45
3. Thời kỳ thực hiện chủ trương cải tiến kinh tế (1975-1988) 47
4. Thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế (từ năm 1988 đến nay) 48
IV. Thực trạng và một số giải pháp trong ký kết hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp 56
1. Thực trạng trong ký kết hợp đồng kinh tế 56
2. Giải pháp trong ký kết hợp đồng kinh tế 58
Thay lời kết .61
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2242 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quyền tự do kinh doanh trong thành lập doanh nghiệp và quyền tự do ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư ban đầu đã ghi trong giấy phép thành lập và giấy tờ chứng thực về trụ sở giao dịch của doanh nghiệp.
Nếu quá thời hạn 60 ngày như ở trên, mà chủ doanh nghiệp tư nhân chưa đăng ký, nếu muốn tiếp tục thành lập doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải làm lại thủ tục xin phép thành lập. Trong trường hợp có lý do chính đáng, Uỷ ban nhân dân đã cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp có thể gia hạn giấy phép thành lập không quá 30 ngày.
Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn hợp lệ, cơ quan kế hoạch cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp.
Theo Luật công ty ngày 12/12/1990 quy định:
Công ty phải đăng ký kinh doanh tại Uỷ ban kế hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: giấy phép thành lập, điều lệ công ty và giấy tờ chứng thực trụ sở giao dịch của công ty.
Việc đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn phải được tiến hành trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập.
Việc đăng ký của công ty cổ phần phải được tiến hành trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập.
Nếu quá các thời hạn nói trên, mà chưa đăng ký kinh doanh, nếu muốn tiếp tục thành lập công ty thì các sáng lập viên phải làm lại thủ tục xin phép thành lập. Trong trường hợp có lý do chính đáng, Uỷ ban nhân dân đã cấp giấy phép thành lập có thể gia hạn giấy phép thành lập không quá 90 ngày.
Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngay nhận đơn hợp lệ, Uỷ ban kế hoạch phải cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho công ty.
Tuy nhiên, những quy định trên của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân còn quá phức tạp, mất rất nhiều thời gian của các nhà đầu tư, đôi khi còn làm lỡ mất cơ hội của nhà đầu tư. Vì vậy, để khuyến khích đầu tư đòi hỏi Nhà nước ta phải tiếp tục hoàn thiện các thủ tục pháp lý khác liên quan đến quá trình hình thành doanh nghiệp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh, các quy định về thủ tục thành lập doanh nghiệp phải đơn giản, tránh gây ra những phiền hà không cần thiết.
Với sự hợp nhất của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ngày 12/12/1990, Luật doanh nghiệp ngày 12/06/1999 đã quy định những thủ tục đăng ký kinh doanh đơn giản hơn nhiều so với Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990.
Thứ nhất: Hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:
-Đơn đăng ký kinh doanh: Theo mẫu do Bộ kế hoạch và Đầu tư quy định;
-Điều lệ đối với công ty: Là bản cam kết của tất cả thành viên về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty. Mỗi loại công ty khác nhau thì có điều lệ là khác nhau. Nội dung của điều lệ do pháp luật quy định.
-Danh sách thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần. Nội dung của các bản danh sách do pháp luật quy định.
-Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định thì phải có thêm xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc chứng chỉ hợp pháp chứng minh về số vốn của doanh nghiệp này theo quy định của pháp luật.
-Đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề, thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một trong số những người quản lý doanh nghiệp.
Thứ hai: Trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh.
Một là: Người thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện nộp đủ hồ sơ tại Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh không được người thành lập doanh nghiệp nộp thêm bất kỳ loại giấy tờ nào khác ngoài hồ sơ đối với từng loại doanh nghiệp.
Hai là: Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh. Khi tiếp nhận hồ sơ, Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh phải trao giấy biên nhận về việc nhận hồ sơ cho người nộp hồ sơ.
Ba là: Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ nếu:
-Ngành, nghề kinh doanh không thuộc ngành, nghề cấm kinh doanh;
-Tên doanh nghiệp được đặt đúng theo quy định của Luật doanh nghiệp;
-Hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ theo quy định của Luật doanh nghiệp;
-Nộp lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được khắc con dấu và có quyền sử dụng con dấu của mình.
Bốn là: Nếu sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh, mà không nhận được Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại đên Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, mà không nhận được trả lời của Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh, thì người thành lập doanh nghiệp có quyền khiếu nại lên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc kiện ra tòa hành chính cấp tỉnh nơi nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Năm là: Kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh mà không cần phải xin phép bất cứ cơ quan Nhà nước nào, trừ trường hợp kinh doanh ngành, nghề phải có điều kiện.
Sáu là: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh cấp có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc.
Như vậy, Luật doanh nghiệp đã đơn giản hoá các thủ tục pháp lý trong quá trình hình thành doanh nghiệp đến mức tối thiểu.
Nhằm tiếp tục đảm bảo thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh đơn giản, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 về bãi bỏ các loại giấy phép trái với quy định của Luật doanh nghiệp. Nghị định này đã bãi bỏ 84 giấy phép được coi là những "vật cản" đối với các nhà kinh doanh . Tiếp theo, ngày 11/08/2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2000/NĐ-CP về việc bãi bỏ 27 giấy phép và chuyển nội dung 34 giấy phép khác thành điều kiện kinh doanh. Công việc này vẫn đang được tiếp tục nhằm tạo ra con đường thông thoáng, rộng mở cho các nhà kinh doanh thực hiện quyền tự do của mình. Đồng thời Luật doanh nghiệp đã hoàn thiện một bước chế độ đăng ký kinh doanh theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, rút gọn tới mức tối đa hồ sơ đăng ký. Nguyên tắc mới trong thủ tục đăng ký là cơ quan đăng ký kinh doanh không được đòi hỏi thêm các giấy tờ, hồ sơ ngoài các quy định trong Luật doanh nghiệp.
Sự đơn giản hoá thủ tục đăng ký kinh doanh được đánh giá là một điểm mới nữa của Luật doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy thực hiện quyền tự do kinh doanh ở nước ta.
Bước thứ ba: Thông báo công khai việc thành lập doanh nghiệp.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc cung cấp cho công chúng những thông tin về sự ra đời của một doanh nghiệp mới là hết sức cần thiết. Do đó, công bố nội dung đăng ký kinh doanh là một việc bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Hình thức công khai hoá là công bố những nội dung đăng ký kinh doanh trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Truớc đây, Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ngày 12/12/1990 đã có quy định về vấn đề này.
Theo Điều 19 Luật công ty: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Công ty phải đăng báo địa phương và báo hàng ngày của TW trong năm số liên tiếp các đặc điểm chủ yếu sau đây:
-Tên, loại hình công ty, trụ sở và mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh;
-Họ, tên, địa chỉ thường trú của các sáng lập viên;
-Vốn điều lệ;
-Ngày được cấp giấy phép thành lập, ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, số đăng ký kinh doanh;
-Thời điểm bắt đầu hoạt động.
Theo Điều 13 Luật doanh nghiệp tư nhân: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW hoặc đơn vị hành chính cấp tương đương cấp Giấy phép phải đăng báo địa phương hoặc báo hàng ngày của TW về các điểm chủ yếu sau:
-Họ, tên chủ doanh nghiệp hoặc tên doanh nghiệp;
-Trụ sở của doanh nghiệp;
-Mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh;
-Vốn đầu tư ban đầu;
-Ngày được cấp Giấy phép thành lập, ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, số đăng ký kinh doanh;
-Thời điểm bắt đầu hoạt động.
Sau này, khi Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ngày 12/12/1990 bị thay thế bằng Luật doanh nghiệp ngày 12/06/1999 nội dung của thông báo thành lập doanh nghiệp cũng đã có sự thay đổi cho phù hợp.
Theo tại Điều 21 Luật doanh nghiệp ngày 12/06/1999 quy định:
"1.Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng báo địa phương hoặc báo hàng ngày của TW trong 3 số liên tiếp về các nội dung chủ yếu sau đây:
Tên của doanh nghiệp;
Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện nếu có;
Mục tiêu ngành, nghề kinh doanh;
Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh; Vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân;
đ. Tên và địa chỉ của chủ sở hữu, của tất cả thành viên sáng lập;
Họ tên và địa chỉ thường trú của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
Nơi đăng ký kinh doanh.
2.Khi thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải công bố nội dung những thay đổi đó theo quy định tại khoản 1 Điều này."
Quyền tự quyết của doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp đã hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng quyền tự quyết của doanh nghiệp trong việc định đoạt các vấn đề phát sinh. Nói tới quyền tự do kinh doanh mà không cho phép doanh nghiệp tự mình định đoạt theo ý chí khi giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ như : xây dựng điều lệ, sửa đổi điều lệ, cơ chế quản lý… thì quyền tự do kinh doanh sẽ mất đi ý nghĩa thực tiễn của mình. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vai trò quản lý của Nhà nước là rất quan trọng. Song phải thấy rằng, Nhà nước chỉ có chức năng tạo lập môi trường pháp lý để cho các hoạt động kinh doanh được thực hiện, phát triển một cách tự giác, có hiệu quả. Còn doanh nghiệp mới chính là chủ thể kinh doanh độc lập, đối mặt với thị trường và vì vậy họ phải là người có toàn quyền quyết định những vấn đề phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp, phải coi đó là chuyện riêng tư của doanh nghiệp. Điểm mới này thể hiện ở chỗ Nhà nước ta chỉ khuyến nghị hoặc là định khung để các nhà kinh doanh quyết định các vấn đề trong khung đó. Ví dụ : Điều 38 Luật doanh nghiệp quy định, để cuộc họp lần thứ nhất của Hội đồng thành viên được coi là hợp lệ thì phải có số thành viên đại diện cho ít nhất 65% vốn điều lệ Công ty có mặt, còn cụ thể là bao nhiêu thì do điều lệ Công ty quy định. Trong trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không thành thì có thể tiến hành cuộc họp hội đồng thành viên lần thứ hai. Tại lần này, để cuộc họp được coi là hợp lệ, Luật doanh nghiệp quy định phải có sự hiện diện cho ít nhất 50% vốn điều lệ, mức cụ thể bao nhiêu thì do điều lệ công ty quy định. Rõ ràng là, Nhà nước đã dành cho những người thành lập công ty tự mình quyết định các vấn đề cụ thể. Tuy nhiên, những vấn đề đó phải nằm trong khung mà Nhà nước đã đặt ra.
IV. Thực trạng và giải pháp trong thực hiện quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp :
1. Một số thành tựu sau hai năm thực hiện Luật doanh nghiệp.
Tuy mới thực hiện được hai năm từ ngày 01/01/2000 đến ngày 01/01/2002 nhưng Luật doanh nghiệp đã thực sự tạo ra những động lực mới cho việc thực hiện quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam. Bằng chứng là kết quả thực hiện Luật doanh nghiệp.
Theo báo cáo của tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp thì sau 2 năm thi hành Luật doanh nghiệp đã có 35457 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập trong cả nước, số doanh nghiệp trên gần bằng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong suốt 9 năm (từ năm 1991 đến năm 1999 ). Trong đó: năm 2000 là 14417 doanh nghiệp (gấp 2.49 lần so với năm 1999 ), năm 2001 có 21040 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh tăng gần 50% so với năm 2000. Ngoài ra, trong 2 năm 2000 và 2001 có thêm gần 300000 hộ kinh doanh cá thể mới đăng ký kinh doanh. Và trong 4 tháng đầu năm 2002, cả nước có thêm 7119 doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh và số vốn là 9.426 tỷ đồng (tăng 17% số doanh nghiệp so với năm 2001). Tại tp.Hồ Chí Minh, số doanh nghiệp đăng ký tiếp tục tăng, bình quân mỗi ngày có 20 doanh nghiệp mới thành lập.
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh đăng ký được thực hiện trên thực tế đa dạng và phong phú hơn nhiều. Hàng loạt ngành nghề mới, các sản phẩm và dịch vụ mới xuất hiện như: sản phẩm thủ công mĩ nghệ làm từ rơm rạ, dịch vụ điều tra dân sự, dịch vụ tư vấn đòi nợ…
Các doanh nghiệp mới được thành lập này là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm trong xã hội, đã tạo ra ít nhất 600000 việc làm mới.
Đa số doanh nghiệp đã nhận thức được sự thay đổi về quyền tự do kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh trên nguyên tắc được kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
2. Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp với những thay đổi mang tính cởi mở đã khích lệ tinh thần đầu tư, kinh doanh, khơi thông các tiềm năng của xã hội nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố niềm tin của người dân và giới doanh nghiệp vào sự nghiệp đổi mới.Với những thành tựu khá khả quan đạt được đã cho ta thấy điều này. Tuy nhiên trong Luật doanh nghiệp, những văn vản hướng dẫn Luật doanh nghiệp, những quy phạm pháp luật ở những văn bản quy phạm khác vẫn còn những điểm chưa thống nhất, cần được nghiên cứu hoàn chỉnh nhằm bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện nay ở nước ta. Việc triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp vẫn còn những tồn tại nhất định chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
2.1. Vấn đề đăng ký kinh doanh.
Mặc dù có sự đơn giản hoá rất lớn trong thủ tục thành lập doanh nghiệp. Nhưng các nhà đầu tư, kinh doanh vẫn còn gặp không ít những vướng mắc trong việc thành lập doanh nghiệp.
Thứ nhất: Vướng mắc trong thủ tục đăng ký kinh doanh.
Theo quy định tại Điều 13 của Luật doanh nghiệp thì: Hồ sơ đăng ký kinh doanh rất đơn giản gồm: đơn đăng ký kinh doanh; điều lệ đối với công ty; danh sách thành viên đối với công ty TNHH, danh sách thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, danh sách cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần; trường hợp đối với doanh nghiệp kinh doanh các nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định thì phải có thêm xác nhận về vốn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đồng thời Điểm 2 Điều 12 Luật doanh nghiệp quy định: "Cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ hồ sơ khác ngoài hồ sơ quy định tại Luật này".
Nhưng theo Điều 7 Nghị định số 02 /2002/NĐ-CP của Chính phủ, hồ sơ đăng ký kinh doanh ngoài những giấy tờ quy định tại Điều 13 của Luật doanh nghiệp đối với công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân còn phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một số những người quản lý công ty TNHH, công ty cổ phần, các thành viên của công ty hợp danh, chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc giám đốc quản lý doanh nghiệp tư nhân. Điểm 1 Điều 8 của Nghị định quy định: "Người thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện nộp đủ hồ sơ theo quy định tại Điều 7 Nghị định này tại phòng đăng ký kinh doanh "…"Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác ngoài hồ sơ quy định tại Điều 7 Nghị định này". Như vậy Nghị định số 02/2002/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định thêm hồ sơ đăng ký kinh doanh, mà trong Điều 13 Luật doanh nghiệp không quy định. Việc hồ sơ đăng ký kinh doanh có chứng chỉ hành nghề là một quy trình chặt chẽ, khoa học. Tuy nhiên, việc quy định thêm quy phạm trong Nghị định khác so với Luật là không đúng với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Và sẽ gây ra tâm lý không an tâm của cá nhân, tổ chức khi làm thủ tục đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp.
Thứ hai: Vướng mắc trong việc đăng ký kinh doanh những ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Quy định về điều kiện kinh doanh để các doanh nghiệp phải tuân thủ là một trong những công cụ điều tiết nền kinh tế thị trường mà hầu hết các Nhà nước trên thế giới đều sử dụng. Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh cũng có tính hai mặt: một mặt, nhờ việc tuân thủ điều kiền kinh doanh (nhất là các điều kiện về vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường…), chất lượng hàng hoá-dịch vụ do doanh nghiệp cung ứng có thể được cải thiện, thông qua đó, lợi ích của người tiêu dùng cũng được bảo vệ, đồng thời ngăn chặn, giảm thiểu tác động tiêu cực do hoạt động của doanh nghiệp gây ra cho môi trường xung quanh. Nhưng mặt khác, điều kiện kinh doanh lại chính là biện pháp hành chính tạo rào cản sự vận động tự do của các nguồn trong nền kinh tế, tạo ra tình trạng độc quyền của một số doanh nghiệp. Vì vậy, lạm dùng điều kiện kinh doanh có tác hại không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế.
Hiện nay, việc có nên sử dụng điều kiện kinh doanh là công cụ điều tiết hay không không phải là vấn đề tranh cãi. Vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là những ngành nghề nào cần quy định điều kiện kinh doanh, nội dung cụ thể của điều kiền kinh doanh ấy là gì? Làm sao có thể quy định rõ ràng điều kiện kinh doanh? Do sự khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề này nên việc ban hành các điều kiện kinh doanh gặp nhiều vướng mắc. Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực đến nay, một số Bộ, Ngành vẫn chưa ban hành đầy đủ những quy định về điều kiện kinh doanh đối với những ngành, nghề thuộc quyền quản lý của mình như: Chưa có hướng dẫn về việc cấp chứng chỉ hành nghề theo Nghị định 03/2000/NĐ-CP đối với dịch vụ môi giới chứng khoán, đông y châm cứu, vận tải hành khách, dịch vụ thú y, thuốc thú y, thiết kế công trình. Kể cả các ngành nghề còn quá mới, cũng chưa có quy định kinh doanh có điều kiện hay phải có chứng chỉ hành nghề như dịch vụ đòi nợ, thám tử tư…; Chưa cụ thể hoá các nghề nào bắt buộc phải bảo đảm vốn pháp định và xác định cơ quan thẩm quyền chứng nhận vốn pháp định khi đăng ký kinh doanh. Điều 6 Nghị định 03/2000/NĐ-CP có quy định hội nghề nghiệp có nhiệm vụ cấp chứng chỉ hành nghề cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm về ngành cần điều kiện kinh doanh, nhưng chưa hướng dẫn cho phép cụ thể hội nghề nghiệp nào được quyền cấp chứng chỉ hành nghề. Do đó, việc đăng ký kinh doanh trong các ngành nghề này bị đình lại.
Thứ ba: Vướng mắc trong việc đăng ký kinh doanh những ngành nghề mới.
Sự xuất hiện những ngành nghề kinh doanh mới là hiện thân của sức sống, sức sáng tạo trong nền kinh tế thị trường. Việc ghi nhận tinh thần "doanh nghiệp được làm tất cả những gì pháp luật không cấm" trong Luật doanh nghiệp là hoàn toàn hợp quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường. Khi tinh thần đó đã được pháp luật thừa nhận thì đương nhiên, đối với những ngành, nghề kinh doanh mới (do chưa được liệt vào danh mục các ngành, nghề bị cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện), cơ quan đăng ký kinh doanh không được từ chối cấp giấy phép kinh doanh cho doanh nghiệp.Song thực tế, hầu hết các cơ quan đăng ký kinh doanh của các địa phương đều không thực hiện điều này. Cá biệt còn có trường hợp doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoạt động trong ngành nghề thuộc loại ngành nghề mới sau đó lại bị thu hồi lại giấy phép.
Thứ tư: Vướng mắc trong việc đăng ký kinh doanh các ngành, nghề có vốn pháp định.
Tuy chỉ còn một vài ngành khi tiến hành đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, những người sáng lập doanh nghiệp phải chịu ràng buộc về vốn pháp định. Song với việc quy vốn góp vào doanh nghiệp bao gồm cả các loại bất động sản như: nhà cửa, quyền sử dụng đất, nên giá trị của các loại tài sản này cũng được tính vào vốn kinh doanh để làm cơ sở xác định điều kiện về vốn pháp định của loại doanh nghiệp này. Để được tính vào vốn kinh doanh,người góp vốn phải xuất trình giấy tờ chứng minh là chủ sở hữu đối với các động sản ấy. Tuy nhiên trong thực tế, do việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu các động sản và quyền sử dụng đất còn chậm nên việc tính giá trị các bất động sản, quyền sử dụng đất của những người góp vốn khi chưa có các giấy tờ chứng minh kể trên không được cơ quan nhà nước thừa nhận. Bên cạnh đó cơ chế định giá trị quyền sử dụng đất không còn phù hợp với giá thị trường cũng gây ra những bất lợi cho người đăng ký thành lập doanh nghiệp.
2.2. Vấn đề bảo đảm sự tuân thủ Luật Doanh nghiệp từ phía các nhà doanh nghiệp.
Có thể thấy, trong những năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp, việc cải cách các thủ tục hành chính theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp nhằm làm lợi cho các doanh nghiệp, trở thành trọng tâm chú ý của công luận, báo chí và các nhà doanh nghiệp. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp không chỉ quy định vấn đề này, mà ngược lại, nhiều nội dung, nghĩa vụ mới của doanh nghiệp trước Nhà nước, và đặc biệt là trước cộng đồng cần được doanh nghiệp tôn trọng, song thực tế không ít doanh nghiệp đã không được chấp hành. Chẳng hạn như: các quy định về biển hiệu, niêm yết giá hàng hoá, về cung cấp thông tin, về đăng ký các thay đổi và các quan hệ nội bộ của doanh nghiệp lại chưa được doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện. Các vi phạm về đăng ký bố cáo thành lập doanh nghiệp, về vốn đăng ký, về kê khai thuế… Số liệu thực tế về doanh nghiệp ma, về vốn ảo, về tình hình trốn thuế đang làm đau đầu các nhà quản lý như: tính đến ngày 13/04/2001 đã có 525 doanh nghiệp tư nhân bốc hơi, nhiều doanh nghiệp không đăng bố cáo hoạt động hoặc không kê khai thuế. Qua các cuộc điều tra có đến 70% doanh nghiệp sai phạm, thậm chí có những đối tượng lợi dụng pháp nhân doanh nghiệp để lừa đảo rồi cao chạy xa bay. Nếu tình trạng này tiếp diễn, chính là doanh nghiệp phá vỡ thế cân bằng trong cơ chế hậu kiểm mà Luật Doanh nghiệp đã định ra. Và như vậy, đã đến lúc Nhà nước và xã hội đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc các trách nhiệm của mình đã được Luật Doanh nghiệp quy định.
3. Một số giải pháp.
3.1. Cần rà soát một cách toàn diện các văn bản liên quan đến tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, để sửa đổi, bổ sung va hoàn thiện cho phù hợp với tinh thần của Luật Doanh nghiệp.
Kiên quyết và sớm bãi bỏ những văn bản pháp luật có nội dung trái với Luật Doanh nghiệp, bãi bỏ những loại giấy phép phi hiệu quả, gây phiền hà cho doanh nghiệp, ban hành và công bố đầy đủ danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh cụ thể của các ngành. Quy định cụ thể cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định đối với ngành nghề cần có vốn pháp định, có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ cấp chứng chỉ hành nghề.
Sớm ban hành Nghị định để xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, trong Nghị định này cần quy định chế tài đối với các hành vi khai báo gian dối các thông tin trong hồ sơ đăng ký kinh doanh.
3.2. Nâng cao tính tích cực về mặt pháp luật của những nhà doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp có tính tích cực cao về mặt pháp luật, bộ máy Nhà nước sẽ chịu thêm một áp lực để việc thi hành Luật từ phía bộ máy Nhà nước triệt để hơn. Vì vậy, việc nâng cao tính tích cực về mặt pháp luật là một giải pháp rất có ý nghĩa. Tính tích cực về mặt pháp luật chỉ có thể có được khi bản thân các doanh nhân am hiểu pháp luật hoặc biết sử dụng các cố vấn pháp lý giàu kinh nghiệm. Đây là cách làm thường lệ ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trong khi đó, hiếm có doanh nghiệp nào của Việt Nam lại ý thức đầy đủ điều này. Để nâng cao tính tích cực về mặt pháp lý cho các chủ doanh nghiệp, những người điều hành doanh nghiệp, Nhà nước cần có chính sách sau đâu :
-Có cơ chế khuyến khích, cải thiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp với những doanh nghiệp có tư cách pháp lý. Khuyến khích các doanh nghiệp tư vấn pháp lý phát triển thông qua các chính sách thuế.
-Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các cố vấn pháp lý phát triển thông qua các chính sách thuế.
-Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hiệp hội nghề nghiệp của các doanh nghiệp phát triển, đoàn kết, cùng bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp, tạo những áp lực đối với các cơ quan Nhà nước.
-Phát động phong trào bảo vệ doanh nghiệp, tôn vinh các doanh nghiệp, nhà kinh doanh làm ăn có hiệu quả, làm ăn chân chính và đóng góp nhiều cho xã hội.
Phần B: Quyền Tự Do Ký Kết Hợp Đồng Kinh Tế Trong Cơ Chế Thị Trường.
I. Sự ra đời và phát triển của hợp đồng kinh tế.
1. Sự ra đời của hợp đồng kinh tế.
Vào thời kỳ sơ khai của lịch sử loài người, con người sống thành từng bầy để cùng nhau chống chọi với thiên nhiên, họ chỉ kiếm những thức ăn có sẵn trong thiên nhiên như : hoa quả, thú rừng. Cùng với sự phát triển của xã hội, con người dần dần có khả năng nhận biết và cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phải phục vụ cho chu cầu của mình. Sau đó có sự phân công lao động xã hội giữa trồng trọt và chăn nuôi, đây là sự phân công lao động lần thứ nhất.
Trong lao động và cùng với lao động, con người ngày càng phát triển, hoạt động của con người ngày càng phong phú, đa dạng. Con người biết chế tạo công cụ lao động để sử dụng làm cho năng suất lao động tăng lên. Trên cơ sở của sự phân công lao động xã hội và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34627.doc