MỤC LỤC trang
Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ 0
LỜI NÓI ĐẦU 01
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ RỦI RO LÃI SUẤT VÀ HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT 03
1. Khái niệm rủi ro lãi suất 03
1.1.Khái niệm rủi ro lãi suất 03
1.2.Ví dụ về rủi ro lãi suất 04
2. Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất 05
2.1. Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản 05
2.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng 06
2.3. Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng 06
3. Khái niệm quản trị rủi ro lãi suất 07
4. Các kĩ thuật quản trị rủi ro lãi suất 08
4.1. Quản trị khe hở lãi suất 08
4.2. Quản trị khe hở kì hạn 09
4.3. Sử dụng các nghiệp vụ phát sinh 11
4.3.1. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng kì hạn 11
4.3.2. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng tương lai 12
4.3.3. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng quyền chọn 13
4.3.4. Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng hợp đồng hoán đổi lãi suất 14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT Ở NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI 15
1. Tổng quan về ngân hàng TMCP Quân đội 15
1.1. Giới thiệu chung về ngân hàng TMCP Quân đội 15
1.1.1. Phương châm hoạt động 15
1.1.2. Các sản phẩm và dich vụ của ngân hàng 16
1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội 21
2. Thực trạng quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng TMCP Quân đội 26
3. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội 30
3.1. Thành tựu đạt được trong hoạt đông quản trị rủi ro lãi suất 30
3.2. Hạn chế trong hoạt động quản trị rủi ro lãi suất 30
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT Ở NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI 39
1. Định hướng hoạt động của ngân hàng TMCP Quân đội và yêu cầu đặt ra đối với quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng 39
1.1. Định hướng hoạt động của ngân hàng TMCP Quân đội 39
1.2. Yêu cầu đặt ra đối với quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng 43
2. Các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro lãi suất 45
2.1. Nâng cao trình độ nhận thức nhà quản trị, cán bộ ngân hàng và khách hàng 45
2.2. Hoàn thiện hệ thống kế toán thống kê ngân hàng 46
2.3. Nghiên cứu, dự báo biến động lãi suất 47
2.4. Hoàn thiện văn bản pháp lý về đo lường và quản lý rủi ro lãi suất 48
3. Các điều kiện để thực hiện giải pháp 48
3.1. Hiện đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ Ngân hàng 48
3.2. Nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng và nhà quản trị ngân hàng 50
3.3. Hoàn thiện bộ máy quản trị nội bộ 52
3.4. Sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước 52
Kết luận 55
Nhận xét của cơ sở thực tập 57
Danh mục tài liệu tham khảo
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8124 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Rủi ro lãi suất và quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng có uy tín, giá trị khác.
1.2. Kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội:
Bảng báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội từ năm 1994 đến năm 2007.
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng TMCP Quân đội các năm (Đơn vị: tỷ đồng VN)
Tổng tài sản
Tổng vốn huy động
Tổng dư nợ
Lợi nhuận trước thuế
Năm 1994
33
10
15
0.23
Năm 1995
261
193
173
4.64
Năm 1996
1185
843
557
29.77
Năm 1997
1416
1069
638
37.04
Năm 1998
1585
1267
687
44.99
Năm 1999
1770
1446
792
46.33
Năm 2000
2634
2212
1320
53.59
Năm 2001
3034
2549
1744
57.04
Năm 2002
3967
3119
2027
60.86
Năm 2003
4321
3485
2951
72.46
Năm 2004
6995
4933
3898
105.39
Năm 2005
10354
10389
4532
148.7
Năm 2006
13864
11200
6200
252
Năm 2007
31000
23010
10000
610
Đồ thị 1: Tổng tài sản của Ngân hàng TMCP Quân đội (1994-2007)
Đơn vị: tỷ đồng VN
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội từ năm 1994-2007
Đồ thị 2: Tổng vốn huy động của Ngân hàng TMCP Quân đội (1994-2007)
Đơn vị: tỷ đồng VN
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội (1994-2007)
Đồ thị 3: Tổng dư nợ của Ngân hàng TMCP Quân đội (1994-2007)
Đồ thị 4: Lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng TMCP Quân đội (1994-2007)
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội (1994-2007)
Nhận xét:
- Nhìn vào bảng số liệu và đồ thị, ta thấy tổng tài sản, tổng vốn huy động, tổng dư nợ và lợi nhuận trước thuế của ngân hàng TMCP Quân đội liên tục tăng từ năm 1994-2007. Tuy nhiên tốc độ tăng giảm của từng loại theo thời gian lại không đồng đều. Cụ thể:
+ Tổng tài sản của ngân hàng từ năm 1994-2007 tăng nhưng tốc độ qua các năm không đồng đều. Từ năm 1994-1996 tốc độ tăng nhanh, mỗi năm tăng trên 5 lần nhưng từ năm 1997-2007 tốc độ tăng chỉ từ 1-3 lần.
+ Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng từ năm 1994-2007 liên tục tăng nhưng tốc độ tăng không đồng đều qua các năm. Từ năm 1994-1996 tốc độ tăng mỗi năm đạt trung bình 12 lần, nhưng từ năm 1996-2007 mặc dù giá trị nguồn vốn vẫn tăng nhưng tốc độ đã giảm xuống chỉ còn 1-2 lần.
+ Tổng dư nợ của ngân hàng từ năm 1994-2007 tăng liên tục qua các năm. Tuy nhiên tốc độ tăng các năm có khác nhau. Từ năm 1994-1996 tốc độ tăng mỗi năm đạt trên 7 lần, nhưng từ năm 1997-2007 thì mỗi năm ngân hàng chỉ tăng tổng mức dư nợ từ 1-2 lần.
+ Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng từ năm 1994-2007 tăng. Từ năm 1994-1996 mỗi năm lợi nhuận trước thuế tăng trung bình 5,5 lần, từ năm 1997-2007 mỗi năm lợi nhuận trước thế chỉ tăng trung bình khoảng 1,5 lần.
Chúng ta thấy tốc độ tăng của tổng tài sản, tổng nguồn vốn huy động, tổng dư nợ và lợi huân trước thuế của ngân hàng từ năm 1994-1996 tăng nhanh hơn so với những năm sau. Từ năm 1994 nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đi vào ổn định, ngân hàng Quân đội có kết quả kinh doanh liên tục tăng.
Năm 1997, do khủng hoảng tài chính từ Thái lan sau đó lan sang các nước Đông Nam Á làm cho thị trường tài chính khủng hoảng, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nên ngân hàng mặc dù kết quả kinh doanh tăng so với năm trước nhưng tốc độ lại giảm. Cùng với đó là sự ra đời của nhiều ngân hàng thương mại trong nước làm cho sự cạnh tranh trong ngành tài chính ngân hàng ngày càng gay gắt làm cho tốc độ tăng lên so với những năm trước đó giảm. Những năm gần đây( 2006-2007) khi Ngân hàng nhà nước Việt Nam bắt đầu có các chính sách thắt chặt tài chính hơn thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng có tốc độ tăng hơn so với các năm trước đó.
- Ngân hàng TMCP Quân đội đã đạt được nhiều thành tích như:
+Được Ngân hàng Nhà nước trao tặng bằng khen vì đã có nhiều thành tích góp phần hoàn thành nhiệm vụ năm 2003 (theo Quyết định số 1399/ QĿ - NHNN 29/ 10/ 2004).
+Nhiều lần được "Giải thưởng thanh toán quốc tế và quản lý tiền tệ trên thị trường quốc tế" do Ngân hàng HSBC trao tặng.
+Đạt giải thương hiệu mạnh 2005 do người tiêu dùng bình chọn.
+Giải thưởng “Ngân hàng đại lý thanh toán quốc tế và quản lý vốn tốt nhất 2005” của Ngân hàng UBOC
+Bằng khen về thành tích đóng thuế do Cục thuế trao tặng.
+Nhiều năm liền được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A.
2. Thực trạng quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội:
Đối với các NHTM Việt Nam, quản lý rủi ro lãi suất còn là vấn đề khá mới mẻ. Trong một thời gian dài các ngân hàng hầu như không quan tâm đến vấn đề này vì với cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất trên thị trường tương đối ổn định, ít có sự biến động và ít gây tác động đến ngân hàng. Những năm gần đây, khi lãi suất thị trường có nhiều biến động, các ngân hàng mới nhận thấy mình đang đứng trước nguy cơ rủi ro và bước đầu thực hiện một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro lãi suất. Các ngân hàng đã chủ động thành lập các bộ phận nghiên cứu và đưa ra các phương án để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Ngân hàng TMCP Quân đội cũng đã thành lập bộ phận nghiên cứu và quản trị rủi ro.
Từ ngày 1/11/2003, khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép mở rộng các ngân hàng và các tổ chức tín dụng, DN được thực hiện hoán đổi lãi suất. Việc làm này nhằm giúp các ngân hàng và DN phòng ngừa, hạn chế rủi ro do biến động của lãi suất thị trường. Ngân hàng Quân đội đã sử dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và của chính ngân hàng trong công tác phòng chống rủi ro do lãi suất đem lại. Thời hạn của hợp đồng hoán đổi lãi suất phải phù hợp với thời hạn của khoản vay gốc nhưng không quá 5 ngày, kể từ ngày hợp đồng đó có hiệu lực. Số nợ gốc của các hợp đồng hoán đổi lãi suất đối với một DN không được vượt quá 30% vốn tự có của ngân hàng.
Ngoài việc sử dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất, ngân hàng Quân đội còn sử dụng hợp đồng kì hạn để phòng tránh rủi ro lãi suất như hợp đồng kì hạn trái phiếu, hợp đồng kì hạn tiền gửi.
Ngân hàng TMCP Quân đội được đánh giá là ngân hàng tiên phong trong việc quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế. Quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế luôn là một trong những chủ đề nhận được sự quan tâm của Chính phủ, NHNN, các Bộ ngành và các NHTM, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế VN đang hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, trong thời gian qua, NHNN đã ban hành một hệ thống các văn bản quy định, hướng dẫn về quản trị rủi ro trong hệ thống Ngân hàng. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung Quyết định 18 trong đó quy định phân loại nợ theo tiêu chuẩn định tính (Điều 7) và lộ trình yêu cầu tất cả các TCTD Việt Nam phải đệ trình đề án xếp hạng tín dụng nội bộ (XHTD) để Ngân hàng Nhà nước xem xét và phê duyệt chậm nhất vào tháng 5/2008 đã thể hiện quyết tâm cao của Ngân hàng Nhà nước trong việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM VN theo thông lệ quốc tế.
Đối với MB, quản trị rủi ro luôn là ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo một sự tăng trưởng ổn định và bền vững. Hệ thống quản trị rủi ro lãi suất là cấu phần quan trọng trong hệ thống quản trị rủi ro đối với bất kỳ TCTD nào. Chính vì vậy, ngay từ năm 2003, MB đã bắt đầu công tác nghiên cứu và xây dựng bộ phận nghiên cứu và quản lí rỉ ro lãi suất với sự tham gia của các chuyên gia giàu kinh nghiệm. Đến năm 2006, để đáp ứng yêu cầu quản trị trong tình hình mới và tiệm cận tối đa với các chuẩn mực quốc tế, Ban lãnh đạo MB đã chủ trương nâng cấp hệ thống này. Với sự hỗ trợ của tư vấn giàu kinh nghiệm là Công ty kiểm toán Ernst & Young Việt Nam, trong năm 2007 MB đã tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Đây cũng là công ty tư vấn triển khai thành công chương trình XHTD cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Sau một thời gian triển khai, đào tạo, chạy thử và kiểm tra trên toàn hệ thống, hệ thống phần mềm chấm điểm, thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của MB đã đi vào hoạt động ổn định, đáp ứng cơ bản các yêu cầu đề ra. Sau khi được NHNN phê duyệt, MB sẽ chính thức áp dụng trích lập dự phòng rủi ro theo điều 7-QĐ 493 của NHNN đồng thời đưa hệ thống vào sử dụng trong Quý 2/2008 và sẽ là NHTMCP đầu tiên quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế.
Hệ thống được xây dựng phù hợp với đặc thù hoạt động tín dụng và chiến lược phát triển của MB và vận hành trên nguyên tắc thận trọng, khách quan và thống nhất. Hệ thống được xây dựng trên một phần mềm chuyên dụng, có tính bảo mật cao, hoàn toàn tích hợp với hệ thống ngân hàng core banking T24 của Ngân hàng. Ngoài chức năng xếp hạng và phân loại nợ, hệ thống còn bổ sung chức năng hỗ trợ ra quyết định cho vay, cho phép trích lập dự phòng trực tiếp và chiết xuất ra được các báo cáo theo yêu cầu quản trị. Đây là những tính năng rất ưu việt của hệ thống này, đáp ứng tốt các yêu cầu về phát triển kinh doanh và quản trị rủi ro của MB.
Với hệ thống XHTD này, việc đo lường và định dạng các rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất tại MB được thực hiện thống nhất, tập trung trong suốt quá trình cho vay và quản lý khoản vay từ Hội sở tới tất cả các điểm giao dịch. Từ đó, giúp MB hoạch định chính sách quản trị rủi ro phù hợp, thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng theo quy định của NHNN. Đối với các khách hàng, việc MB áp dụng thành công chương trình này cũng sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho họ. Thời gian xử lý các giao dịch của MB sẽ nhanh chóng hơn thông qua việc chấm điểm tự động. Các khách hàng được xếp loại tốt sẽ nhận được chính sách ưu đãi về giá, phí, chương trình khách hàng thân thiết hay có nhiều cơ hội hợp tác cùng MB. Ngoài ra, các khách hàng sẽ có cơ hội thường xuyên được cán bộ MB tư vấn để đảm bảo hoạt động tài chính, kinh doanh lành mạnh.
Việc cho phép MB áp dụng hệ thống XHTD sẽ giúp NHNN trong công tác quản lý, giám sát tính tuân thủ các quy định của NHNN trong hoạt động phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế tại MB. Thông qua đó, NHNN có thể nhân rộng ra mô hình XHTD nội bộ thành công của MB trong hệ thống Ngân hàng TMCP để góp phần đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa, áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro của hệ thống Ngân hàng TM trong bối cảnh hội nhập của hệ thống tài chính Ngân hàng Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, lãi suất cho vay trung bình của ngân hàng khá cao: 12%/năm (1%/tháng); lãi suất cho vay ngắn hạn 10-13,8%/năm; lãi suất trung hạn cho vay từ 10-11%/năm. Việc điều chỉnh tăng lãi suất cho vay chưa biết sẽ kiềm chế được lạm phát hay không, nhưng trước mắt, động thái này sẽ làm tăng rủi ro cho cả NHTM và DN.
Từ năm 2004-2007 thì lãi suất của Ngân hàng liên tục biến động, đặc biệt là trong năm 2007. Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng cuối năm 2007 đã gây tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống NHTM.
Lãi suất tăng báo hiệu một chu kỳ sút giảm lợi tức của ngành ngân hàng, do GAP (chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay) sẽ bị thu hẹp lại. Lãi suất tăng cũng làm giảm đầu tư của doanh nghiệp, do chi phí lãi suất tăng lên và lợi nhuận giảm xuống.
Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng GDP. Đó cũng là cái giá phải trả cho ý tưởng dùng lạm phát để kích thích tăng trưởng điều này chỉ có thể đạt được trong ngắn hạn mà thôi.
3. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở Ngân hàng TMCP Quân đội:
3.1. Thành tựu của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội:
Ngân hàng TMCP Quân đội đã bắt đầu quan tâm đến công tác quản trị rủi ro lãi suất, thể hiện qua việc thành lập phòng nghiên cứu rủi ro trong ngân hàng. Quy trình quản trị rủi ro được thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với toàn bộ danh mục rủi ro. Trong quản trị rủi ro lãi suất, ngân hàng TMCP Quân đội thực hiện quản trị rủi ro đối với từng khoản và đối với toàn bộ danh mục lãi suất. Vì vậy lợi nhuận trước thuế của ngân hàng liên tục tăng mặc dù những năm gần đây sự biến động của lãi suất đã khiến cho nhiều ngân hàng gặp khó khăn.
Ngân hàng Quân đội luôn duy trì lãi suất hợp lý phù hợp với chỉ đạo của NHNN, có bộ phận nghiên cứu lãi suất và biến động lãi suất nên trước cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng trong thời gian qua ngân hàng không gặp phải rủi ro cho hoạt động kinh doanh.
3.2. Hạn chế của hoạt động quản trị rủi ro lãi suất ở ngân hàng TMCP Quân đội:
Hiện nay, công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng nói chung và ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng vẫn còn những mặt hạn chế cơ bản như sau:
Một là, chưa có sự quan tâm thích đáng về quản lý rủi ro lãi suất của bộ máy lãnh đạo trong ngân hàng. Sự thiếu quan tâm thể hiện ở chỗ ngân hàng chưa xây dựng một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, chưa có những quy định cụ thể những nội dung cần thực hiện trong quá trình quản lý rủi ro,... Trong thời gian qua, mặc dù lãi suất tại thị trường Việt Nam có nhiều biến động, nhưng thực tế, mức độ dao động không quá lớn nên những thiệt hại do rủi ro lãi suất của ngân hàng chưa nhiều. Tuy nhiên, kinh nghiệm tại một số quốc gia cho thấy, những cú sốc lớn về lãi suất có thể gây nên những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với các NHTM và nền kinh tế nói chung. Nếu không nhận thức đầy đủ về loại rủi ro này, các NHTM Việt Nam có thể sẽ không có những chuẩn bị cần thiết, tạo cho mình khả năng chống đỡ trước những biến động lớn của thị trường, đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế hiện nay. Ngân hàng Quân đội cần phải có hệ thống giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của danh mục tín dụng để từ đó đưa ra kì hạn đặt lãi phù hợp, kỳ hạn tái định giá giữa tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng. Việc giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng giúp cho ngân hàng có được cái nhìn tổng thể về rủi ro, từ đó, dễ dàng nhận biết được rủi ro đầu tư tập trung vào những hạng mục (khách hàng, khu vực, ngành nghề,..), trên cơ sở đó, có những điều chỉnh thích hợp để tránh sự tập trung đầu tư quá mức nhằm làm giảm thiểu rủi ro.
Hai là, trong nhận thức về rủi ro lãi suất, Ngân hàng TMCP Quân đội mới chỉ dừng lại ở nhận định là ngân hàng có rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi, nhưng chưa đo lường, đánh giá cụ thể mức rủi ro là bao nhiêu, lãi suất biến động theo chiều hướng nào sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng,... Hiện nay, các NHTM tại nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng nhiều phương pháp, mô hình để lượng hóa rủi ro lãi suất phù hợp với trình độ của từng ngân hàng và quy định của cơ quan quản lý ở từng nước. Mặc dù mỗi mô hình đo lường rủi ro lãi suất đều có những mặt hạn chế nhất định, nhưng việc sử dụng những mô hình này có thể giúp các NHTM xác định một cách cụ thể những thiệt hại cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính thiệt hại trong tương lai mỗi khi lãi suất thị trường biến động. Những tính toán này sẽ là cơ sở cần thiết để ngân hàng áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm hạn chế thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Tuy nhiên, do chưa thực hiện việc lượng hóa rủi ro lãi suất vì chưa có đủ điều kiện cần thiết nên các biện pháp mà ngân hàng TMCP Quân đội đã sử dụng để kiểm soát loại rủi ro này mới chỉ dựa trên cảm tính và chưa hiệu quả.
Ba là, ngân hàng chưa thực hiện một cách toàn diện những biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro lãi suất. Cụ thể, về các biện pháp nội bảng, chủ yếu ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc áp dụng chính sách lãi suất thả nổi trong cho vay trung- dài hạn mà chưa có những biện pháp tích cực để duy trì sự cân xứng về kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ. Về các biện pháp ngoại bảng, cho đến nay, hầu hết các ngân hàng hoàn toàn chưa ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Hiện tại, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó quy định những điều kiện cụ thể đối với các tổ chức tín dụng thực hiện giao dịch hoán đổi. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ những điều kiện này. Chẳng hạn, một trong những điều kiện quy định trong quy chế là các tổ chức tín dụng phải “xây dựng quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó gồm cả biện pháp phòng ngừa rủi ro” thì hiện nay chưa được xúc tiến tại các NHTM Việt Nam.
Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý rủi ro lãi suất tại ngân hàng TMCP Quân đội: Có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan dẫn đến những hạn chế kể trên trong công tác quản lý rủi ro lãi suất của ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan:
-Trong một thời gian dài, Ngân hàng hoạt động kinh doanh trong điều kiện lãi suất tiền gửi và cho vay hoàn toàn chịu sự điều tiết của NHNN
Giai đoạn năm 1994-1995, NHNN quy định mức lãi suất cho vay cho từng khu vực, từng thành phần, từng ngành kinh tế và từng loại cho vay. Những mức lãi suất này được quy định áp dụng thống nhất tại tất cả các NHTM trong đó có ngân hàng TMCP Quân đội. Trong giai đoạn từ 1996 đến năm 2000, mặc dù NHNN không còn quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể như trước nhưng vẫn quy định trần lãi suất và yêu cầu ngân hàng không được cho vay vượt trần. Do sự quản lý trực tiếp của NHNN nên lãi suất trong nền kinh tế không thực sự phản ánh mối quan hệ cung- cầu về vốn và do vậy, hầu như lãi suất rất ít biến động. Chính vì vậy trong thời gian này, các NHTM chưa phải đối mặt với rủi ro lãi suất và vấn đề quản lý rủi ro lãi suất chưa được các ngân hàng quan tâm.
Từ tháng 7/2000 đến tháng 6/2002, NHNN bắt đầu sử dụng lãi suất cơ bản trong điều hành lãi suất. Mặc dù trong thời gian này, NHNN vẫn khống chế biên độ dao động trên của lãi suất cơ bản, nhưng chính sách lãi suất tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất thị trường hơn khi mức lãi suất cơ bản được hình thành căn cứ vào mức lãi suất cho vay của một số các tổ chức tín dụng chiếm đa số thị phần tín dụng. Kể từ thời gian này, lãi suất huy động và cho vay của các NHTM có xu hướng biến động nhiều hơn, đặc biệt đối với lãi suất cho vay ngoại tệ được quy định gắn với SIBOR nên biến động của nó hoàn toàn phụ thuộc vào những thay đổi lãi suất của thị trường quốc tế. Từ 1/6/2002, NHNN công bố việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, xóa bỏ quy định biên độ khống chế theo lãi suất cơ bản, chính thức tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế.
Trong bối cảnh lãi suất thị trường có xu hướng biến động nhiều hơn, các NHTM Việt Nam đã có nhận thức về nguy cơ rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và bước đầu có giải pháp để phòng ngừa. Tuy nhiên, những nhận thức này mới chỉ là bước đầu và chưa toàn diện.
-Có cơ quan dự báo sự thay đổi của lãi suất nhưng chưa có kinh nghiệm
Việc đo lường rủi ro lãi suất không chỉ nhằm đánh giá những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu trong quá khứ, trong điều kiện lãi suất thị trường biến động mà quan trọng hơn, giúp các ngân hàng dự tính được những thiệt hại có thể phát sinh trong tương lai, qua đó, giúp ngân hàng lựa chọn những giải pháp phòng ngừa một cách có hiệu quả những rủi ro này. Để dự tính được chính xác mức độ thiệt hại của ngân hàng khi lãi suất thị trường biến động thì một trong những vấn đề quan trọng là phải dự báo chính xác mức độ biến động của lãi suất trong tương lai. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ đối với các ngân hàng trong việc lượng hóa rủi ro lãi suất một cách chính xác.
- Nhà nước chưa hoàn thiện các văn bản pháp lý về việc đo lường và quản lý rủi ro lãi suất
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật về hoạt động ngân hàng chưa có văn bản nào quy định về việc quản lý, đo lường rủi ro lãi suất tại các NHTM, kể cả trong Quy chế giám sát của Thanh tra NHNN cũng chưa có quy định nội dung giám sát này. Một khi cơ quan quản lý chưa có yêu cầu cụ thể thì các NHTM chưa thể nhận thức đầy đủ về sự cần thiết cũng như cách thức thực hiện việc quản lý rủi ro lãi suất và đây cũng chính là một điểm hạn chế cho việc lượng hóa rủi ro lãi suất tại các NHTM.
Mặt khác, các văn bản pháp lý về nghiệp vụ phát sinh cũng chưa được hoàn thiện. Hiện tại, NHNN mới chỉ ban hành các văn bản quy định về nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, đối với nghiệp vụ phái sinh lãi suất mới chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất, chưa có văn bản pháp lý nào được ban hành để hướng dẫn các NHTM thực hiện các nghiệp vụ phát sinh về lãi suất khác như kỳ hạn tiền gửi (FFD), kỳ hạn lãi suất (FRA), các nghiệp vụ quyền chọn như CAP, FLOORS, COLLAR,... Đối với các giao dịch phát sinh về chứng khoán như giao dịch kỳ hạn, quyền chọn trái phiếu, cổ phiếu cũng chưa có cơ sở pháp lý để thực hiện tại Việt Nam.
- Thị trường tài chính- tiền tệ đang trên đà phát triển
Hiện nay, sự phát triển của thị trường tài chính- tiền tệ của Việt Nam còn rất hạn chế. Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hóa nền kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn chưa phát triển và không bằng so với các nước trong khu vực. Sự nông cạn của thị trường sẽ làm cho các công cụ thị trường kém phát huy tác dụng, trong đó bao gồm cả lãi suất. của. Thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động được 6 năm, nhưng mức độ sôi động còn thấp, hàng hoá trên thị trường còn chưa phong phú. Trên sàn giao dịch chứng khoán của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán chưa có nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu niêm yết. Thực chất, hiện nay thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chỉ là khởim đầu theo đúng nghĩa của nó, sự tham gia của các trung gian tài chính vào thị trường mới chỉ ở mức thăm dò, nhiều tổ chức còn đứng ngoài cuộc. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ với sự hoạt động của thị trường mở, thị trường liên ngân hàng mới bắt đầu sôi động. Các giao dịch trên thị trường này còn mang tính một chiều, tức là một số ngân hàng luôn là người cung ứng vốn, còn một số ngân hàng luôn có nhu cầu vay vốn. Chính vì vậy mà thị trường tiền tệ hoạt động còn rất nhiều hạn chế, chưa trỏ thành nơi cung cấp những thông tin quan trọng về mức lãi suất ngắn hạn để có thể hình thành được đường cong lãi suất, làm cơ sở cho việc dự báo lãi suất thị trường cũng như việc định giá các trái phiếu có lãi suất cố định và các hợp đồng phát sinh. Nghiên cứu của một số nhà kinh tế đã chỉ ra hai trường hợp của Thái Lan và Hàn Quốc là những quốc gia đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển thị trường trái phiếu và thị trường phát sinh vì thị trường tiền tệ của hai quốc gia này không phát triển. Như vậy, chính sự kém phát triển của thị trường tài chính- tiền tệ đã gây những khó khăn hạn chế cho các NHTM Việt Nam trong việc định lượng và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất.
- Kiến thức hiểu biết của nhiều doanh nghiệp về các giao dịch phát sinh và vấn đề phòng chống rủi ro lãi suất còn quá thấp
Phần lớn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là nguồn vay nợ từ bên ngoài, đặc biệt từ ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp có các hợp đồng tín dụng trung- dài hạn với giá trị lớn và lãi suất cố định cũng như các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên ở vào các vị thế mở về ngoại tệ (trường hoặc đoản) luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thị trường rất lớn như rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái. Đối với khách hàng huy động vốn trên thị trường bằng hình thức phát hành trái phiếu trung và dài hạn từ 5 đến 10 năm với mức lãi suất cố định, muốn chuyển đổi thành lãi suất thả nổi để giảm chi phí và cân đối bảng tổng kết tài sản, hoặc khi có dự đoán lãi suất xuống, việc bán hợp đồng hoán đổi lãi suất có thể đáp ứng được yêu cầu này. Đối với các khách hàng có nhu cầu đảm bảo có nguồn vốn ổn định và dài hạn cho hoạt động, có thể hoán đổi các giao dịch vốn ngắn hạn với ngân hàng thành một nguồn vốn ổn định và dài hạn với lãi suất cố định. Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa quan tâm và chưa có kiến thức về vấn đề này. Những hiểu biết về các kỹ thuật phòng chống rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái bằng các giao dịch phát sinh lại càng xa lạ. Chính vì vậy, các doanh nghiệp không sẵn sàng tham gia phòng ngừa rủi ro bằng các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng quyền chọn dẫn đến những khó khăn cho các NHTM trong việc phát triển các nghiệp vụ phát sinh. Điều này cũng cho thấy rằng tại các NHTM Việt Nam, công tác marketing ngân hàng với các hoạt động tuyên truyền, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ mới còn có nhiều hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan
-Tại ngân hàng chưa có những cán bộ được đào tạo chuyên sâu về quản trị rỉ ro lãi suất
Hiện nay, vấn đề rủi ro lãi suất còn chưa phổ biến với cán bộ nhân viên ngân hàng. Vì vậy, việc nhận biết, đánh giá rủi ro của các cán bộ nhân viên ngân hàng còn hạn chế. Những hạn chế này khiến các ngân hàng thường bỏ ngỏ những bước quan trọng. Trên thực tế, muốn biết được mức độ tổn thất của rủi ro lãi suất để có biện pháp phòng chống thì các ngân hàng cần phải tính toán được rủi ro lãi suất tác động như thế nào đến thu nhập ròng cũng như giá trị tài sản của ngân hàng. Để xác định một cách chính xác những tác động này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thực sự am hiểu về quản lý tài sản nợ- tài sản có của ngân hàng, đồng thời có những kiến thức nhất định về tài chính để nắm vững những kỹ thuật đo lường rủi ro lãi suất bằng việc sử dụng các mô hình. Đối với các NHTM Việt Nam, đây là vấn đề tương đối mới và phần lớn cán bộ nhân viên ngân hàng đều chưa được trang bị những kiến thức này.
Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết của cán bộ nhân viên ngân hàng về các nghiệp vụ phát sinh như giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20349.doc