MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
Chương I. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HÀNG HOÁ VÀ DỊCH VỤ PHI THỊ TRƯỜNG ÁP DỤNG CHO LOÀI SAO LA 3
1.1. Khái quát về tổng giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn của loài Sao La 3
1.1.1 Tổng giá trị kinh tế 3
1.1.2. Giá sẵn lòng chi trả (WTP) 6
1.1.3. Vì sao phải đánh giá giá trị bảo tồn loài Sao La 8
1.1.4. Ý nghĩa kinh tế và sinh thái của loài Sao La 8
1.2 Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contigent Valuation Method-CVM) 9
1.2.1 Khái niệm về phương pháp đánh giá ngẫu nhiên 9
1.2.2. Cơ sở lý thuyết và cách thu thập WTP 11
1.2.3. Các bước tiến hành phương pháp CVM 13
1.2.4. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp CVM 16
1.2.5. Tình hình áp dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) 19
1.2.6. Tiểu kết chương I 22
Chương II. HIỆN TRẠNG VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT, TỈNH NGHỆ AN 23
2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Vườn Quốc Gia Pù Mát 23
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 23
2.1.1.1. Vị trí địa lý 23
2.1.1.2. Địa hình 24
2.1.1.3. Hệ thống sông ngòi, thác nước 24
2.1.1.4. Khí hậu 25
2.1.1.5. Phân khu bảo tồn nghiêm ngặt 25
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội 25
2.1.2.1. Dân cư 25
2.1.2.2. Nông nghiệp 26
2.1.2.3. Lâm nghiệp 27
2.1.3. Hệ động thực vật 27
2.1.3.1. Động vật 28
2.1.3.2. Thực vật 29
2.2. Những thông tin chung về loài Sao La 32
2.2.1. Đặc điểm hình thái 32
2.2.2. Phân bố 33
2.2.3. Nơi sống, lãnh thổ 35
2.2.4. Vùng sống và tính lãnh thổ 35
2.2.5. Tập tính sinh hoạt 35
2.2.6. Thức ăn và nhu cầu ăn uống 35
2.2.7. Sinh sản, sinh trưởng và phát triển 36
2.2.8. Các mối đe doạ đối với Sao La 36
2.3. Các áp lực và thách thức đối với Vườn Quốc Gia 37
2.4. Tiểu kết chương II 38
Chương III. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ BẢO TỒN LOÀI SAO LA Ở VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT 39
3.1. Tổng quan về quá trình nghiên cứu 39
3.1.1. Quá trình điều tra thu thập số liệu 39
3.1.2. Mục đích điều tra 39
3.1.3. Nội dung điều tra 40
3.1.4. Kết cấu bảng hỏi và các bước tiến hành điều tra 40
3.1.4.1. Kết cấu bảng hỏi 40
3.1.4.2. Các bước tiến hành điều tra 41
3.2. Đặc điểm kinh tế-xã hội của đối tượng phỏng vấn 42
3.2.1. Giới tính, độ tuổi, dân tộc và trình độ học vấn 42
3.2.2. Nghề nghiệp và thu nhập 43
3.3. Hiểu biết của đối tượng tham gia phỏng vấn về loài Sao La 45
3.4. Ước lượng mức sẵn lòng chi trả của đối tượng tham gia phỏng vấn về giá trị bảo tồn của loài Sao La 47
3.5. Kiến nghị, đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn loài Sao La 52
3.6. Tiểu kết chương III 54
KẾT LUẬN 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
PHỤ LỤC 1
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2646 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) để đánh giá giá trị bảo tồn loài Sao La ở Vườn Quốc Gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể các hộ được đưa ra ba tình huống chất lượng nước sông và được hỏi đơn giản là họ sẵn lòng trả bao nhiêu cho mỗi trường hợp.
Tình huống 1: Giữ nguyên chất lượng nước sông (đủ thích hợp cho việc bơi thuyền)
Tình huống 2: Nâng cao chất lượng nước sông từ mức có thể bơi thuyền được tới mức có thể câu cá được
Tình huống 3: Nâng cao chất lượng nước sông hơn nữa từ mức có thể bơi thuyền tới mức có thể tắm được.
Giá sẵn lòng chi trả (WTP) cho các tình huống chất lượng nước sông
Chất lượng nước
WTP trung bình toàn thể mẫu ($)
WTP trung bình của nhóm sử dụng ($)
WTP trung bình của nhóm không sử dụng ($)
Tình huống 1
24,5
45,3
14,2
Tình huống 2
17,6
31,3
10,8
Tình huống 3
12,4
20,2
8,5
Nguồn: Desvousges et al. ( 1987)
Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên là một kỹ thuật quan trọng sử dụng để định giá thiệt hại tài sản và nguồn tài nguyên. Khi một sự cố tràn dầu xảy ra làm tổn thương đến tài nguyên tự nhiên, như làm ô nhiễm nước ngầm, làm chết các loài động thực vật thuỷ sinh,…Sự bồi thường cho những thiệt hại này thường dựa vào việc nghiên cứu CV, như trong trường hợp Nestucca and Exxon Valdez oil spills ( Rowe, Shaw and Schulze 1992; Carson et al . 1994)
1.2.6. Tiểu kết chương I
Suy thoái môi trường gây ra những thiệt hại như đối với hệ sinh thái, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất khác. Để đánh giá những thiệt hại này thì chúng ta có nhiều cách nhưng nói tóm lại các phương pháp này chủ yếu dựa vào giá thị trường để ước lượng mức thiệt hại cho một tình trạng suy thoái môi trường xảy ra. Nhưng cũng có những hàng hoá môi trường khác không thể định giá bằng giá thị trường ví dụ như việc cải thiện chất lượng môi trường, việc bảo tồn một loại động thực vật nào đó. Kinh nghiệm của nhiều nước phát triển đã nghiên cứu giá trị của những hàng hoá này bằng cách đánh giá ngẫu nhiên. CVM là phương pháp tiến hành hỏi trực tiếp đối tượng phỏng vấn mức sẵn lòng chi trả (WTP) hoặc mức sẵn lòng chấp nhận (WTA) của họ cho việc cải thiện tình trạng môi trường hay duy trì, bảo tồn một loài động thực vật. Tuy CVM là phương pháp còn có nhiều hạn chế nhưng nó vẫn là phương pháp thuận tiện và được nhiều nước phát triển áp dụng để tính toán.
Chương II. HIỆN TRẠNG VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT,
TỈNH NGHỆ AN
Vườn Quốc Gia Pù Mát được chuyển hạng từ Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát theo quyết định 174/QĐ/TTg ngày 08/11/2001 của Thủ tướng chính phủ. Diện tích khu bảo vệ nghiêm ngặt được phê duyệt là 91.133ha. Ở độ cao từ 200-1841m địa hình chia cắt mạnh, có đỉnh cao nhất là đỉnh Pù Mát. Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm trong khu vực sinh thái Bắc Trường Sơn, nằm về phía Tây Nam tỉnh Nghệ An dọc theo biên giới Việt-Lào, đây là khu vực có tính đa dạng cao nhất trên dãy Trường Sơn và là nơi đã xác định là nơi phân bố của nhiều loại động vật quý hiếm.
2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Vườn Quốc Gia Pù Mát
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Nghệ An thuộc địa phận của ba huyện Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương.
Từ 18o46’ đến 19o12’vĩ Bắc
Từ 104o24’ đến 104o56’ kinh Đông
Ranh giới của Vườn được xác định:
Phía Đông - Bắc giáp các xã : Lạng Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Môn Sơn huyện Con Cuông.
Phía Tây - Nam : giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Phía Đông - Nam giáp các xã : Phúc Sơn, Hội Sơn huyện Anh Sơn.
Phía Tây - Nam giáp các xã : Tam Hợp, Tam Quang, Tam Đình huyện Tương Dương.
Hình 2.1 Vị trí địa lý Vườn Quốc Gia Pù Mát
2.1.1.2. Địa hình
Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm trên sườn Đông ở phía Bắc của dãy Trường Sơn.
Độ cao biến động của rừng Pù Mát là từ 200-1.814m trong đó có đỉnh Pù Mát cao nhất với 1.814m, là đỉnh nằm ở phía Nam của Vườn Quốc Gia sát giữa biên giới Việt Lào; còn lại 90% diện tích của Vườn Quốc Gia nằm dưới 1000m.
Vườn Quốc Gia có địa hình dốc núi đá vôi và có nhiều suối sâu, vực thẳm giáp với biên giới Việt-Lào. Địa hình hiểm trở này đã cản trở việc chặt phá rừng trên quy mô lớn và vận chuyển gỗ lậu qua các con sông (Grieser Johns, 2000).
2.1.1.3. Hệ thống sông ngòi, thác nước
Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm trong lưu vực của 4 con sông chính là Khe Thơi, Khe Bu, Khe Choang, và Khe Khang. Cả 4 con sông này đều đổ vào sông Cả chảy từ hướng Tây sang Đông qua một vùng thung lũng rộng ở phía Bắc Vườn Quốc Gia.
Hiện hệ thống sông ngòi ở đây hầu như vẫn giữ được tính nguyên sơ của nó, ít bị tác động của con người. Nhưng sông Giăng vẫn là con sông chính được nhắc đến khi tới Vườn Quốc Gia Pù Mát. Hàng năm, con sông này vẫn cung cấp nước, thực phẩm cho người dân nơi đây, đặc biệt là món cá Mát sông Giăng.
Ngoài ra, Vườn Quốc Gia Pù Mát còn có nhiều thác nước đẹp đến hùng vĩ tiêu biểu như thác Khe Kèm cách thị trấn Con Cuông khoảng hơn 15km, hay như suối Nậm Mọc, đập Phà Lài, và nhiều thác nước đẹp khác nữa.
Tất cả đã tạo nên một hệ sinh thái đặc biệt hiếm có bậc nhất ở Việt Nam.
2.1.1.4. Khí hậu
Vườn Quốc Gia Pù Mát là nơi mà hiếm nơi nào giữ được vẻ gần như nguyên sơ của nó. Hầu như bốn mùa: Xuân, hè, thu, đông nhiệt độ ở đây ổn định ở mức khoảng từ 20-22oC.
Kiểu khí hậu ở đây là khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại động thực vật, và là nơi trú ẩn của nhiều loại động vật mà chúng vẫn là con số bí ẩn.
2.1.1.5. Phân khu bảo tồn nghiêm ngặt
Tổng diện tích của Vườn Quốc Gia Pù Mát là 91.113ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 89.517ha, phân khu phục hồi sinh thái là 1.596ha. Vùng đệm của Vườn Quốc Gia Pù Mát có diện tích 86.000ha.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Dân cư
Toàn bộ huyện Con Cuông có 13 xã và thị trấn với hơn 68.000 nhân khẩu gồm 4 dân tộc chính là Thái, Đan Lai (Thổ), Kinh, Hoa cùng sinh sống. Mặc dù, tập quán sinh hoạt của các dân tộc khác nhau nhưng họ chung sống rất đoàn kết. Do vị trí địa lý, điều kiện sống của họ còn gặp nhiều khó khăn nên đa số đang được hưởng trợ cấp từ chương trình 135 cho các vùng sâu, vùng xa. Chiếm đa số dân cư sinh sống trong các cùng lõi của Vườn Quốc Gia Pù Mát là người Thái với tập tục văn hoá, tín ngưỡng lâu đời; có những lễ hội gắn liền với mùa bội thu và sản xuất nông nghiệp.
Chiếm số ít trong thành phần dân tộc là người Kinh và người Đan Lai. Người Kinh chủ yếu tập trung ở thị trấn Con Cuông, hoặc những người từ nơi khác di cư đến. Người Đan Lai chủ yếu tập trung ở 3 bản Cò Phạt, bản Cồn và bản Búng thuộc xã Môn Sơn nằm ở phía Đông Nam của Vườn Quốc gia, họ sống và canh tác ở những nơi đất dốc.
Do được Nhà nước quan tâm nên hiện nay nhiều đối tượng được tiếp cận với điều kiện học tập tốt hơn giúp nâng cao trình độ, nhận thức của người dân dần xoá bỏ những tập tục sản xuất kém hiệu quả, ảnh hưởng đến sự bảo tồn, phát triển rừng và đa dạng sinh học.
2.1.2.2. Nông nghiệp
Đa số người dân xung quanh vùng đệm làm nghề trồng lúa, các loại hoa màu khác như đỗ, ngô, lạc, khoai, sắn…Nhờ được sự quan tâm của Nhà nước và nhiều ngành, hiện tại người dân địa phương nơi đây đã dần tiếp thu được những kĩ thuật canh tác mới, sản xuất theo mùa vụ xoá bỏ những tập tục canh tác cũ, kém hiệu quả. Ngoài ra, người dân còn tham gia chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà,….làm gia tăng kinh tế hộ gia đình.
Xã Môn Sơn là một xã vùng sâu biên giới gồm 12 thôn bản với hơn 8.200 nhân khẩu, thuộc 3 dân tộc Thái, Đan Lai và Kinh. Với chỉ thị 30 của Bộ chính trị năm 1998 về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ra đời, xã Môn Sơn nhờ thực hiện tốt cuộc vận động và tuyên truyền nên đã giúp bà con thay đổi tập tục canh tác cũ, áp dụng đầu tư kỹ thuật vào trồng trọt và chăn nuôi. Hiện nay, mỗi năm người dân thuộc xã đã tiến hành sản xuất 3 vụ/năm, năng suất lúa hàng năm đạt 54-57,8 tạ/ha/vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế xã đạt trên 13% năm.
Ngoài nghề chính của bà con là sản xuất nông nghiệp thì bà con còn tham gia dệt thổ cẩm. Đây là mặt hàng đang ngày càng có chỗ đứng trên thị trường. Thổ cẩm của người Thái đặc biệt nổi tiếng với kiểu dáng, màu sắc và chất lượng rất tốt. Hiện làng nghề dệt thổ cẩm ở 2 xã Môn Sơn và Lục Dạ đang phát triển đóng góp vào kinh tế hộ gia đình của người dân nơi đây.
2.1.2.3. Lâm nghiệp
Do sống gần rừng nên lâm nghiệp cũng là một nguồn thu lớn của người dân thuộc vùng đệm Vườn Quốc Gia Pù Mát. Người dân thường thu được các nguồn lợi từ rừng như gỗ, củi, các loại cây ăn quả trong rừng hay các loại thuốc quý,…Hiện nay, nhờ chính sách giao khoán rừng tận tay người dân nên công tác bảo vệ rừng cũng đỡ khó khăn, người dân lại có thể tham gia trồng rừng và khai thác các nguồn lợi thu được do bán các lâm sản. Đây là nguồn thu tương đối lớn khi rừng trồng được tiến hành khai thác.
2.1.3. Hệ động thực vật
Vườn quốc gia Pù Mát nằm trong khu vực sinh thái Bắc Trường Sơn, thuộc khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An. Đây là một khu bảo tồn đa dạng sinh học đại diện cho hệ sinh thái rừng nhiệt đới và á nhiệt đới điển hình lớn nhất khu vực Bắc Trường Sơn và là nơi đã xác định có sự phân bố của nhiều loại động, thực vật quý hiếm, trong đó phải kể đến những loài mới được khoa học phát hiện trong những năm 90 của thế kỷ XX.
Trong khuôn khổ của dự án do Liên minh Châu Âu tài trợ có tên ”Lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên tỉnh Nghệ An” (SFNC), hàng loạt điều tra cơ bản về đa dạng sinh học đã được tiến hành tại Vườn Quốc Gia Pù Mát trong các năm 1998 và 1999 (Grieser Johns, 2000). Các đợt điều tra này được xây dựng trên cơ sở các nghiên cứu trước đó của Viện Điều tra quy hoạch rừng (Anon. 1993a) và Frontier - Việt Nam (Kemp et al. 1995)
2.1.3.1. Động vật
Kết quả khảo sát các năm 1993,1994,1998,1999 của các nhà khoa học trong và ngoài nước ở Vườn Quốc Gia Pù Mát đã thống kê được 939 loài động vật thuộc các nhóm phân loại khác nhau ( thú, chim, bò sát, lưỡng cư, cá, bướm ngày và bướm đêm).
Bảng 2.1 Danh mục các loài động vật ở Pù Mát
Lớp
Số bộ
Số họ
Số loài
Thú
12
29
132
Chim
15
46
287
Bò sát
2
15
48
Lưỡng cư
1
7
22
Cá
5
14
51
Bướm ngày
1
11
305
Bướm đêm
-
2
94
Cộng
36
124
939
Nguồn: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 4/2004.
Vườn Quốc Gia Pù Mát có tính đặc biệt quan trọng bởi hệ động thực vật đa dạng có tính đặc hữu rất cao.Trong số đó có những loài đặc trưng như Chào mào (Sus bocculenus), voọc đen ( Trachypithecus francoisi), Sao La ( Pseudoryx nghetinhensis), mang lớn (Megamuntiacus Vuquangensis), mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis), Chà vá chân nâu (Pygatherix nemaeus), vượn má vàng (Hylobates leucogenys), thỏ vằn (Nesolagus sp), cầy vằn (chrotogale owstoni), trĩ sao (Rheinordia ocellate), khướu mỏ dài (Jaboulleia danjoui).
Bảng 2.2 Nhóm động vật quý hiếm ở Pù Mát
Lớp
Sách đỏ Việt Nam năm 1992
IUCN 1996
E
V
R
T
Cộng
Thú
13
19
7
1
40
31
Chim
1
-
3
8
12
24
Bò sát
1
9
1
5
16
4
Lưỡng thê
-
-
1
2
3
7
Cá
-
5
1
-
6
-
Cộng
15
33
13
16
77
62
Nguồn: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số4/2004
Thành phần và số lượng động vật quý hiếm ở Pù Mát khá cao, ít nhất hiện nay có 77 loại động vật đã ghi vào sách đỏ Việt Nam và 62 loài ở mức độ toàn cầu trong danh lục đỏ của IUCN 1996.
Đặc biệt quan trọng là quần thể của một số loài chim, thú lớn thực sự có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam và trên thế giới nhưng vẫn có khả năng bảo tồn và phát triển trong quá trình quản lý và bảo vệ Vườn Quốc Gia Pù Mát. Đó là voi (Elephas maximus), Sao La (Pseudoryx nghetinhensis), hổ (Panthera tigris), bò tót (Bos gaurus), khỉ đuôi lợn (Macana nemestrina), trĩ sao (Rheinardia ocellata).
2.1.3.2. Thực vật
- Thành phần loài: Hệ thực vật ở Vườn Quốc Gia Pù Mát có số lượng loài khá phong phú với 1.297 loài thuộc 607 chi và 160 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch. Các kết quả ở bảng 2.3 cho ta thấy khu hệ thực vật ở Pù Mát khá phong phú về thành phần loài, nhất là ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta) chiếm 92.91%. Sự phong phú này ngoài yếu tố bản địa, vị trí địa lý thuận lợi đã tạo nên sự du nhập dễ dàng của nhiều luồng thực vật từ các vùng khác nhau. Đó là luồng thực vật Hymalaya-Vân Nam-Quý Châu di cư xuống với các loài đại diện trong nghành thông ( Pinophyta), và các loài lá rộng rụng lá. Luồng thực vật Hymalaya-Indonesia từ phía Nam đi lên với các đại diện thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae). Luồng thực vật India-Myanmar từ phía Tây di cư sang với các đại diện thuộc họ Tử Vi (Lythraceae), Bàng ( Combretaceae).
Thảm thực vật phân bố rộng nhất ở Vườn Quốc Gia là rừng thường xanh đất thấp. Đặc biệt, ở Vườn Quốc Gia Pù Mát, khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam- Nam Trung Hoa chiếm một tỷ trọng lớn nhất. Trong số 160 họ thực vật tìm thấy có tới 40 họ trên 10 loài. Họ cà phê Rubiaceae phong phú hơn cả (92 loài) tiếp đến họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) 67 loài, họ Re ( Lauraceae) 58 loài, họ Dẻ (Fagaceae), họ Dâu Tằm (Moraceae) 42 loài, họ Cam (Rutaceae), họ Lan (Orchidaceae) 31 loài, họ Đậu (Fabaceae) 30 loài…Đặc biệt có tới 22 họ chỉ có 1 chi với 1 loài duy nhất.
Bảng 2.3 Danh mục thực vật có mạch ở Vườn Quốc Gia Pù mát
Ngành thực vật
Số chi
Số họ
Số loài
Ngành lá thông
(Psilotophyta)
1
1
1
Ngành thông đất
(Lycopodiophyta)
2
3
7
Ngành Mộc Tặc
(Equicetophyta)
1
1
1
Ngành Dương Xỉ
(Polypodiophyta)
16
45
74
Ngành Thông
(Pinophyta)
5
8
9
Ngành Ngọc Lan
(Magnolophytal)
135
547
1205
Lớp Ngọc Lan
Magnolophysida)
115
463
1051
Lớp hành
(Liliopsida)
20
86
154
Tổng cộng
160
607
1297
Nguồn: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 4/2004
Các loài thực vật quý hiếm đang có nguy cơ bị tiêu diệt: Trong số 1.297 loài đã được ghi nhận thì có 37 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam, trong đó, 1 loài cấp E, 12 loài sắp nguy cấp (V), 9 loài hiếm R, 3 loài bị đe doạ T và 20 loài không biết chính xác. Có 20 được liệt kê trong danh mục đỏ của IUCN (2002) và gồm 1 loài cấp E, 3 loài cấp V và 16 loài cấp N.
- Tài nguyên thực vật: Bước đầu đã thống kê được 920 loài thực vật thuộc 7 nhóm công dụng:
+ Nhóm cây gỗ (W): có 330 loài cho gỗ thuộc ngành Ngọc Lan, ngành Thông chiếm 24,44% tổng loài được ghi nhận. Đặc biệt ở đây có nhiều loài quý hiếm như Pơmu (Fokinea hodginsii), sa mộc quế phong ( Cunninghamia Konishii), giáng hương quả to (Pterocarpus macrocarpus), gụ lau ( Sindora tonkinensis), lát hoa ( Chukrasia tabuleris), ..Nhóm gỗ tứ thiết như đinh ( Markhamia Stipulata), sến mật ( Madhuca pasquien) dùng làm ván sàn, bệ máy, tàu thuyền. Nhiều loài cây cung cấp gỗ xây dựng, làm đồ gia dụng rất tốt như các loài trong họ Ngọc Lan, họ Xoan, họ Dẻ và đặc biệt là họ Dầu. Các nhóm công dụng khác như cung cấp vật liệu điêu khắc, làm đệm, sản xuất các văn phòng phẩm cũng có nhiều loại.
+ Nhóm cây thuốc (M): Đã thống kê được 197 loài thực vật dùng làm thuốc ( chiếm 15,2%tổng số loài) thuộc 83 họ thực vật khác nhau. Các họ có nhiều loài cây thuốc là: họ Cà phê (Rubiaceae) 17 loài, họ Cúc (Asteraceae) 13 loài, họ Thầu Dầu (Euphorbiaceae) 10 loài, họ Cam (Rubiaceae) 9 loài, họ Đơn Nem (Myrsinaceae) 7 loài.
Tuy số lượng họ có nhiều loài lớn nhưng trữ lượng của các loài lại không cao. Một số loài có triển vọng là Chân chim (Scheffera octophylla), Hà thủ ô trắng (Streptocaulon griffithii), thường sơn ( Dichroa febrifuga), củ mài ( Dioscorea persimilis), thổ phục linh ( Smilax glabra), thiên niên kiện ( Homamena occulta). Một số loài cây thuốc rất quý nhưng rất hiếm như hoàng nàn (Strychnos Wallichii), hoàng đằng (Fibraurea recsa), ba kích (Morinda officinalis), bình vôi (Stephania rottunda),..
+ Nhóm cây cảnh (O): Có 74 loài chiếm 5,4% tổng số loài trong vùng, phần lớn các loài thuộc dạng thân thảo hoặc thân bụi. Đặc biệt các loài như phong lan (Orchdaceae), cau dừa (Areacaceae), tuế ( cycadaceae) có giá trị kinh tế cao.
+ Nhóm cây làm thực phẩm (F): Thống kê cho biết nhóm cây thực phẩm có 118 loài thuộc 57 họ, chiếm 9,1% tổng số loài, trong số đó có nhiều loài cho quả, hạt, rau ăn rất ngon như cà ổi Bắc Giang (Castanopsis boisii), đại hái (Hodgsonia macrocarpa), bứa (Garcinia spp), vả ( Ficus auricularia), củ mài (Dioscorea spp), rau sắng (Melientha suavis), rau bò khai (Erythropalum Scandens), các loài măng tre nứa. Tuy thành phần các loài thực phẩm khá phong phú nhưng hiện chúng đang phải đối mặt với áp lực bị khai thác quá mức của cộng đồng địa phương. Ngoài ra, thực vật Vườn Quốc Gia Pù Mát còn cung cấp nhiều loại nguyên liệu khác như song mây, lá nón, lá cọ, sợi, tre, dầu nhựa,… để làm hàng gia dụng và xuất khẩu.
2.2. Những thông tin chung về loài Sao La
Sao La là loại động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng trên toàn thế giới. Hiện Sao La chỉ tồn tại duy nhất ở các khu rừng của dãy Trường Sơn. Tầm quan trọng của Sao La đối với đa dạng sinh học được ông Mike Baltzer, Giám đốc bảo tồn của WWF Chương trình Đông Dương đánh giá “Sao La là linh hồn của dãy Trường Sơn”.
2.2.1. Đặc điểm hình thái
Sao La (Pseudoryx nghetinhensis) thuộc họ trâu bò Bovidae, bộ ngón chẵn Artioductyla.
Sao La là loài động vật cỡ lớn, thân dài 1.300-1.500mm, đuôi dài 130-170mm (kể cả túm lông đuôi), tai dài 9-10mm, bàn chân sau dài 32mm. Trọng lượng cơ thể từ 80-120kg. Da màu nâu sẫm, có những vạch trắng hoặc đen nhạt. Mặt nâu sẫm hay đỏ nhạt, cả đực và cái đều có các sọc đen và trắng ở dưới mắt, nhiều vạch trắng ở cằm và cổ. Mặt sau tai màu nâu, mặt trước tai màu trắng nhạt, hóp tai có túm lông dài màu trắng. Phần lưng màu nâu, hai bên sườn có vạch màu trắng nhạt phân cách lưng với các chân màu đen nhạt. Lông mềm mượt với các vòng xoắn ở giữa mũi, hai bên cổ và giữa hai vai. Đuôi có túm lông đen dài 50-70mm.
Ngay trên móng guốc có vành trắng ở cả 4 chân. Cả đực và cái đều có sừng. Sừng dài 400-500mm, gần như thẳng không phân nhánh, khoảng cách hai guốc sừng 38-40mm; khoảng cách hai nút sừng 110-205mm, mút sừng nhọn nhẵn bóng, lõi sừng kéo dài tới mút sừng.
2.2.2. Phân bố
Sao La được phát hiện đầu tiên trên thế giới tại Việt Nam vào tháng 5 năm 1992 trong một chuyến khảo sát được Bộ Lâm Nghiệp Việt Nam và Quỹ bảo tồn động vật hoang dã thế giới (WWF) trong Vườn Quốc Gia Pù Mát. Việc khám phá ra loài Sao La này đã gây chấn động trên toàn thế giới vì giới khoa học đã loại trừ khả năng tìm thấy một loài thú lớn vào cuối thế kỷ XX. Hiện nay, Sao La được tìm thấy tại các nơi trong phạm vi của rừng Trường Sơn thuộc các tỉnh Nghệ An (Kỳ Sơn, Quế Phong, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Thanh Chương), Hà Tĩnh (Vũ Quang), Thừa Thiên-Huế (A Lưới, Phú Lộc, Nam Đông), Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Bình (Minh Hoá) và 3 tỉnh thuộc Lào. Mãi năm 1996 người ta mới bắt và chụp được ảnh một con Sao La còn sống ở Lào. Tháng 10 năm 1998 các nhà khoa học đã chụp được ảnh của Sao La trong tự nhiên ở Vườn Quốc Gia Pù Mát, Nghệ An.
Phân bố Sao La ở Vườn Quốc Gia Pù Mát: Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học của các tổ chức trong và ngoài nước từ năm 1993 đều đã khẳng định sự có mặt của Sao La ở Vườn Quốc Gia Pù Mát, cụ thể:
+ 5 bức ảnh chụp Sao La qua chương trình bẫy ảnh tại suối khoáng chất ở thung lũng Khe Bống (toạ độ UTM 0470800, 2080600, ở độ cao 400m) trong các tháng 10 và tháng 11 năm 1998.
Tại khu khe Chát và khe Bống các chương trình thực địa từ năm 1999 đến nay đều ghi nhận được dấu chân Sao La.
+Phát hiện dấu chân khoảng 4 ngày một lần ở các sườn đồi có độ dốc lớn trong thung lũng Khe Bống từ 19-21 tháng 6 năm 1998 và một nhóm dấu chân của hai cá thể khác nhau cũng được ghi nhận tại khu vực này trong ngày 16/6 năm 1998 (Barney Long và Đỗ Tước,1999).
+Tại một khe cạn có toạ độ (UMT 0486155, 2079750)trên sườn núi có nhiều đá lộ đầu, độ dốc lớn ở khu vực Khe Poong-Khe Bống cũng phát hiện thấy dấu chân Sao La trong thời gian từ ngày 2-13 tháng 4 năm 2001 ( Phạm Nhật năm 2001). Ngoài ra, toạ độ (UMT0487177,2080404) trong thời gian từ ngày 3-12 tháng 4 năm 2002 cũng phát hiện một dấu chân có kích thước rộng 6,7cm; sâu 3,3cm. Vào ngày 9/10/2003 phát hiện một dấu chân còn mới có kích thước dài 4,5cm; rộng 4,2cm tại khu vực Khe Tùn toạ độ 0473061, 2093025 (một nhánh nhỏ của Khe Chát) thuộc khu vực Khe Choăng; một dấu chân khác tại khu vực này có kích thước dài 6,5cm; rộng 5,5cm được ghi lại vào ngày 29/6/2003; ngày 9/7/2003 đã phát hiện một dấu chân có kích thước dài 7cm, rộng 7cm tại khu vực Khe Bống. Mới đây tại khu vực Khe Yên cũng phát hiện được một dấu chân có kích thước dài 6cm, rộng 5,5cm ngày 19/7/2003…Vì Sao La mới chỉ được ghi nhận ở độ cao từ 200-500m còn độ cao trên 600m chưa được ghi nhận.Ước tính số lượng cá thể Sao La còn tồn tại rất ít, tại khu vực Vườn Quốc Gia Pù Mát không quá 100 cá thể trong tổng thể số lượng quần thể Sao La khoảng ít hơn 1000 con phân bố tại 6 tỉnh Việt Nam và 3 tỉnh thuộc Lào trong khu vực dãy Trường Sơn.
2.2.3. Nơi sống, lãnh thổ
Nơi sống của Sao La là rừng thường xanh nguyên sinh hoặc đã bị khai thác nhẹ.
Sao La sống chủ yếu ở rừng núi đất, trên sườn dốc có nhiều đá lộ đầu, đầu nguồn các khe suối nhỏ nơi có các suối khoáng chất, rất ít thấy dấu hiệu Sao La trên các con đường mòn trong rừng.
Do cấu tạo cơ thể với các chân khoẻ thích hợp cho việc leo dốc nên phần lớn thời gian Sao La di chuyển trên các dốc đá núi, ít bị các loài động vật khác làm phiền.
2.2.4. Vùng sống và tính lãnh thổ
Do đặc tính sống riêng lẻ nên vùng sống của Sao La rất rộng và phụ thuộc vào nguồn thức ăn ưa thích của Sao La.
2.2.5. Tập tính sinh hoạt
Thời gian hoạt động trong ngày thích hợp nhất của Sao La là chiều tà hoặc buổi sáng sớm đôi khi đi kiếm ăn cả ban đêm. Loài động vật này thường sống đơn lẻ, di chuyển và kiếm ăn theo một hướng cố định khoảng 2-3 ngày sau mới quay lại chỗ cũ, chạy nhanh đặc biệt ở chỗ có địa hình hiểm trở.
Sao La là loài động vật lớn nhưng nhút nhát, chúng ít xuất hiện những nơi có mặt con người hay đông các loài động vật khác.
Loài Sao La khác với các loài động vật khác, nó chỉ sống được trong môi trường tự nhiên, nếu bắt chúng sống trong điều kiện nuôi nhốt thì chúng sẽ không thể sống được cho dù được chăm sóc đặc biệt. Điều này chứng tỏ Sao La và hệ sinh thái tự nhiên rừng luôn gắn kết cộng sinh với nhau.
2.2.6. Thức ăn và nhu cầu ăn uống
Đã xác định được 39 loài thực vật là thức ăn của Sao La ở Vườn Quốc Gia Pù Mát. Thức ăn của Sao La rất phong phú, chúng ăn các loại thuộc ngành Dương Xỉ, 30 loài thuộc 19 họ của lớp 2 lá mầm; 4 loài thuộc 4 họ của lớp 1 lá mầm ngành Ngọc Lan là thức ăn là thức ăn của Sao La; trong đó cỏ sữa lá lớn là loại thực vật duy nhất Sao La mới ăn.
Theo ông Đỗ Tước ( nhà động vật học thuộc Viện điều tra quy hoạch rừng) cho biết Sao La non 5-7 tháng tuổi đã sử dụng 57 loại thực vật làm thức ăn.
2.2.7. Sinh sản, sinh trưởng và phát triển
Do ít được quan sát thấy loài Sao La này, cũng như loài không thể sống được trong điều kiện nuôi nhốt cho nên việc nghiên cứu các đặc tính liên quan đến chúng hiện vẫn chưa cụ thể và chi tiết.
Năm 1996 nhờ tìm được xác chết của một con Sao La lớn , có độ tuổi được xác định khoảng 8-9 tuổi, nên có thể xác định thời gian sinh đẻ của Sao La là trong tháng 5 hay đầu tháng 6.
2.2.8. Các mối đe doạ đối với Sao La
Với đặc tính chỉ sinh sống ở những nơi dốc núi đá hiểm trở thì đó vừa là nơi tránh kẻ thù nhưng đó cũng là nơi tiềm ẩn những mối đe doạ. Sao La thường có tập quán sinh hoạt là kiếm ăn vào chiều tà, sáng sớm hoặc cả vào ban đêm nên khi kiếm ăn Sao La có thể gặp tình huống nguy hiểm như trượt chân ngã. Nếu tình huống này xảy ra thì xác suất Sao La bị chết là rất lớn. Thường những vùng núi đá vôi rất trống trải khó nguỵ trang nên khi kiếm ăn Sao La rất dễ bị phát hiện. Sao La non rất dễ gặp nguy hiểm khi bị các loài động vật khác phát hiện như các loài chim lớn hay đại bàng.
Đó là những mối đe doạ mang tính tự nhiên nhưng Sao La cũng phải đối mặt với những mối đe doạ mang tính khách quan khác đến từ phía con người. Theo kết quả thu thập được thì các mối đe doạ lớn đối với Sao La là bị săn bắn, do bị chia cắt sinh cảnh, do tập tục đốt rừng làm nương rẫy của bà con, và cả do công tác bảo tồn,…
2.3. Các áp lực và thách thức đối với Vườn Quốc Gia
Vườn Quốc Gia Pù Mát là khu rừng gần như nguyên sinh, đa dạng sinh học rất cao, còn tồn tại nhiều loại gỗ quý hiếm. Vì vậy, Pù Mát là một trong những mục tiêu khai thác của bọn lâm tặc.Việc khai thác gỗ trái phép với quy mô vẫn đang diễn ra dọc các thung lũng bờ sông trong Vườn Quốc Gia, tại một số khu vực việc khai thác gỗ đang làm thay đổi cấu trúc rừng và đe doạ nghiêm trọng đến quần thể của một số loại cây gỗ quan trọng, kể cả các loài bị đe doạ tuyệt chủng trên toàn cầu như Pơ mu và các loại cây họ dầu. Việc khai thác phong lan và song mây cũng đe doạ xoá sổ các loài này trong Vườn Quốc Gia (Grieser Johns,2000).
Mối đe dọa lớn nhất đối với quần thể các loài động vật trong Vườn Quốc Gia, đặc biệt là các loài khỉ, rùa, gấu, rắn là tình trạng săn bắt cung cấp cho hoạt động buôn bán động vật hoang dã (SFNC/TRAFFIC 1999, SFNC 2003b).
Đánh bắt cá bên trong vùng đệm của Vườn Quốc Gia cũng tiềm ẩn mối đe doạ đến sản lượng cá. Cá trong Vườn Quốc Gia là nguồn cung cấp Protein chính cho các làng ở khu vực vùng đệm (SFNC, 2001).
Các mối đe doạ đến đa dạng sinh học ở Vườn Quốc Gia bao gồm phá rừng làm nương rẫy và khai thác vàng. Phá rừng làm nương rẫy thật sự nghiêm trọng ở phân khu Khe Khặng của Vườn Quốc Gia do sư di chuyển ngày càng sâu của dân cư vào trong khu vực Vườn Quốc Gia.
Khai thác vàng trái phép đang ngày càng được nhâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111385.doc