MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. 1
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài: 2
2.1. Ý nghĩa khoa học: 2
2.2 . Ý nghĩa thực tiễn: 2
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: 2
3.1. Mục đích: 2
3.2. Đối tượng: 2
3.3. Phạm vi nghiên cứu: 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5 . Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết: 3
5.1. Giả thuyết nghiên cứu: 3
5.2. Khung lý thuyết: 3
PHẦN THỨ NHẤT 5
VAI TRÒ CỦA CSXH ĐỐI VỐI ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH THƯƠNG BINH 5
1.1. Khái niệm: 5
1.2. Các chính sách xã hội đối với gia đình thương binh 6
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá đời sống gia đình thương binh 10
1.4. Vai trò của chính sách xã hội đối với đời sống gia đình thương binh. 11
PHẦN THỨ HAI 12
phân tích thực trạng Sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh huyện Thanh Hà - hải dương
2.1. Đặc điểm của huyện Thanh Hà ảnh hưởng đến đời sống gia đình thương binh. 12
2.3. Phân tích một số chính sách xã hội tác động đến gia đình thương binh huyện Thanh Hà. 21
2.3.3. Chế độ ưu đãi về y tế, chăm sóc sức khỏe cho thương binh. 23
2.4. Phân tích thực trạng đời sống gia đình thương binh huyện Thanh Hà dưới sự tác động của chính sách xã hội. 27
PHẦN THỨ BA 41
Những giải pháp tăng cường sự tác động của chính sách xã hội đối với gia đình thương binh huyện Thanh Hà 41
I. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về ưu đãi XH đối với GĐTB 41
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về ưu đãi xã hội đối với GĐTB. 43
2. Làm tốt công tác TB là thể hiện tình cảm trong sáng của Đảng, thể hiện đạo lý của dân tộc ta. 43
3. Xã hội hóa việc chăm sóc các TB bằng phong trào quần chúng. 44
4. Chính sách ưu đãi xã hội đối với GĐTB. 45
II. Các giải pháp tăng cường sự tác động của chính sách xã hội đối với GĐTB huyện Thanh Hà. 46
1. Xây dựng các trung tâm phục hồi chức năng. 46
2. Tăng cường kinh phí xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người có công và con em họ. 47
3. Phát động phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với người có công và gia đình họ. 51
KẾT LUẬN 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1696 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Sự tác động của chính sách xã hội đối với đời sống gia đình thương binh ở huyện Thanh Hà - Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã.
Như vậy công tác thẩm định hồ sơ xét duyệt, giải quyết chính sách ưu đãi đối với TB và gia đình họ được tiến hành nhanh gọn, đảm bảo được quá trình dân chủ, đúng chính sách, ít sai sót, tạo niềm tin đối với nhân dân về chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó còn một số việc chưa làm tốt như: công tác giám định lại mức thương tật cho TB chưa nhiều so với mong muốn của họ.
2.3.4. Chính sách ưu đãi về giáo dục đối với con thương binh.
Chính sách ưu đãi về nhà ở là một trong những chính sách quan trọng mà con em của GĐCS nói chung và con em GĐTB nói riêng. Trong thực tế thì GĐTB gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế cũng như những điều kiện khác nên việc học hành, giáo dục cho con em TB được xã hội rất quan tâm. Các chế độ ưu đãi giáo dục và đào tạo với con TB luôn được sửa đổi cho phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước. Trong chế độ đãi ngộ về giáo dục và đào tạo đối với con TB, căn cứ vào tỷ lệ thương tật của TB và cấp học khác nhau để có mức độ ưu đãi cho phù hợp. Theo quy định, đối với TB bị MSLĐ từ 61% trở lên thì con em họ được miễn học phí và các khoản học phí khác, giảm 50% học phí và các khoản đóng góp khác cho con em TB MSLĐ từ 21% -60%. Ngoài chế độ miễn giảm học phí con em TB bị MSLĐ từ 81% trở lên còn được trợ cấp 1 lần 1 khoản tiền tuỳ theo cấp học với các mức: 60.000đồng đối với học sinh khi học trường Mầm non, 90.000đồng với học sinh học Tiểu học, 120. 000đồng đối với học sinh khi đi học trường PTCS hoặc trường PTTH. Ngoài ra, học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách đang học các trường đào tạo của Nhà nước: Đại học, Cao đẳng, THCN, Dạy nghề, Dự bị đại học, Dân tộc nội trú mà không hưởng lương hoặc sinh hoạt phí được ưu tiên trong xét tuyển, được miễn giảm học phí, được trợ cấp hàng tháng với mức 180.000đ/tháng con TB MSLĐ từ 61% -80%, trợ cấp 220.000đ/tháng cho conTB mất sức lao động từ 81% trở lên. Theo số liệu phòng NV-LĐTB & XH ta có:
Bảng 2.6. Phân loại con em thương binh theo học ở các trường học.
Tên trường
Số người
Tỷ lệ (%)
Đại học
11
8,2
Cao đẳng
21
15,67
THCN
35
26,1
ĐTDN
67
50,0
Tổng
134
100
( Nguồn: Điều tra tại phòng NV-LĐTB&XH huyện Thanh Hà ).
Thông qua bảng số liệu 2.6 trên thì số con em TB đi học Đại học chiếm 8,2%; Cao đẳng 15,67%; THCN chiếm 26,1% và số con TB đi học trong các trường ĐTDN chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số con em TB đi học ở các trường là 50%. Qua đây có thể thấy chính sách ưu đãi đối với giáo dục có vai trò rất lớn tạo điều kiện cho con em TB có thể theo học trong các trường. Đó chính là con đường tiến lên CNXH, làm chủ cuộc sống của con em TB góp phần đảm bảo cho cuộc sống sau này của gia đình họ được tốt hơn.
Trước đây, số con em TB thi đỗ vào các trường Đại học và Cao đẳng là rất ít, nhưng những năm gần đây do việc thực hiện tốt chính sách ưu đãi trong giáo dục và do mức thu nhập cũng như nhận thức của người dân ngày càng cao lên số lượng con em TB theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Chính sự vươn lên làm chủ tri thức, làm chủ khoa học này của họ đã giúp cho họ có nhiều cơ hội tìm được những việc làm tốt có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
2.3.5. Chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Trong những năm qua toàn huyện đã thực hiện tốt về chính sách miễn giảm thuế sử dụng thuế nông nghiệp cho các hộ gia đình.
Bảng 2.7 Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Mức độ miễn, giảm thuế đất nông nghiệp
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Được miễn
14
28
Chỉ giảm một phần
36
72
Không giảm
0
0
Tổng
50
100
( Nguồn: Số liệu khảo sát huyện Thanh Hà ).
Từ số liệu trong bảng 2.7 cho thấy : Trong tổng số 50 hộ được miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp thì có 14 hộ GĐTB được miễn, 36 hộ chỉ được giảm một phần và không có hộ nào là không được giảm cả. Như vậy là 100% các hộ GĐTB đều được miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Chính sách miễn giảm này đã góp phần tạo điều kiện cho các hộ chính sách vươn lên làm giàu, tạo cho họ có điều kiện mượn đất, để nâng cao và đảm bảo về đời sống cho các hộ GĐTB .
2.4. Phân tích thực trạng đời sống gia đình thương binh huyện Thanh Hà dưới sự tác động của chính sách xã hội.
Với dân số trong huyện hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp, đời sống của người nông dân trong quá trình đổi mới ngày càng được nâng cao, nhưng bên cạnh đó lại gặp không ít những khó khăn trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Với sự phát triển của xã hội thì các CSXH cũng có những thay đổi cho phù hợp vì CSXH có tác động rất lớn, quan trọng tới đời sống của GDTB góp phần quan trọng trong việc đảm bảo và ổn định đời sống vật chất cũng như tinh thần của các gia đình chính sách. Chúng ta đời đời nhớ ơn những người đã hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ Quốc. Chính vì vậy, việc quan tâm chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần đối với TB và gia đình họ là trách nhiệm của Nhà nước và của toàn xã hội. Để khẳng định rõ điều này, chúng ta cùng tìm hiểu sự tác động cụ thể của CSXH đến đời sống vật chất, tinh thần và việc giáo dục con cái đối với TB huyện Thanh Hà qua khảo sát tại một số hộ GĐTB.
2.4.1. Phân tích thực trạng đời sống vật chất của gia đình thương binh huyện Thanh Hà dưới sự tác động của chính sách xã hội.
Như chúng ta đã biết, đất nước đang ngày càng đổi mới thì đời sống vật chất của toàn dân ngày càng ổn định và đang từng bước được nâng cao, đặc biệt là GĐTB . Để đảm bảo cuộc sống cho TB và để bù đắp một phần những hy sinh mất mát của họ, CSXH của Đảng và Nhà nước đã và đang được thực hiện một cách sâu rộng và đồng bộ trong toàn huyện. Những CSXH đã tác động rất quan trọng đên đời sống vật chất của TB. Vì với những khoản trợ cấp ưu đãi hàng tháng sẽ giúp cho các hộ GĐCS tăng thêm thu nhập, đời sống vật chất sẽ được cải thiện dần dần. Trong đó thì thu nhập là một trong những tiêu trí quan trọng, cơ bản để đánh giá mức sống của từng hộ GĐTB, dưới đây là những con số về nguồn thu nhập chính của các GĐTB qua khảo sát ở huyện Thanh Hà.
Bảng 2.8. Thu nhập chính của gia đình thương binh.
Nguồn thu nhập chính
Số hộ
Tỷ lệ(%)
Nông nghiệp
23
46
Thủ công nghiệp
4
8
Buôn bán, dịch vụ
2
4
Lương, phụ cấp
13
26
Con cái hỗ trợ
5
10
Khác
3
6
Tổng
50
100
( Nguồn: Số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà)
Nhìn vào số liệu bảng 2.8 trên thì: Cơ cấu về ngành nghề mà các GĐTB tham gia để tạo nguồn thu nhập chính là rất khác nhau. Số lượng 23 hộ gia đình có thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp chiếm 46% đây là một tỷ lệ cao tương đối trong tổng số. Số gia đình có nguồn thu nhập chính từ lương, phụ cấp cũng chiếm tới 26 %, 10% là số GĐTB có nguồn thu nhập chính từ sự hỗ trợ của con cái. Bởi vì, nhiều TB nay tuổi đã cao, sức đã yếu, TB nặng bị viết thương cũ tái phát nên ốm đau thương xuyên nên khó có điều kiện tham gia nhiều vào các hoạt động kinh tế mà chủ yếu là chỉ trông vào trợ cấp của Nhà nước và sự hỗ trợ của con cái. Còn trong lĩnh vực sản xuất thủ công nghiệp có 8% số hộ tham gia nhưng thu nhập đem lại lại không cao, chủ yếu từ thêu, đan, xay sát gạo, may quần áo...buôn bán dịch vụ là ngành đem lại thu nhập chính mà lại chỉ cho 2 gia đình trong tổng số 50 hộ chiếm 4%, hình thức buôn bán theo quy mô nhỏ và không ổn định, 6% là số hộ gia đình có thu nhập chính từ các nguồn thu nhập khác .
Như vậy, thu nhập của các hộ GĐTB là đa dạng và có nhiều hình thức khác nhau, thu nhập cũng góp phần nào phản ánh được mức sống của gia đình họ.
Bảng 2.9. Mức sống của gia đình thương binh
Mức sống
Số hộ
Tỷ lệ(%)
Khá
9
18
Trung bình
25
50
Khó khăn
16
32
Tổng
50
100
(Nguồn: Số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà)
Từ bảng 2.9 cho ta biết được mức sống của các hộ GĐTB ở huyện Thanh Hà là chưa được cao. Số hộ có mức sống trung bình là 25 hộ chiếm 50% trong tổng số các hộ, đây là những hộ có mức thu nhập từ 400.000-600. 000đ/tháng. Còn số hộ khá chưa nhiều, mới có 9 hộ, chiếm 18% mức thu nhập của gia đình trung bình từ 600.000- 800.000đ/tháng. Nhưng phần lớn những hộ gia đình này ngoài mức chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày họ vẫn còn khả năng để lại nguồn dự trữ. Số hộ có hoàn cảnh đời sống khó khăn cũng chiếm tới 32% trong tổng số 100% số hộ, đây là những hộ có mức thu nhập trung bình từ 200.000- 400.000đ/tháng, nguồn thu nhập này chủ yếu là từ lương, phụ cấp, số tiền này quá ít ỏi nên đã dẫn đến vấn đề chi tiêu trong gia đình gặp nhiều khó khăn, hạn chế nhất là trong thời buổi như hiện nay.
Nhìn chung, mức sống của các GĐTB chưa cao, muốn cải thiện nâng cao mức sống hơn nữa thì các hộ này lại gặp phải những khó khăn trở ngại do thiếu vốn, đất, sức lao động... Qua đây, chúng ta thấy rõ được những khó khăn thường gặp trong hoạt động sản xuất của những hộ GĐTB.
Bảng 2.10. Những khó khăn gia đình thương binh thường găp
Những khó khăn
Số hộ
Tỷ lệ(%)
Thiếu đất
10
20
Thiếu vốn
15
30
Thiếu lao động
10
20
Thiếu công cụ sản xuất
8
16
Thiếu kĩ thuật canh tác
5
10
Khác
2
4
Tổng
50
100
( Nguồn: số liệu khảo sát huyện Thanh Hà ).
Số hộ GĐTB thiếu vốn làm ăn là nhiều nhất có 15 hộ thì chiếm 30% trong tổng số hộ. Nguồn vốn là phương tiện quan trọng không thể thiếu được trong quá trình kinh doanh. Các hộ này vay vốn với mục đích sử dụng cho việc trồng trọt, chăn nuôi, buôn bán...để có thể cải thiện đời sống của gia đình họ . Nhưng hiện nay số hộ gia đình chính sách được vay vốn mới chỉ chiếm 20% trong tổng số dân. Khi vay vốn thì qua tổ trưởng tổ vay vốn với hình thức nhanh gọn, không còn các thủ tục rườm rà như trước nữa. Số hộ gia đình chính sách nghèo thì được ưu tiên với lãi suất thấp hơn.
Thanh Hà là một huyện có dân số đông, diện tích bình quân theo đầu người không cao, số hộ GĐCS thiếu đất để sản xuất là 10 hộ chiếm 20%( thiếu cả đất ở và đất nông nghiệp). ở đây, mỗi người dân bình quân chỉ được 1 sào 15 thước đất cấy lúa. Bây giờ địa phương cũng đã chỉ đạo việc thực hiện giao đất canh tác cho GĐTB để họ tăng gia sản xuất nhưng số này còn quá ít. Với chính sách cho GĐTB ở địa phương mượn đất để sản xuất, để có thể phát triển về mọi mặt làm cho đời sống ngày càng được nâng cao hơn. Do đó, chính quyền địa phương cần tận dụng hết những diện tích đất hoang, chưa sử dụng để đưa vào canh tác giúp cho gia đình chính sách có điều kiện mượn thêm đất. Vì các hộ gia đình này chủ yếu đều làm nông nghiệp nên thiếu đất là khó khăn lớn. Số hộ GĐTB thiếu lao động là 10 hộ chiếm 20% lý do đa số gia đình họ có con đã trưởng thành sống riêng và một số gia đình con còn đang đi học lên không thể tham gia lao động được. 10% số hộ thiếu kỹ thuật canh tác va 16 % số hộ thiếu công cụ sản xuất. Như chúng ta thấy đa số TB khi trở về với cuộc sống do trình độ học vấn thấp nên khó áp dụng thành tưụ khoa học kinh tế vào sản xuất. Vì vậy, rất cần sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc tổ chúc trao đổi kinh nghiệm làm ăn, bồi dưỡng kiến thức là việc làm hết sức thiết thực, hết sức quan trọng tạo điều kiện cho GĐTB có mức thu nhập ổn định. Ngoài ra còn 2 hộ gia đình gặp khó khăn và thiếu thốn về các yếu tố khác trong cuộc sống.
Chính vì vậy, chúng ta thấy được những khó khăn chủ yếu của các hộ GĐTB, chỉ những gia đình này gặp khó khăn thì đã nhận được sự giúp đỡ gì từ chính quyền địa phương, để hiểu rõ hơn tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả sau:
Bảng 2.11. Khi GĐTB khó khăn đã nhận được sự giúp đỡ của
chính quyền địa phương
Nhận được sự giúp đỡ
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Cho mượn thêm đất
4
8
Cho vay vốn
17
34
Hướng dẫn tăng gia sản xuất
8
16
Khác
21
42
Tổng
50
100
(Nguồn: qua khảo sát tại huyện Thanh Hà).
Từ số liệu bảng 2.11 cho ta biết : Những GĐTB khi gặp khó khăn trong cuộc sống thì đã nhận được sự giúp đỡ của chính quyền đoàn thể địa phương tạo điều kiện cho các GĐTB tham gia lao động sản xuất tăng thu nhập để ổn định đời sống gia đình, sự giúp đỡ này có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của họ. Khi gặp phải khó khăn thì 17 hộ trong tổng số 50 hộ đã được vay vốn để phát triển sản xuất, làm kinh tế để cải thiện đời sống. 8 hộ GĐTB đã nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn về kỹ thuật canh tác, trao đổi kinh nghiệm để các hộ này có sự hiểu biết đúng đắn về cuộc sống của mình và khi được áp dụng chúng sẽ mang lại hiệu qủa kinh tế cao. Số hộ nhận được giúp đỡ về nhiều mặt khác có tới 21 hộ, và những hộ được mượn thêm đất để sử dụng mới chỉ có 4 hộ do số đất dư thừa của huyện, xã còn rất ít. Vì vậy, khi các GĐTB gặp khó khăn trong đời sống thì đã nhận được sự giúp đỡ động viên từ Đảng và chính quyền địa phương để tạo niềm tin cho họ đối với các chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước và nhờ sự giúp đỡ ủng hộ mà các GĐTB đã giảm bớt được phần nào khó khăn trong đời sống.
Và thực trạng nhà ở là một trong những tiêu chí để đánh giá thực chất điều kiện đời sống của GĐTB. Những năm gần đây, nhờ có chính sách ưu đãi về nhà ở của nhà nước đối với các đối tượng chính sách lên nhà ở của TB ngày càng được cải thiện. Chính sách ưu đãi về nhà ở có một ý nghĩa thiết thực thể hiện sự quan tâm đến đời sống vật chất của GĐCS. Do đó, tôi đã tiến hành điều tra về thực trạng nhà ở của các hộ GĐTB . Qua đó hiểu được tình trạng và để có được những kiến nghị thiết thực với chính quyền địa phương.
Bảng 2.12. Thực trạng nhà ở của các hộ thương binh
Thực trạng nhà ở
Số hộ
Tỷ lệ(%)
Nhà mái bằng
30
60
Nhà mái ngói
12
24
Nhà cần sửa chữa
8
16
Tổng
50
100
( Nguồn: số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà )
Nhìn vào bảng số liệu 2.11 ta thấy rằng: Còn 8 hộ gia đình có nhà ở cần sửa chữa trong tổng số 50 hộ. Đây là loại nhà mà các cấp các ngành, nhân dân, cùng với bản thân GĐTB cần quyết tâm xoá bỏ, để không còn phải sống trong tình trạng nhà ở bị dột nát, chật chội. Số hộ có nhà mái bằng chiếm tỷ lệ cao với 30 hộ trong tổng số 50 và 12 hộ có nhà mái ngói. Đây là loại nhà cũng tương đối chắc chắn để cho gia đình họ có thể yên tâm ở mỗi khi gặp những bất chắc xảy ra như: mưa, bão... Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao thì vấn đề nhà ở không còn là nhu cầu trú ẩn nữa, mà nó còn là nơi thể hiện và diễn ra các hoạt động trong cuộc sống, là tiêu chí để đánh giá mức sống của từng gia đình và sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc thực hiện chính sách về nhà ở một cách nghiêm túc đã phần nào giảm bớt được những khó khăn trong sinh hoạt của TB và gia đình họ. Chính sách này đã tạo được lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính quyền, tạo niềm vui, phấn khởi cho các đối tượng yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh... Mặt khác, do điều kiện còn hạn chế về nhiều mặt lên sự giúp đỡ chưa được nhiều về kinh phí. Vì vậy, chính quyền địa phương cần quan tâm hơn nữa động viên, giúp đỡ nhau về ngày công trong việc sửa chữa nhà để tình trạng nhà ở của TB ngày càng được cải thiện hơn.
Ngoài ra, tiện nghi sinh hoạt và phương tiện đi lại của GĐTB cũng nhờ sự tác động của những chính sách về việc làm, thu nhập lên mức sống của TB ngày càng được cải thiện, nhu cầu vật chất ngày càng tăng, chất lượng cuộc sống ngày càng ổn định. Hầu hết các gia đình đều có tiện nghi sinh hoạt đầy đủ như: Tivi, đài, quạt và các tiện nghi khác. Ngày nay, trước nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và những nhu cầu chính đáng về tiện nghi sinh hoạt trong gia đình là không thể thiếu được. Do đó, CSXH đúng, phù hợp sẽ nâng cao hơn nữa đời sống của TB. Các tiện nghi sinh hoạt của gia đình là một trong những nhân tố đánh giá mức sống và sự tác động của CSXH đến đời sống GĐTB . Đảng bộ và Nhân dân huyện Thanh Hà không ngừng cố gắng, nỗ lực để đem lại mức sống cao hơn cho TB và gia đình họ.
Từ những phân tích trên ta thấy sự tác động của CSXH đến đời sống vật chất của GĐTB là rất mạnh mẽ. Những chính sách đó nếu được thực hiện tốt thì có tác động tích cực lớn đến đời sống của họ, nhằm cải thiện đời sống, giải quyết những khó khăn mà họ gặp phải, từ đó đời sống của họ được nâng cao, họ sẽ có niềm tin đối với Đảng và Nhà nước. Nhưng bên cạnh đó cũng còn một số hạn chế đó là một số chính sách được thực hiện nhưng mang lại hiệu quả chưa cao . Vì thế, Đảng và chính quyền địa phương phải có những biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa các chính sách làm cho hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện, để đảm bảo đời sống vật chất đầy đủ cho các GĐTB và các gia đình chính sách khác nữa.
2.4.2. Phân tích thực trạng tác động của chính sách xã hội đối với việc giáo dục con cái trong gia đình thương binh huyện Thanh Hà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Để thu được kết quả như mong đợi thì ta phải có sự đầu tư cho giáo dục và người ta thương nói: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận nhất”. Giáo dục có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta rất coi trọng vấn đề giáo dục nhất là giáo dục về đức và tài, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân có ich cho gia đình cũng như toàn xã hội.
Hiện nay, trong điều kiện phát triển của kinh tế thị trường, tuy nhiên cũng còn có nhiều gia đình gặp không ít khó khăn không có điều kiện cho con em đến trường, trong số đó cũng có con em của một số GĐTB. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách quan tâm đặc biệt tới con em các hộ gia đình này để các con em được đi học. Việc chăm sóc giáo dục con em TB vừa thể hiện trách nhiệm và dó cũng là lòng biết ơn đối với những người đã cống hiến hy sinh cho sự nghiệp của đất nước. Những năm qua toàn huyện Thanh Hà đã thực hiện tốt các chính sách ưu đãi giáo dục cho con em TB như: cấp giấy chứng nhận cho học sinh phổ thông để được ưu tiên trong xét tuyển và cũng như việc miễn giảm cho các em, huyện cũng làm hoàn chỉnh những hồ sơ về ưu đãi giáo dục, chi trả trợ cấp giáo dục theo đúng quy định của Nhà nước tạo điều kiện giảm bớt những khó khăn trong gia đình các em để các em cũng có thể tiếp tục học tiếp. Ngoài ra, chính quyền huyện cũng như địa phương đã quan tâm kịp thời tới việc giáo dục này, đã thành lập được nhiều quỹ khuyến học, khuyến khích động viên cho các em thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học. Hàng năm đến dịp tổng kết năm học chính quyền địa phương lại tổ chức họp mặt các học sinh, sinh viên là con em TB để động viên, biểu dương, khích lệ, tặng quà tinh thần học tập của các em. ( Cấp xã có quỹ hỗ trợ cho các em là học sinh nghèo vựơt khó để các em tích cực hơn nữa). Với những chính sách ưu đãi, khuyến khích về giáo dục như thế thì đã mang lại điều đáng mừng là năm học 2006 vừa qua 100% con em thương binh đều được phổ cập giáo dục tiểu học. Qua khảo sát 50 hộ ở huyện Thanh Hà về mức dộ ưu đãi mà con cái họ được hưởng trong việc học hành.
Bảng 2.13. Phân loại con em thương binh theo học ở các trường học
Mức độ
Số hộ
Tỷ lệ (%)
Cộng điểm thi
12
24
Miễn học phí
9
18
Giảm học phí
24
48
Hỗ trợ khác
5
10
Tổng
40
100
( Nguồn: Số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà).
Từ số liệu trên ta thấy tất cả con em TB của các hộ được điều tra đều được hưởng những khoản ưu đãi về giáo dục nhưng ở nhiều mức độ khác nhau. Số hộ gia đình có con được giảm học phí là 24 hộ chiếm 48%, 9 hộ có con được miễn học phí, số con em TB được cộng điểm thi là 12 hộ, ngoài ra còn có 5 hộ có con được nhận sự ưu đãi khác về giáo dục.
Trong các năm học vừa qua, toàn huyện Thanh Hà đã thực hiện tốt chính sách ưu đãi giáo dục cho con em TB như việc cấp giấy chứng nhận con TB cho học sinh phổ thông để được ưu tiên trong xét tuyển và cũng như việc miễn giảm học phí cho các em, huyện cũng làm hoàn chỉnh những hồ sơ về ưu đãi giáo dục, chi trả trợ cấp giáo dục hàng tháng đúng theo quy định của nhà nước tạo điều kiện để giảm bớt những khó khăn trong giáo dục các em để các em có thể tiếp tục học ở các cấp cao hơn. Ngoài ra chính quyền địa phương cũng như địa phương xóm, xã cũng quan tâm kịp thời tới việc giáo dục này, đã thành lập được nhiều quỹ khuyến học, khuyến khích động viên cho các em thi vào các trường Đại học – Cao đẳng – Trung cấp. Hàng năm đến dịp tổng kết năm học chính quyền xã lại tổ chức gặp mặt các học sinh, sinh viên là con em của TB để động viên, biểu dương, tặng quà khích lệ tinh thần học tập của các em ở cấp xã còn có quỹ hỗ trợ các em học sinh nghèo vượt khó để các em tích cực học tập hơn nữa. Với những chính sách ưu đãi, khuyến khích về giáo dục như thế thì đã mang lại điều đáng mừng là năm học 2005 – 2006 vừa qua 100% con em TB đều được phổ cập giáo dục. (Theo báo cáo của phòng NV – LĐTB &XH huyện). ở huyện Thanh Hà vấn đề giáo dục đối với con em TB cũng đã thu được bước đầu những kết quả đáng mừng. Qua khảo sát 50 hộ ở huyện Thanh Hà về mức dộ ưu đãi mà con cái họ được hưởng trong việc học hành. GĐTB thì 100% con em của các gia đình này đều đã tốt nghiệp PTCS . Số em theo học ở trường Đại học là 11 em, số em học Cao đẳng là 21 em, số em học ở các trường THCN là 35 em đây là một con số chưa nhiều nhưng cũng đáng hoan nghênh. Và còn một số em đang học ở các lớp ĐTDN để tạo cho mình một công việc ổn định và có điều kiện giúp đỡ gia đình. Mặt khác, nhiều gia đình vẫn còn gặp nhiều khó khăn, con cái học tập tốt nhưng lại không có điều kiện để học mà các em đó phải nghỉ học ở nhà để ở nhà giúp đỡ gia đình, đây cũng là một thiệt thòi lớn với các em. Những khó khăn của gia đình này cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, tạo điều kiện, động viên để con cái họ được đi học tiếp.
Nói chung, chính sách ưu đãi giáo dục không những tạo điều kiện cho con em TB có cơ hội học cao hơn mà còn có ý nghĩa giáo dục tinh thần rất lớn trong việc khích lệ, động viên ý thức tự giác chăm chỉ học hành nâng cao kiến thức. Những chính sách này không chỉ giúp các em mà nó còn là động lực rất lớn cho bản thân TB. Chính sách ưu đãi giáo dục và đào tạo giáo dục đối với con em TB đã thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của Đảng và Nhà nước ta, chính sách đãi ngộ này góp phần khắc phục những khó khăn và nâng cao mức sống của GĐTB . Bên cạnh đó, cũng cần sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với điều kiện như bây giờ, phù hợp với con em TB, như con thương binh hạng 3, hạng 4 không được khoản trợ cấp nào khác ngoài việc giảm mức học phí, đây là một thiệt thòi rất lớn. Cần bổ sung những chính sách cụ thể, thiết thực hơn nữa để đảm bảo cuộc sống: “ Yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần”
2.4.3. Phân tích đời sống tinh thần của gia đình thương binh huyện Thanh Hà dưới sự tác động của chính sách xã hội.
Đời sống tinh thần được coi là sự phản ánh của đời sống vật chất vì thế muốn nhìn nhận và đánh giá đời sống chung của mỗi cá nhân, nhóm xã hội không chỉ xuất phát từ lĩnh vực đời sống vật chất mà phải được đánh giá một cách toàn diện về cả mặt đời sống tinh thần. Đời sống tinh thần mà những lí tưởng quan niệm, niềm tin của mỗi con người nói chung cũng như các con GĐTB nói riêng. Mọi hoạt động diễn ra trong đời sống tinh thần của TB đều thể hiện sự quan tâm chăm sóc của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính quyền địa phương. Nếu con người có đời sống tinh thần tốt sẽ làm vơi đi những buồn phiền, lo âu trong cuộc sống, tạo sự vui vẻ phấn khởi tích cực trong lao động sản xuất dẫn đến năng suất lao động cao . Với truyền thống:”Uống nước nhớ nguồn”,”Đền ơn đáp nghĩa”,”Ăn quả nhớ người trồng cây” cùng với cả nước Nhân dân huyện Thanh Hà đã dấy lên phong trào chăm sóc TB thể hiện sự kính trọng biết ơn sâu sắc đó bằng các hoạt động như: đi thăm viếng nghĩa trang, đến nhà thương binh.... Chính quyền địa phương thì thăm hỏi, động viên quà các GĐTB trong các ngày lễ tết và khi họ gặp khó khăn. Để khơi dậy tốt các phong trào ấy thì cần phải có sự tuyên truyền phổ biến rộng rãi đến với các tầng lớp nhân dân qua hệ thống sách báo, đài phát thanh... Các cán bộ chính sách tại địa phương phải dược trang bị những hiểu biết về chính sách, giải quyết kịp thời những thắc mắc từ gia đình chính sách khi họ chưa hiểu rõ về nó. Tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí sau những giờ làm việc mệt mỏi, tạo tinh thần sảng khoái cho TB .
Thương binh là những người dễ mặc cảm với bản thân thì họ cần có sự quan tâm hơn nữa của người thân, của cộng đồng và của toàn xã hội giúp cho họ có điều kiện tham gia vào các tổ chức xã hội và đoàn thể . Qua khảo sát ta thấy:
Bảng 2.14. Cơ cấu thương binh tham gia vào các hoạt động xã hội
Các tổ chức, đoàn thể
Số người
Tỷ lệ(%)
Hội cựu chiến binh
23
46
Hội nông dân
15
30
Đảng, chính quyền
5
10
Hội và các đoàn thể khác
7
14
Tổng
50
100
(Nguồn: số liệu khảo sát tại huyện Thanh Hà)
Cơ cấu Thương binh tham gia vào các hoạt động xã hội trong bảng 2.14 cho thấy: Thương binh không chỉ có vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà khi đất nước đã hoà bình thì họ lại tiếp tục phát huy vai trò của mình đối với công việc xây dựng Tổ quốc. Họ lại tiếp tục sự nghiệp của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của quê hương, họ tham gia vào các đoàn thể, Đảng và chính quyền ở địa phương mình sinh sống. Số TB tham gia vào hội cựu chiến binh chiếm một phần lớn 46% trong tổng số 100% các hộTB, số TB tham gia hội nông dân chiếm 30%( tham gia vào hội này họ trực tiếp giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động sản xuất như : trồng trọt, chăn nuôi, hỗ trợ nhau về vốn.....để họ có thể cải thiện đời sống. Số TB tham gia chính quyền, Đảng chưa nhiều mới chỉ kiếm 10% trong tổng số. Ngoài ra
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32044.doc