Chuyên đề Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 4

1.1. Khái quát về thị trường nông sản Hoa Kỳ 4

1.1.1 Những đặc điểm cơ bản của thị trường nông sản Hoa Kỳ 4

1.1.2. Quy định của Hoa Kỳ về nhập khẩu nông sản 5

1.2. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ 13

1.2.1. Quá trình hình thành Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ 13

1.2.2. Nội dung chính của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 14

1.3. Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 16

1.3.1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung 16

1.3.2. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 26

1.4. Đánh giá tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ 37

1.4.1. Tác động tích cực 37

1.4.2. Tác động tiêu cực 38

CHƯƠNG 2: GIẢI PHÁP TẬN DỤNG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 40

2.1. Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ. 40

2.1.1. Thuận lợi 40

2.1.2. Khó khăn 41

2.2. Các định hướng về thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ 46

2.3. Giải pháp tận dụng Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ để thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ. 47

2.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 47

2.3.2. Giải pháp từ phía Doanh nghiệp 50

KẾT LUẬN 52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

 

 

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2006 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với sản lượng và giá trị của các mặt hàng này đều có sự tăng trưởng so với thời kỳ trước. Đặc biêt, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam giai đoạn này đã có những bước phát triển vượt bậc, nhiều nhà máy đã trang bị các dây chuyền công nghệ hiện đại giúp tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Như năm 2005, xuất khẩu cà phê và hạt tiêu của Việt Nam đã đứng thứ nhất trên thị trường thế giới với sản lượng xuất khẩu của cà phê là 892,4 nghìn tấn, chiếm khoảng từ 9 đến 13% thị phần thế giới và hạt tiêu là 108,9 nghìn tấn, chiếm tới 50% thị phần thế giới. Đứng thứ hai là gạo và hạt điều, với sản lượng xuất khẩu gạo khoảng 5 triệu tấn, chiếm 16% thị phần thế giới và sản lượng hạt điều là 108,9 nghìn tấn, chiếm 28% thị phần thế giới. Đến năm 2009 thì hạt điều của Việt Nam đã chiếm 37% thị phần thế giới. Bảng 1.4. Kim ngạch xuất khẩu nông sản trong giai đoạn 2001 - 2008 Đơn vị: Nghìn Tấn Triệu USD 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Gạo Sản lượng 3.729 3.240 3.813 4.087 5.251 4.643 4.558 4.742 Giá trị 624,7 725,5 720,5 950,4 1.407 1.275 1.911 2.894 Cà phê Sản lượng 931,2 718,6 749,2 974,7 892,4 980,9 1.229 1.059 Giá trị 391,3 322,3 504,8 641 735,5 1.217 1.911 2.111 Chè Sản lượng 68,22 74,81 59,8 99,35 87,92 105,6 114,4 104,5 Giá trị 78,40 82,52 59,85 95,55 96,93 110,4 130,8 146,9 Tiếp bảng 1.4. 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Hạt tiêu Sản lượng 57,02 76,61 74,12 111,7 108,9 116,7 - - Giá trị 91,24 107,2 104,9 154,4 150,5 190,4 271 311,2 Hạt điều Giá trị 151,7 208,9 284,5 435,9 501,5 503,8 653,9 911 Lạc nhân Sản lượng 78,16 105,1 82,71 44,85 54,51 14,24 36,75 14,29 Giá trị 38,15 50,8 47,97 27,06 32,93 10,47 30,84 13,56 Rau quả Giá trị 329,9 201,2 151,47 178,8 235,5 259,1 305,6 407 Cao su Sản lượng 308,1 448,6 433,1 513,2 587,1 707,9 714,9 658,3 Giá trị 165,9 267,8 377,9 596,9 804,1 1.286 1.393 1.603 (Nguồn: Tổng cục Hải quan) Ngoài ra, các sản phẩm nông sản khác như cao su, rau quả, chè,... cũng có tốc độ tăng trưởng cao, mang về kim ngạch xuất khẩu lớn. Thời gian gần đây các mặt hàng gạo, cà phê, chè, hạt điều, rau quả, hạt tiêu, cao su đã trở thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong đó có các mặt hàng đã đạt được kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như gạo với kim ngạch năm 2005 là 1,4 tỷ USD, năm 2008 đã là 2,8 tỷ USD; cà phê với kim ngạch năm 2006 là 1,2 tỷ USD, sang năm 2008 là 2,1 tỷ USD và cao su có kim ngạch năm 2008 là 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay thì nền công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam vẫn còn có nhiều hạn chế như các cơ sở chế biến thường mang tính tự phát với quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, lao động có trình độ thấp,... đã khiến cho tỷ lệ sản phẩm làm ra đạt tiêu chuẩn quốc tế chỉ chiếm khoảng 1% đến 5% tổng sản lượng. Điều đó cũng gây ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh cũng như tiềm năng phát triển của hoạt động xuất khẩu nông sản, ví dụ như gạo của Việt Nam, tuy đứng thứ hai thế giới về sản lượng xuất khẩu, chỉ sau Thái Lan nhưng theo nghiên cứu của Viện cơ điện Nông nghiệp thì phải 15 đến 20 năm nữa chúng ta mới có thể theo đạt được trình độ công nghệ của Thái Lan hiện nay. Cũng do thiếu công nghệ nên hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô hoặc sơ chế vì vậy sẽ làm cho giá bán của sản phẩm thấp, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cao của thị trường thế giới. Có thể lấy ví dụ về sản phẩm chè và cà phê, hiện nay thế giới đang có xu hướng tiêu dùng chề gói nhúng uống liền và cà phê hòa tan nhưng Việt Nam lại chủ yếu xuất khẩu chè búp khô và cà phê nhân khô hay như các sản phẩm cao su xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là cao su mủ khô trong khi thế giới đã chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm cao su kỹ thuật. Hơn nữa với công nghệ lạc hậu sẽ gây ra tổn hao nguyên liệu nhiều mà thành phẩm thu về ít, gây tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Khi tổn hao nhiều nguyên liệu sẽ làm cho giá thành của sản phẩm tăng cao, sản phẩm sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh về giá. Không chỉ vậy, đây cũng là nguyên nhân khiến các quốc gia khác trở thành khách hàng của Việt Nam khi họ chỉ mua các sản phẩm thô và sơ chế, sau đó về chế biến và tái xuất, thu được phần giá trị tăng thêm. Chính vì nguyên nhân này mà sản lượng xuất khẩu tăng lên nhanh chóng nhưng giá trị xuất khẩu thì không tăng lên tương ứng. Không chỉ bị ảnh hưởng bởi công nghệ sản xuất, bảo quản mà hàng nông sản của Việt Nam còn chịu tác động của giá cả nông sản thế giới. Năm 2008, 2009 thế giới rơi vào khủng hoảng kinh tế, nhu cầu tiêu dùng cũng như nhu cầu nhập khẩu của các quốc gia giảm xuống làm ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung, hàng nông sản nói riêng. Bị tác động bởi khủng hoảng, năm 2008, sản lượng chè, cà phê, cao su xuất khẩu của Việt Nam đều giảm xuống so với năm 2007 và tới năm 2009 thì do khủng hoảng và việc các quốc gia đều được mùa nên đã làm giá nông sản của Việt Nam giảm xuống, khiến cho kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản giảm mạnh. Đối với mặt hàng cà phê, là một trong các mặt hàng chủ lực của xuất khẩu nông sản Việt Nam thì thời gian gần đây đang gặp rất nhiều khó khăn, chỉ tính riêng năm 2009 và những tháng đầu năm 2010 thì cà phê xuất khẩu của Việt Nam giảm cả về sản lượng lẫn giá trị. Giai đoạn này được gọi là “báo động đỏ” đối với ngành cà phê do giá  xuất khẩu cà phê hiện nay đang xuống rất nhanh, từ tháng 10 năm 2009 đến tháng 2 năm 2010, ngành cà phê đã xuất 450 nghìn tấn cà phê nhân, chỉ giảm 20% về sản lượng so với cùng kì năm trước nhưng về giá lại giảm đến gần 40%. Tuy nhiên, sang đến những tháng đầu năm 2010 thì một số mặt hàng nông sản đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng về xuất khẩu như hạt tiêu, tính đến tháng 3 năm 2010 nước ta xuất khẩu được 9 nghìn tấn hạt tiêu, đạt kim ngạch là 23 triệu USD, lượng tiêu xuất khẩu cả quý 1 năm 2010 đạt 23 nghìn tấn, kim ngạch gần 66 triệu USD, tăng 1,54% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước, hay như trong 2 tháng đầu năm 2010 thì kim ngạch xuất khẩu chè đã tăng 33%, sắn và các sản phẩm từ sắn tăng 21,5%, cao su tăng 64,8%, sản phẩm từ cao su tăng 78,6% so với cùng kỳ năm 2009 do giá của các sản phẩm nông sản xuất khẩu đã tăng lên, như hạt tiêu tăng 17%, gạo tăng 24%, cao su tăng 86%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 92%. 1.3.1.2. Mặt hàng xuất khẩu Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su, chè. Trong đó thì mặt hàng điều và hạt tiêu đang là mặt hàng có sức phát triển mạnh trong sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt Nam. Theo Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas) thì năm 2008 Việt Nam đã leo lên vị trí số 1 thế giới về xuất khẩu điều nhân và sang năm 2009 Việt Nam vẫn duy trì được vị trí số 1 này. Hạt điều của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Hoa Kỳ với 30% sản lượng, thứ hai là Trung Quốc với 20% sản lượng, châu Âu với 20%, còn lại là xuất khẩu sang thị trường Nga, các nước Trung Đông, Nhật Bản. Hạt tiêu của Việt Nam cũng đang đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu, trong 24 thị trường xuất khẩu hạt tiêu chính của Việt Nam thì hiện nay Hoa Kỳ và Đức là 2 thị trường chiếm kim ngạch cao với kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang Hoa Kỳ tháng 1 năm 2010 đạt gần 3,8 triệu USD, chiếm 16,1% tổng kim ngạch và Đức nhập khẩu 3,51 triệu USD, chiếm 14,97% tổng kim ngạch, tiếp theo là 2 thị trường Ấn Độ và Hà Lan cũng đạt kim ngạch cao trên 1 triệu USD. Xếp sau hạt điều và hạt tiêu là mặt hàng gạo và cà phê hiện đang đứng thứ hai thế giới. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam chỉ sau Brazil với sản lượng của niên vụ 2008 - 2009 chiếm tới 14,4% tổng sản lượng cà phê toàn cầu. Theo Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam thì năng suất cà phê hàng năm của Việt Nam ổn định ở mức 1 triệu tấn/500 nghìn ha và nước ta hiện có khoảng 1,24 triệu ha cà phê. Xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Thái Lan và sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm khoảng 15% tới 16% thị phần gạo thế giới. Hiện nay thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với giá gạo của Thái Lan nên gạo của Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao đối với gạo Thái Lan. Theo Tổ chức Nông - Lương Liên hiệp quốc (Food and Agriculture Organization, viết tắt là FAO), xuất khẩu gạo của Việt Nam đang rất thuận lợi nhờ trúng mùa, giá cả giảm và kho dự trữ dồi dào. Với mặt hàng cao su thì hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 4 thế giới, đứng sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. 70% lượng cao su xuất khẩu của nước ta là sang Trung Quốc, các thị trường xuất khẩu quan trọng khác bao gồm Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Nga, Đài Loan, Mỹ, Nhật và EU. Chè cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và hiện xuất khẩu chè của Việt Nam đang đứng thứ 5 thế giới, trong đó chủ yếu là chè đen, chiếm tới 80% lượng chè xuất khẩu. Các quốc gia nhập khẩu chè của Việt Nam đó là Đài Loan, đứng đầu với 17% sản lượng xuất khẩu của Việt Nam, tiếp đến là Nga, Irắc, Pakistan, Đức và Singapore. Bên cạnh đó các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đa dạng với sản lượng và giá trị xuất khẩu thường tăng lên năm sau cao hơn năm trước như rau quả, lạc nhân, sắn và các sản phẩm từ sắn, quế,... Trong đó phải kể đến rau quả với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và con người, hoạt động sản xuất và xuất khẩu rau quả của Việt Nam những năm qua đã có những thành tựu đáng kể với giá trị xuất khẩu tăng lên nhanh chóng, năm 2007 mới chỉ xuất khẩu 305,6 triệu USD, sang tới năm 2008 là 407 triệu USD, tăng 33,18%. Ngoài ra các mặt hàng như lạc, quế cũng đang có sự tiến bộ qua các năm và vừa qua chúng ta đã xuất khẩu được thêm nhiều loại mặt hàng mới như thanh long, nhãn, chôm chôm, vải,... 1.3.2. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn với dân số khoảng 300 triệu người lại có thu nhập đầu người rất cao đang là một thị trường đầy tiềm năng với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của hàng nông sản nói riêng. Kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ với nhau, Việt Nam luôn nỗ lực phát triển hoạt động ngoại giao và xúc tiến xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ. Hoạt động xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ của Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên rất nhanh cả về mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu. Hoa Kỳ đang dần trở thành quốc gia bạn hàng số 1 của Việt Nam với tổng kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam năm 2009 là 11,4 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ cũng đang đươc các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và phát triển. 1.3.2.1. Kim ngạch xuất khẩu a. Trước khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Sau khi Việt Nam giải phóng năm 1975, Hoa Kỳ đã chấm dứt quan hệ buôn bán với Việt Nam, cấm vận về kinh tế cũng như các lĩnh vực khác với Việt Nam cho tới năm 1994. Trong thời kỳ cấm vận tuy hàng hóa Việt Nam vẫn vào Hoa Kỳ thông qua một số con đường trung gian nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu rất nhỏ. Đến năm 1993, khi tổng thống Bill Clinton tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và tới ngày 3 tháng 2 năm 1994 thì Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ cấm vận Việt Nam và tháng 4 năm 1996, Hoa Kỳ trao cho Việt Nam bản yếu tố bình thường hóa quan hệ kinh tế - thương mại với Việt Nam thì mối quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ xuất nhập khẩu nói riêng giữa hai quốc gia mới bắt đầu phát triển. Giai đoạn đầu của quan hệ thương mại, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là nông sản và nguyên liệu thô do Việt Nam có nhiều tài nguyên thiên nhiên lại có thể huy động được các nguồn lực có sẵn như nhân công, đất đai,... Hơn nữa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng này rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam lúc đó do không yêu cầu nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ. Trong đó, nông sản là một trong năm nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào thị trường Hoa Kỳ, bên cạnh dệt may, đồ gỗ, thủy sản và giày dép. Xét về các mặt hàng nông sản của Việt nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ lúc đó thì cà phê, chè, hạt điều, gia vị là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn do thị trường Hoa Kỳ nhiều nhu cầu và thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng này thấp, thậm chí với một số mặt hàng như cà phê, hạt điều, chè thì thuế nhập khẩu bằng 0. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó thông qua bảng số liệu dưới đây về kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 1996 - 2000. Bảng 1.5. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 1996 - 2000 Đơn vị: Tấn Triệu USD 1996 1997 1998 1999 2000 Gạo Sản lượng 356.940 304.760 153.930 22.340 61.040 Giá trị 100,24 63,5 39,03 4,95 10,66 Cà phê Sản lượng 24.106 55.699 56.265 51.810 52.176 Giá trị 32,51 75,23 86,31 59,21 69,93 Chè Sản lượng 91 63 11 658 452 Giá trị 0,05 0,09 0,01 0,57 0,37 Hạt tiêu Sản lượng - - - 2102 1063 Giá trị - - - 9,02 7,08 Hạt điều Sản lượng 2.776 3.422 3.738 3.635 9.389 Giá trị 12,49 14,65 16,74 21,18 44,70 Tiếp bảng 1.5 1996 1997 1998 1999 2000 1996 Lạc nhân Sản lượng - - - - 36 Giá trị - - - - 0,02 Rau quả Giá trị 1,23 5,30 2,56 3,21 2,18 (Nguồn: Vụ kế hoạch và Quy hoạch - Bộ Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn) Cà phê là mặt hàng giữ vị trí số một về xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ và là một trong năm mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong giai đoạn 1995 - 1999. Do Hoa Kỳ hoàn toàn miễn thuế nhập khẩu và không phân biệt đối xử với sản phẩm cà phê nhập khẩu nên Việt Nam đã tăng cường xuất khẩu mặt hàng này sang Hoa Kỳ. Trong hai năm 1994, 1995 là hai năm sau khi bỏ cấm vận thì cà phê xuất khẩu của Việt Nam có tỷ trọng về giá trị trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng rất cao, năm 1994 là 59,4% và sang năm 1995 đã là 72,97%. Các năm sau tuy tỷ trọng có giảm do giá giảm nhưng cà phê vẫn là một trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thời kỳ này. Tuy nhiên cà phê của Việt Nam lại chịu ảnh hưởng rất lớn từ giá cà phê thế giới cộng thêm những tác động của điều kiện tự nhiên khiến cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tuy có tăng lên nhưng lại không đồng đều, năm 1996 lượng cà phê xuất khẩu được là 24.106 tấn, đem về cho Việt Nam 32,51 triệu USD, sang năm 1997 là 55.699 tấn đem về 75,23 triệu USD, năm 1998 tiếp tục tăng lên 56.265 tấn và 86,31 triệu USD nhưng đến năm 1999 và 2000 thì sản lượng lại giảm xuống còn 51.810 tấn và 52.176 tấn tương ứng với giá trị xuất khẩu là 59,21 và 69,93 triệu USD. Thêm vào đó giai đoạn này Việt Nam sản xuất và xuất khẩu loại cà phê Robusta, không được ưa chuộng và giá bán thấp nên sự tăng lên về giá trị xuất khẩu của cà phê của Việt Nam còn thấp so với sự tăng lên về sản lượng xuất khẩu. Mặt hàng nông sản chủ lực thứ hai mà Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ giai đoạn này là hạt điều. Sản lượng và giá trị xuất khẩu của hạt điều Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng đều qua các năm và đặc biệt tăng nhanh trong năm 2000. Từ năm 1996 tới năm 2000, sản lượng điều xuất khẩu đã tăng từ 2.776 tấn lên 9.389 tấn với giá trị xuất khẩu tăng từ 12,49 triệu USD lên đến 44,7 triệu USD, như vậy là tăng lên gấp 3,5 lần chỉ trong vòng 4 năm Gạo cũng là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn trong giai đoạn này. Hoa Kỳ là một trong những nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới do gạo Hoa Kỳ nhập về không chỉ phục vụ tiêu dùng mà còn phục vụ nhu cầu tái xuất, đảm bảo nguồn hàng để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu của Hoa Kỳ. Ngoài ra nhiều khách hàng Hoa Kỳ cũng mua gạo Việt Nam để xuất khẩu sang châu Phi theo các chương trình viện trợ của chính phủ Hoa Kỳ. Mức thuế đối với gạo nhập khẩu của Việt Nam thấp và thị trường Hoa Kỳ rộng mở đối với Việt Nam. Nhưng do gạo Việt Nam có chất lượng chưa cao, không đảm bảo được các yêu cầu của thị trường Hoa Kỳ nên sản lượng và giá trị xuất khẩu của gạo bị giảm đi, đặc biệt là vào năm 1999, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 22.340 tấn gạo với giá trị xuất khẩu là 4,95 triệu USD, thấp hơn hẳn so với năm 1998, chúng ta xuất khẩu được 153.930 tấn với giá trị là 39,03 triệu USD. Ngoài ra còn có những mặt hàng nông sản khác cũng được xuất khẩu nhiều sang Hoa Kỳ. Có thể kể đến đó là chè, hạt tiêu và một số mặt hàng gia vị khác. Đối với hạt tiêu hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu một số lượng lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay. Tuy hạt tiêu thâm nhập vào Hoa Kỳ chậm hơn cà phê nhưng tốc độ tăng về kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này lại rất cao và trong tương lai còn tăng nhanh hơn nữa vì các quốc gia đứng trên Việt Nam về xuất khẩu hạt tiêu như Trung Quốc hay Tây Ban Nha lại không có nguồn hạt tiêu nhiều như Việt Nam. Mặt hàng chè và gia vị khác cũng đang dần dần thâm nhập thị trường Hoa Kỳ với lợi thế là có nhiều người gốc châu Á sinh sống tại thị trường Hoa Kỳ nên có nhu cầu lớn về sử dụng chè, gia vị vốn là những sản phẩm truyền thống được sử dụng trong cuộc sống của người châu Á. Bên cạnh các mặt hàng có sự kim ngạch xuất khẩu lớn thì cũng có những mặt hàng phải chịu thuế cao như rau quả nên việc xuất khẩu sang Hoa Kỳ còn gặp nhiều khó khăn. Mặt hàng này bước đầu được thị trường Hoa Kỳ chấp nhận nhưng giá rau quả của Việt Nam còn cao do chưa được hưởng MFN và thêm một nguyên nhân nữa là rau quả nhập khẩu vào Hoa Kỳ đòi hỏi phải là rau sạch, chất lượng cao, là một điều kiện mà rau quả xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp ứng được. Việt Nam còn thiếu những nhà máy chế biến rau quả hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế, hiệu quả sản xuất, chế biến rau quả cho xuất khẩu còn thấp bởi vậy đây là một trong những mặt hàng có tỷ trọng thấp trong kim ngạch. Tuy tỷ trọng xuất khẩu thấp nhưng mặt hàng rau quả cũng là mặt hàng xuất khẩu đáng được quan tâm và phát triển do đây là mặt hàng có tiềm năng, giá trị xuất khẩu tăng trưởng nhanh và khá ổn định. Năm 1996 Việt Nam mới chỉ thu được 1,23 triệu USD từ xuất khẩu rau quả nhưng năm 1997 đã tăng lên 5,3 triệu USD, tuy các năm sau có giảm so với năm 1997 nhưng vẫn có sự tăng trưởng về kim ngạch khi năm 1998 giảm xuống 2,56 triệu USD nhưng năm 1999 lại tăng lên 3,21 triệu USD. Như vậy giai đoạn này xuất khẩu nông sản Việt Nam đã có những thành công sau khi quan hệ giữa Viêt Nam và Hoa Kỳ được bình thường hóa và hoạt động nông sản sẽ có khả năng phát triển cao hơn nữa trong tương lai, đặc biệt là sau khi hai nước ký Hiệp định Thương mại. b. Sau khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Vào ngày 13 tháng 7 năm 2000, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tại Washington và Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10 tháng 12 năm 2001, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai quốc gia. Kể từ sau khi Hiệp định có hiệu lực, thương mại giữa hai quốc gia đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đã có những thành tựu lớn, thậm chí Việt Nam đã trở thành nước xuất siêu trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ và hiện nay Hoa Kỳ là một trong các quốc gia nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam. Và nằm trong các nhóm hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì nhóm hàng nông sản cũng có những thành công đáng kể trong sản xuất, xuất khẩu. Từ sau Hiệp định, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã tăng lên cả về sản lượng lẫn giá trị. Các mặt hàng như cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, rau quả xuất khẩu đã tăng lên nhanh chóng so với thời kỳ trước khi có Hiệp định Thương mại. Trong đó các mặt hàng như cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè tuy không chịu ảnh hưởng từ những thay đổi về thuế nhập khẩu do từ trước đã có thuế nhập khẩu là 0% nhưng do chất lượng tăng lên, có công nghệ hiện đại nhờ được đầu tư tăng lên theo cam kết của Hiệp định Thương mại nên sản lượng cũng như giá trị lớn hơn giai đoạn trước. Còn những mặt hàng được hưởng lợi ích từ thuế MFN như rau quả, gạo, cao su nên giá giảm xuống, làm tăng sức cạnh tranh với hàng hóa các nước khác tại thị trường Hoa Kỳ. Bảng 1.6. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 2001 - 2009 Đơn vị: Nghìn Tấn Triệu USD 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Gạo Lượng 46,3 21,6 - 0,89 - 1,04 1,32 2,62 - Giá trị 7,15 5,69 - 0,24 - 0,4 0,52 1,61 - Cà phê Lượng 147,1 90,1 109,4 135,4 117,7 130,9 134,9 106,4 128,1 Giá trị 60,01 39,5 73,1 88,8 97,5 166,4 212,7 210,8 196,7 Chè Lượng 1,03 2,25 1,33 2,49 1,26 2,09 3,63 3,76 5,35 Giá trị 0.79 1,74 1,04 1,61 1,03 1,58 2,43 3,02 5,73 Hạt tiêu Lượng 3,18 11,2 10,6 18,8 19,8 17,7 6,74 13,57 14,8 Giá trị 5,41 16,8 15,9 27,3 29,03 30,05 20,74 46,6 43,6 Lạc nhân Lượng - - - 0,014 - - - - - Giá trị - - - 0,017 - - - - - Rau quả Giá trị 1,97 5,94 8,07 14,9 13,16 18,4 20,3 19,45 21,68 Hạt điều Lượng 12,9 20,9 29,1 44,1 34,9 41,6 51,9 48,6 53,2 Giá trị 44,1 71,5 99,8 177,8 156,9 166,8 227,8 267,7 155,2 Cao su Lượng 3,94 16,48 12,25 16,06 19,21 17,36 22,83 20,17 18,74 Giá trị 2,13 10,11 10,84 16,89 24,75 27,88 39,12 43,34 28,52 (Nguồn: Tổng cục Hải quan) Hoa Kỳ hiện là một trong những nước nhập khẩu cà phê Việt Nam lớn nhất thế giới, với kim ngạch nhập khẩu năm 2009 là 196,7 triệu USD, đứng thứ hai trong các nước nhập khẩu cà phê của Việt Nam chiếm 11,36% tổng kim ngạch cà phê của Việt Nam xuất khẩu, chỉ sau Đức với 11,66% kim ngạch. Có thể thấy Hoa Kỳ là một thị trường lớn cho ngành cà phê Việt Nam khai thác, số lượng cà phê một người dân Hoa Kỳ tiêu dùng một năm có thể từ 4 tới 5 kg, tương đương với khoảng 2 cốc/ngày. Biết được đặc điểm đó, các doanh nghiệp kinh doanh cà phê đã coi thị trường Hoa Kỳ là một thị trường trọng điểm, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê sang thị trường Hoa Kỳ, điển hình là năm 2001 sản lượng cà phê của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng đột biến so với năm 2000, từ 52,176 nghìn tấn tăng lên 147,1 nghìn tấn và mặc dù bị giảm xuống 90,1 nghìn tấn vào năm 2002 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng thừa trên thế giới nhưng đến năm 2003 lại tăng lên 109,4 nghìn tấn. Tuy nhiên kim ngạch cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ 2 năm gần đây lại đang có dấu hiệu khó khăn khi năm 2009 đã có sự sụt giảm so với kim ngạch năm 2008 là 210,8 triệu USD, một phần là do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng như rắc rối của hệ thống ngân hàng làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam, nhiều đối tác ở Hoa Kỳ đã không mở được LC, và một phần là do giá cà phê năm 2009 giảm 32% so với năm 2008. Và tới những tháng đầu năm 2010 thì kim ngạch cà phê vẫn đang có xu hướng giảm xuống. Đứng ngay sau hạt tiêu về kim ngạch xuất khẩu là hạt điều. Năm 2009, Hoa Kỳ là nước đứng thứ hai về nhập khẩu hạt điều Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc. Kim ngạch của hạt điều xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng mạnh khi năm 2001 sản lượng xuất khẩu mới chỉ là 12,9 nghìn tấn nhưng tới năm 2009 đã là 53,2 nghìn tấn, tức là tăng hơn 4 lần. Tuy rằng hiện nay việc xuất khẩu điều cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nhưng Hoa Kỳ vẫn đang nằm trong sáu nước nhập khẩu hạt điều Việt Nam với kim ngạch trên 1 triệu USD, cụ thể là đến tháng 2 năm 2010 thì kim ngạch nhập khẩu điều Việt Nam của Hoa Kỳ là 8,79 triệu USD. Mặt hàng tiếp sau có kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ lớn là hạt tiêu. Trong 24 thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam về hạt tiêu thì hiện Hoa Kỳ đang đứng thứ nhất, cụ thể là trong tháng 1 năm 2010 thì kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang Hoa Kỳ đạt gần 3,8 triệu USD, chiếm 16,1% tổng kim ngạch; tăng 9,46% so với tháng 12 năm 2009 và tăng 61,97% so với cùng kỳ năm 2009. Trong những năm gần đây thì sản lượng hạt tiêu xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ luôn tăng với tốc độ khá nhanh cộng với giá hạt tiêu cũng đang có xu hướng tăng lên nên giá trị xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam nói chung và vào thị trường Hoa Kỳ nói riêng luôn có sự tăng trưởng năm sau so với năm trước. Có thể thấy được sự tăng trưởng đó qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1.2. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu vào Hoa Kỳ giai đoạn 2001 - 2009 Ngoài 3 mặt hàng nói trên thì các mặt hàng như cao su, chè, rau quả cũng là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao, đem về nhiều ngoại tệ. Đặc biệt là rau quả, giá trị rau quả xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng mạnh, năm 2001 giá trị xuất khẩu rau quả sang thị trường Hoa Kỳ là 1,97 triệu USD và đến năm 2009 là 21,68 triệu USD, tăng gần 21 lần trong vòng 8 năm. Nhưng bên cạnh những thành công của các mặt hàng nói trên thì mặt hàng gạo lại có sự suy giảm về kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây do những nguyên nhân như chất lượng gạo không đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu của Hoa Kỳ đồng thời lại phải cạnh tranh với gạo từ Trung Quốc và Thái Lan và Hoa Kỳ đang có sự thắt chặt về nhập khẩu gạo từ nước ngoài. 1.3.2.2. Mặt hàng xuất khẩu Hiện nay những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ đó là cà phê, hạt điều, hạt tiêu, chè,... là những mặt hàng ngày càng có chỗ đứng trên thị trường Hoa Kỳ. Đây là những mặt hàng có tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam, đã và đang khẳng định vị trí tại thị trường thế giới nói chung, thị trường Hoa Kỳ nói riêng. Trong đó, Hoa Kỳ đang là đối tác quan trọng của Việt Nam về

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112279.doc