MỤC LỤC
TRANG
LỜI MỞ ĐẦU 01
CHƯƠNG 1: CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 02
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN 02
1.1.1 Khái niệm về công bố thông tin 02
1.1.2 Vai trò của công bố thông tin trên thị trường chứng khoán 04
1.1.3 Các nguyên tắc trong công bố thông tin 06
1.1.3.1 Tính chính xác, trung thực, đầy đủ 06
1.1.3.2 Nguyên tắc công bố thông tin kịp thời, liên tục 07
1.1.3.3 Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng 08
1.2 HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG 08
1.2.1 Khái niệm hệ thống công bố thông tin thị trường 08
1.2.2 Phân loại công bố thông tin 09
1.2.3 Nội dung công bố thông tin 10
1.2.4 Phương tiện công bố thông tin 11
1.2.4.1 Đường truyền trực tuyến 11
1.2.4.2 Các phương tiện khác 13
1.2.5 Công bố thông tin 14
1.2.6 Nội dung hệ thống công bố thông tin 15
1.3 MÔ HÌNH HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 18
1.3.1 Mỹ 18
1.3.1.1 Công bố thông tin 18
1.3.1.2 Thông tin thị trường 19
1.3.1.3 Phương tiện công bố thông tin 19
1.3.2 Hàn Quốc 20
1.3.2.1 Công bố thông tin 20
1.3.2.2 Thông tin thị trường 21
1.3.2.3 Phương tiện công bố thông tin 22
1.3.3 Thái Lan 22
1.3.3.1 Công bố thông tin 22
1.3.3.2 Thông tin thị trường 23
1.3.3.3 Phương tiện công bố thông tin 23
1.3.4 Bài học kinh nghiệm 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TẠI TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 26
2.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 26
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TẠI TTGDCK TP.HCM 29
2.2.1 Thực trạng hoạt động công bố thông tin của tổ chức niêm yết 29
2.2.1.1 Mô hình hệ thống công bố thông tin của tổ chức niêm yết 29
2.2.1.2 Đánh giá hoạt động công bố thông tin 32
2.2.2 Thực trạng hệ thống thông tin tại TTGDCK Tp.HCM 37
2.2.2.1 Quy trình công bố thông tin tại TTGDCK Tp.HCM 37
2.2.2.2 Đánh giá công bố thông tin giao dịch tức thời 37
2.2.2.3 Đánh giá quá trình tiếp nhận, xử lý, lưu trữ và cung cấp thông tin 39
2.2.3 Thực trạng công bố thông tin của Uỷ Ban chứng khoán Nhà nước 42
2.2.4 Thực trạng công bố thông tin của công ty chứng khoán 43
2.2.4.1 Quy trình nhận và CBTT của công ty chứng khoán 43
2.2.4.2 Đánh giá hoạt động công bố của công ty chứng khoán 44
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TẠI TTGDCK TP.HCM 45
2.3.1 Ưu điểm 45
2.3.1.1 Về môi trường pháp lý 45
2.3.1.2 Về phía doanh nghiệp niêm yết 46
2.3.1.3 Về phía công ty chứng khoán 47
2.3.2 Nhược điểm 48
2.3.2.1 Về môi trường pháp lý 48
2.3.2.2 Về phía doanh nghiệp niêm yết 49
2.3.2.3 Về phía công ty chứng khoán 50
2.3.3 Nguyên nhân 50
2.3.3.1 Về phía tổ chức niêm yết 50
2.3.3.2 Về phía công ty chứng khoán 51
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 53
3.1 ĐỊNH HƯỚNG CỦA HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN TTGDCK TP.HCM 53
3.1.1 Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt nam đến năm 2010 53
3.1.2 Định hướng phát triển hệ thống công bố thông tin trên TTGDCK Tp.HCM 53
3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CÔNG BỐ THÔNG TIN TẠI TTGDCK TP.HCM 54
3.2.1 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường của TTGDCK 54
3.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường tại TTGDCK Tp.HCM 54
3.2.1.1 Xây dựng hệ thống thông tin thị trường 56
3.2.2 Xây dựng hệ thống thu thập, quản lý, phân tích và xử lý thông tin của UBCKNN và TTGDCK Tp.HCM 59
3.2.2.1 Xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ xã hội hóa của thị trường chứng khoán 59
3.2.2.2 Xây dựng chế độ cung cấp thông tin theo tình hình thị trường 59
3.2.2.3 Phối hợp trong việc công bố thông tin giữa UBCKNN và TTGDCK 59
3.2.3 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống công bố thông tin của các tổ chức niêm yết 59
3.2.3.1 Chuẩn hóa và nâng cao chất lượng công bố thông tin 59
3.2.3.1 Giải pháp phát triển hệ thống công bố thông tin tổ chức niêm yết 60
3.2.4 Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động công bố thông tin 61
3.3 CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ KHÁC 62
3.3.1 Hoàn thiện khung pháp lý về công bố thông tin 62
3.3.1.1 Nguyên tắc hoàn thiện khung pháp lý về công bố thông tin 62
3.3.1.2 Nội dung hoàn thiện khung pháp lý về công bố thông tin 63
3.3.2 Phát triển hệ thống thông tin doanh nghiệp, chế độ kế toán, kiểm toán 65
3.3.2.1 Cải tiến và hoàn thiện hệ thống kế toán 65
3.3.2.2 Hoàn thiện chế độ kiểm toán 65
3.3.2.3 Phát triển hệ thống thông tin doanh nghiệp 66
3.3.3 Hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm và đẩy mạnh vai trò của các tổ chức định giá công ty 67
3.3.3.1 Hình thành và tổ chức định mức tín nhiệm 67
3.3.3.2 Nâng cao vai trò của các tổ chức định giá doanh nghiệp 67
3.3.4 Công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức cho công chúng 68
3.3.5 Một số kiến nghị khác 68
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
92 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường và hoàn thiện hệ thống công bố thông tin trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông tin về kế hoạch phát hành cổ phiếu thưởng của REE được đưa ra bàn bạc trong Đại hội đồng cổ đông ngày 27/03/2002 mà chưa xin ý kiến của UBCKNN.
Đặc biệt, có công ty cố tình che dấu các vụ việc nghiêm trọng trong công ty gây ảnh hưởng đến hoạt động thị trường như công ty đồ hộp Hạ Long (CANPOCO) làm NĐT đặt lệnh bán tháo cổ phiếu CAN với khối lượng đặt bán là 47000 cổ phiếu (trong phiên ngày 08/10/2002) song họ đã trễ vì TTGDCK đã thông báo ngừng giao dịch cổ phiếu này. Rõ ràng rằng chỉ khi bị dư luận lên án công ty mới thực hiện CBTT theo yêu cầu của TTGDCK Tp.HCM và UBCKNN để giải trình diễn biến và bản chất của sự việc.
Tiếp đến là một số công ty niêm yết đặt lệnh mua lại cổ phiếu mà không báo cáo với TTGDCK, không công bố kịp thời việc bổ sung ngành nghề kinh doanh và việc thay đổi chế độ kế toán. Điển hình là vụ việc tại công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long( Canfoco) trong năm 2002 về việc Phó giám đốc công ty đã mua 500 cổ phiếu CAN trong phiên ngày 20/12/2002 mà không thực hiện CBTT theo quy định.
Thực trạng CBTT hiện nay cho thấy thông tin mà các công ty niêm yết công bố thường thiếu chính xác, chưa đầy đủ đôi khi làm NĐT hiểu sai nội dung mà không giải thích hoặc giải thích không thỏa đáng.
Bibica cũng là một ví dụ điển hình, trong báo cáo quyết toán 6 tháng đầu năm 2002 công ty đã thực hiện được 101,2 tỷ đồng doanh thu và 2,27 tỷ đồng lợi nhuận nhưng trong Đại hội cổ đông ngày 30/05/2002 công ty lại công bố lợi nhuận 5 tháng đầu năm đã vượt con số 4 tỷ đồng. Khi được giải thích thì công ty cho rằng đó là lợi nhuận "thực" từ hoạt động sản xuất kinh doanh chưa trừ đi chí phí hoạt động tài chính. Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Gemadept) còn để thiếu sót khi không có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng quản trị và kế toán trưởng của công ty xác nhận báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 1999 và năm 2000 trong bản cáo bạch. TTGDCK Tp.HCM đẵ phải có công văn nhắc nhở về những sai sót và thông tin phản hồi để các NĐT rõ.
Thêm một đại diện nữa là REE, Theo báo cáo thường niên doanh thu REE đạt được trong năm 2003 là 387,85 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế là 48,39 tỷ đồng. Trong khi đó theo các số liệu đăng trên bản tin TTGDCK các số liệu trên tương ứng là 496,5 tỷ đồng và 47,848 tỷ đồng ( các số liệu đã được làm tròn số). Bà Đỗ Thị Trang-Phó tổng giám đốc công ty REE giải thích như sau:" Do đặc thù của công ty REE được tổ chức hoạt động theo mô hình nhóm công ty, bao gồm REE mẹ và các công ty con thành viên nên báo cáo tài chính năm được kiểm toán của công ty là báo cáo tài chính hợp nhất. Báo cáo này được in trong ấn phẩm thường niên năm 2003 của công ty và được phát cho cổ đông tại Đại hội cổ đông ngày 27/03/2004
Về số liệu công ty đã công bố cho TTGDCK vào ngày 31/01/2004 và được đăng trên bản tin TTGDCK ngày 03/02/2004 là số liệu báo cáo tổng hợp quý IV/2003 là số liệu chưa được kiểm toán các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận chưa loại trừ yếu tố nội bộ vì báo cáo chưa được hợp nhất tại thời điểm 31/12/2003. Số liệu ( doanh thu và lợi nhuận) trong báo cáo thường niên và số liệu kết quả kinh doanh quý IV/2003 REE gửi cho TTGDCK chắc chắn do "hợp nhất" và "chưa hợp nhất"
Mặc dù trong khung khổ pháp lý về hoạt động chứng khoán và TTCK ở Việt nam đã có những quy định đầy đủ về trách nhiệm và nghĩa vụ CBTT của các tổ chức niêm yết, TTGDCK Tp.HCM cũng đã xây dựng một quy trình công bố thông tin và ngay tại các công ty niêm yết cũng đã có sự phân công cho một cá nhân cụ thể là người đại diện công ty phụ trách vấn đề CBTT nhưng bản thân các công ty niêm yết vẫn chưa thực hiện việc CBTT một cách nghiêm túc nên đã xảy ra những sai sót trên
Niêm yết cổ phiếu là một cách quảng bá thương hiệu doanh nghiệp không mất tiền , như nhiều doanh nghiệp thường quan niệm. Song trong bối cảnh trên thị trường ngày càng có nhiều loại cổ phiếu và mức độ cạnh tranh giữa các cổ phiếu ngày càng cao thì việc đưa cổ phiếu lên sàn rồi để đó là chưa đủ
Điều cần thiết là bản thân các doanh nghiệp ngoài nỗ lực hoạt động hiệu quả cần phải chú trọng đến công tác thông tin.
2.2.2 Thực trạng hệ thống thông tin tại TTGDCK Tp.HCM
2.2.2.1 Quy trình công bố thông tin tại TTGDCK Tp.HCM
Hệ thống thông tin thị trường tại TTGDCK Tp.HCM hiện nay về nguyên tắc cũng được xây dựng tương tự như hệ thống thông tin thị trường của các Sở giao dịch chứng khoán trên thế giới
Sơ đồ 7: Sơ đồ công bố thông tin tại TTGDCK Tp.HCM
.Lãnh đạo Trung tâm
.Phòng giám sát thị trường
.Phòng quản lý niêm yết
.Phòng quản lý thành viên
.Phòng đăng ký, thanh toán bù trừ, lưu ký chứng khoán
Phòng giao dịch
.Các công ty chứng khoán
.Các cơ quan thông tấn
.Đài phát thanh truyền hình
.Báo chí hàng ngày và chuyên ngành
.Cơ quan chính quyền
-văn phòng ủy ban chứng khoán nhà nước
-phòng hành chính nhân sự
-trạm thông tin đầu cuối của TTGDCK
-các ấn phẩm của TTGDCK
.bản tin hàng ngày
.bản tin định kỳ(tháng, quý, năm)
.các loại ấn phẩm khác
bộ phận giao dịch
bộ phận công bố thông tin
2.2.2.2 Đánh giá công bố thông tin giao dịch tức thời
Để thị trường hoạt động minh bạch thì việc cung cấp thông tin trước và sau giao dịch trên cơ sở tức thời(real time basis) là rất quan trọng. Thông tin trước giao dịch được cung cấp tối thiểu là giá chào mua, chào bán tốt nhất và khối lượng tương ứng ở mức gía đó. Thông tin sau giao dịch được cung cấp tối thiểu là gía, khối lượng giao dịch của tất cả chứng khoán bao gồm cả giao dịch lô lớn, giao dịch thỏa thuận.
Hiện nay, các bảng điện tử và màn hình vi tính đặt tại sàn giao dịch của các công ty chứng khoán được nối mạng trực tiếp với TTGDCK Tp.HCM thu hút nhiều sự quan tâm của các NĐT. Có thể xem đây là phương tiện duy nhất hiện nay để cung cấp và công bố các thông tin về diễn biến trong một phiên giao dịch. Tại đây NĐT không những được cung cấp thông tin về kết quả giao dịch ngày hôm trước như khối lượng, gía trị giao dịch của từng loại chứng khoán và của cả thị trường, mức tăng giảm của mỗi loại chứng khoán , tăng giảm của chỉ số VN Index mà còn có thể tham khảo tình hình diễn biến trên thị trường trong phiên giao dịch( 3 mức giá chào bán và chào mua tốt nhất cùng khối lượng đặt tương ứng, giá dự kiến khớp lệnh của từng loại chứng khoán ).
Riêng khối lượng dự kiến khớp không được truyền trực tiếp về công ty chứng khoán thành viên mà do đại diện giao dịch thông báo bằng điện thoại hoặc nhập bằng tay vào phần mềm của công ty tại sàn để truyền về công ty chứng khoán thành viên. Một số công ty chứng khoán thành viên còn dựa trên thông tin 3giá mua tốt nhất-khối lượng tương ứng, 3 giá bán tốt nhất-khối lượng tương ứng và giá khớp lệnh dự kiến để tính khối lượng dự kiến khớp. Do đó thông tin về khối lượng dự kiến khớp có mức độ chính xác không cao, không phản ánh đầy đủ và kịp thời tình hình giao dịch trên thị trường vào thời điểm hiện hành.
Bên cạnh những ưu điểm về tính kịp thời, tiện lợi cho NĐT phương tiện CBTT này theo một số chuyên gia cũng bộc lộ nhiều nhược điểm. Đáng kể là một số NĐT căn cứ vào thông tin diễn biến giao dịch để làm gía trên thị trường. Thực tế tại các phiên giao dịch mà giá chứng khoán có xu hướng tăng, đầu phiên có một số lệnh được đặt bán với giá trần, nhưng sau đó ít phút hoặc trước giờ khớp lệnh lại bị hủy làm cho số lượng chào bán sụt giảm khiến người mua thất vọng.Còn tại những phiên giá chứng khoán đang trên đà giảm cho đến gần cuối phiên cổ phiếu đặt mua với giá trần cũng rất lớn tạo ấn tượng cầu rất cao nhưng trước thời điểm khớp lệnh một số lượng lớn cổ phiếu đặt mua đã bị hủy làm cầu đột ngột sụt giảm. Chưa biết những lệnh đột ngột bị hủy kia có phải là của giới đầu cơ hay không nhưng với cách CBTT như hiện nay thì sự việc đó diễn ra là hoàn toàn tất yếu.
Ngoài ra, trong một số phiên( trường hợp này rất hiếm) khi có quá nhiều lệnh nhập vào hệ thống giao dịch tập trung vào thời điểm sát giờ khớp lệnh (10h 00) màn hình hiển thị thông tin khối lượng dự kiến khớp trên hệ thống giao dịch có thể chưa cập nhật kịp nên dẫn đến sự sai lệch khối lượng dự kiến khớp so với khối lượng giao dịch.Tuy nhiên các thông tin về kết quả giao dịch vẫn được hệ thống giao dịch hiển thị chính xác trên các màn hình khác vàTTGDCK công bố kịp thời ngay sau khi phiên giao dịch kết thúc.
2.2.2.3 Đánh giá quá trình tiếp nhận, xử lý, lưu trữ và cung cấp công bố thông tin
Trong thời gian qua hoạt động CBTT đã được điều chỉnh bằng một khung pháp lý tương đối cụ thể là quy chế 79, quy trình công bố thông tin tại TTGDCK Tp.HCM. Bên cạnh đó là các biện pháp chế tài đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực CBTT được quy định tại Nghị định 22/2000/NĐ-Cặ PHIếU của chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Mới đây được sự hướng dẫn của TTGDCK Tp.HCM, các công ty niêm yết đã tiến hành ban hành "quy trình công bố thông tin nội bộ".Trong đó quy rõ trách nhiệm của nhân viên CBTT và các phòng ban có liên quan.
Về hình thức thể hiện và nội dung của các thông tin thị trường được công bố cũng đã dần đi vào hoàn thiện. Đến thời điểm hiện nay, nội dung các vấn đề phát sinh cần được công bố phần lớn đã được cập nhật và công bố ra thị trường. Hình thức thể hiện được công bố rõ ràng, dễ hiểu và tập trung vào trọng tâm các sự kiện phát sinh mà theo quy định của pháp luật buộc phải công bố, các phương tiện công bố thông tin ngày càng phong phú và đa dạng. Cho đến nay, hầu hết các phương tiện công bố thông tin thị trường ở các Sở giao dịch chứng khoán đều được áp dụng tại TTGDCK Tp.HCM như thông qua bảng điện tử, ấn phẩm, trang web, fax…
Bản tin TTCK của TTGDCK Tp.HCM là bản tin chính thức duy nhất của TTCK Việt nam và cũng là bản tin được các NĐT tin tưởng và coi là chuẩn mực về thông tin trong vô vàn tin"nhiễu" và tin "giả" trên thị trường. Không những thế TTGDCK còn là cơ quan kiểm tra việc CBTT của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch
Tuy nhiên, trên thống CBTT tại TTGDCK Tp.HCM vẫn còn nhiều hạn chế nhất định đặc biệt là thời gian đầu thị trường đi vào hoạt động. Khi đó hệ thống CBTT mới chỉ có 3 kênh:các bảng biểu, bảng tin,và hệ thống báo chí.Hệ thống bảng điện tử của các công ty chứng khoán chưa có sự đồng nhất do được trang bị theo khả năng tài chính riêng của từng công ty và ngay cả bảng điện tử của TTGDCK khi công bố mức giá cũng chỉ đưa ra được giá mua/bán tốt nhất và khối lượng tương ứng chư chưa thể hiện đầy đủ các mức giá. Trên các báo có nhiều đánh giá khác nhau về một động thái của thị trường đôi khi có những bình luận chưa chính xác.Điển hình là thời gian gần đây TTGDCK đã cốgắng nhắc nhở những thông tin chậm hay thiếu chính xác, không đầy đủ của các công ty niêm yết. Đối với kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết trong năm 2003, trung tâm đã khắc phục hạn chế của trang tin cho tóm tắt đăng tải một cách nhanh chóng .Nhưng thời gian gần đây nhiều thông tin sai lệch kéo dài trên bản tin này đã khiến các NĐT không yên tâm.
Trong mục thống kê cổ tức của công ty LAFOOCO( cổ phiếu LAF) đã trả trong năm 2003 tại bản tin số 1 năm 2004 có ghi là 1800đồng/một cổ phiếu. Cũng nội dung này nhưng ở bản tin số 2 năm 2004 sau đó mức cổ tức đã trả 2003 của LAF được ghi là 900đồng.Số liệu trên vẫn tiếp tục được cập nhật liên tục 10 số báo tiếp theo.Số liệu thống kê trừ lùi"room" cho các NĐT nước ngoài nhiều khi cũng chậm được cập nhật.Tổng khối lượng cổ phiếu đặt mua hay bán trong ngày thì nhầm lẫn hoặc dùng số liệu ngày hôm trước cập nhật cho hôm sau là chuyện hay xảy ra. Đơn cử trong bản tin số 2 năm 2004 thống kê cho phiên giao dịch ngày 5 tháng 1 năm 2004: Cột tổng khối lượng cổ phiếu đặt mua trong ngày là 527.500, khối lượng bán trong ngày là 248.330 nhưng bản tin số 3 năm 2004 sau đó đưa tin cho phiên giao dịch ngày 6 tháng 1 năm 2004 các số liệu trên vẫn "y nguyên"
Một vấn đề quan trọng phản ánh tình hình chung về thực trạng hệ thống CBTT của TTGDCK hiện nay là còn quá phụ thuộc vào thông tin, dữ liệu do công ty niêm yết công bố. Hiện trung tâm chưa thành lập một cơ sở dữ liệu để kiểm tra đối chiếu với thông tin do tổ chức niêm yết cung cấp, thiếu hẳn cơ chế để thực hiện hoạt động này.
Khi những thành tựu về công nghệ thông tin chưa được áp dụng một cách rộng rãi thì CBTT qua fax được xem là một giải pháp tối ưu.Nội dung của thông tin công bố qua fax thường bao gồm: kết quả giao dịch hàng ngày, các công bố thông tin của tổ chức niêm yết, các quyết định về quản lý điều hành thị trường của UBCKNN, TTGDCK Tp.HCM …Mặc dù việc CBTT qua fax có ưu điểm là tiện lợi, xử lý đơn giản song lại bị hạn chế về mặt số lượng và chất lượng thông tin. Phương thức này chủ yếu thực hiện bằng thủ công nên không thể cung cấp cùng một lúc cho nhiều đối tượng sử dụng.Thông thường các thông tin được gửi qua đường cho công ty chứng khoán và sau đó các công ty này cung cấp cho NĐT ở sàn giao dịch. Như vậy, dễ tạo nên khả năng sai lệch thông tin do NĐT tiếp nhận thông tin một cách gián tiếp.Hơn nữa các bản fax thường kém chất lượng, các dữ liệu số liệu đôi khi không rõ ràng.
Do việc fax thường sử dụng đường truyền điện thoại và việc trang bị máy móc còn kém nên việc ách tắc, nghẽn mạch xảy ra là khó tránh khỏi. Vì vậy, trong một số trường hợp thông tin công bố không đáp ứng được quy định về thời gian.
Sau một thời gian đi vào hoạt động, việc CBTT qua trang web của TTGDCK Tp.HCM(địa chỉ:www.hcmcstc.org.vn/giao dich.html) đã đóng vai trò đáng kể trong việc cung cấp thông tin về giao dịch chứng khoán cho công chúng đầu tư từng bước góp phần đưa TTCK Việt nam hoạt động công bằng công khai , hiệu quả và đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay khi TTCK Việt nam đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới thì việc nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp và công bố các loại thông tin trên thị trường là một việc làm cần thiết và chính đáng từ phía công chúng đầu tư.
Tờ tin TTCK từ TTGDCK là tờ phát ngôn của cơ quan quản lý TTCK. Do vậy, những thông tin đăng tải trên tờ này không chỉ thể hiện ý chí của cơ quan quản lý mà còn đáp ứng nhu cầu thông tin của người đọc cả về nội dung chất lượng in ấn và phạm vi chuyển tải thông tin.
Sau khi thực hiện giao dịch 5 phiên/tuần, TTGDCK Tp.HCM đã chuyển từ việc cung cấp 1 tuần 3 bản tin sang cung cấp thông tin theo ngày giao dịch. Đây là bước tiến mới trong việc cung cấp thông tin giúp NĐT tiếp cận được với thông tin mới nhất và chuẩn xác về TTCK.Trên tờ bản tin này ngoài phần phản ánh những diễn biến giao dịch TTGDCK còn cập nhật hàng ngày các chỉ tiêu tài chính như tỷ lệ cổ tức, EPS, P/E, cổ tức/thị giá của từng loại cổ phiếu. Đối với nhiều người, đây là mảng thông tin quan trọng quyết định đến khả năng lựa chọn đầu tư nhưng với nhiều người khác thông tin này chỉ đọc cho vui vì chưa có sự giải thích rõ ràng về từng chỉ tiêu này.
Phần được người đọc quan tâm nhất trên tờ bản tin là những thông tin mới từ TTGDCK. Tuy nhiên nhiều người đọc không cảm thấy thỏa mãn khi TTGDCK đưa ra những thông tin quan trọng về mặt chính sách nhưng lại không kèm theo lời giải thích nào. Ngoài ra, việc phát hành tờ tin còn giới hạn trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh, các NĐT ở Hà Nội và các nơi khác chỉ tiếp cận tờ tin tại trụ sở hoặc chi nhánh của các công ty chứng khoán nhận bằng fax nên chất lượng rất kém, mờ nhạt…
Theo một số nhà phân tích cho rằng việc phân tích cụ thể tình hình giao dịch thị trường hay tình hình công ty niêm yết nên để công ty chứng khoán làm. Bản tin từ TTGDCK với chức năng phát ngôn của cơ quan quản lý nên đưa ra các bài viết mang tính phổ cập kiến thức. Các bài viết của Trung tâm không nên quá tập trung vào những diễn biến cụ thể vì dễ tạo ra trào lưu cùng mua hoặc cùng bán trong giới đầu tư
Hiện nay, hàng tháng TTGDCK Tp.HCM đã phát hành tờ Thống kê thị trường với nội dung chủ yếu là điểm các thông tin đã được công bố trong tháng, tổng kết các số liệu, dữ liệu về kết quả giao dịch trong tháng, các báo cáo tài chính của tổ chức niêm yết. Về hình thức và nội dung tờ thống kê thị trường trình bày tương đối hợp lý, các số liệu được thống kê tỉ mỉ và phân theo những tiêu chí cụ thể, dễ đọc, dễ hiểu. Tuy nhiên, do mang tính chất thống kê, cập nhật nên tờ Thống kê thị trường chỉ đáp ứng nhu cầu tổng hợp, phân tích của các nhà nghiên cứu theo dõi thị trường và các NĐT dài hạn. Các thông tin cung cấp chậm vì vậy hầu như không tác động đến tình hình giao dịch trên thị trường
Ngoài các phương tiện trên TTGDCK Tp.HCM còn cung cấp và công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên bảng quảng cáo đặt trước cửa trung tâm. Theo nhận xét của nhiều người thì bảng quảng cáo này quá nhỏ, nội dung thông tin quá ít( chỉ bao gồm chỉ số VN Index, giá khớp lệnh,khối lượng giao dịch của từng loại chứng khoán ). Chính vì vậy, bảng quảng cáo ít thu hút được sự chú ý theo dõi của NĐT
Thiết nghĩ, để xây dựng TTCK nước nhà bên cạnh nỗ lực đưa ra những giải pháp cụ thể , công tác thông tin dư luận cần đặt lên hàng đầu,công tác này có tốt thì người đọc mới hiểu và đặt niềm tin và thị trường được
2.2.3 Thực trạng công bố thông tin của Uỷ ban chứng khoán nhà nước
Trong thời gian vừa qua, UBCKNN đã cố gắng trong lĩnh vực này từ việc luật hóa những thông tin bắt buộc các đối tượng tham gia thị trường phải công bố đến những hoạt động khác nhau như đào tạo miễn phí và thu phí, tuyên truyền qua truyền hình, báo chí, xuất bản tạp chí, tổ chức một số buổi đối thoại giữa TTGDCK với công ty chứng khoán, công ty niêm yết, NĐT …Tuy nhiên, thông tin về thị trường trong thời gian qua chưa thực sự thỏa mãn NĐT một phần do chất lượng thông tin và quy trình CBTT chưa hoàn chỉnh, một phần do hệ thống thông tin chuyên ngành chưa phát triển
Mặc dù công tác thông tin, tuyên truyền được coi là khâu thiết yếu trong hoạt động chứng khoán trong đó tiếng nói của UBCKNN là tiếng nói chính thức để tạo niềm tin cho NĐT. Thế nhưng đến nay, UBCKNN vẫn chưa ra được bản tin phát hành đại chúng mà chỉ có một tờ tạp chí chứng khoán với lượng phát hành rất hạn chế.
Như chúng ta đã biết, các công ty niêm yết hàng tháng và hàng quý đều phải công bố việc thực hiện kế hoạch kinh doanh. Nhà nước hàng tháng cũng có đánh giá về mức hoàn thành kế hoạch kinh tế đã đề ra vậy tại sao UBCKNN lại không có kế hoạch báo cáo trước công chúng việc thực hiện kế hoạch đã đề ra. Trong khi các NĐT dựa vào báo cáo kinh doanh của các công ty mà quyết định đặt niềm tin vào họ, còn quần chung đông đảo thì dựa vào sự hoàn thành kế hoạch của UBCKNN để tham gia TTCK
Ngoài ra, còn phải kể đến sự thiếu kết hợp giữa UBCKNN với các cơ quan khác. Trong khi tin giao dịch của các TTCK thế giới được phát liên tục thì các bản tin hàng ngày của các phiên giao dịch chứng khoán trên truyền hình lại bị cắt đi. Tình trạng này dẫn đến một thực tế nhiều người vẫn cho là TTGDCK Tp.HCM mở ở Tp.HCM thì ở Hà Nội không thể mua, bán chứng khoán được!
Để phát triển thị trường chứng khoán hiện nay, bên cạnh các biện pháp tăng cung, kích cầu như đã đề cập thì UBCKNN cần tích cực, chủ động hơn trong công tác tuyên truyền, quảng bá về chứng khoán và TTCK, từng bước hoàn thiện hệ thống CBTT để tạo ra một thị trường công khai, công bằng và minh bạch.
2.2.4 thực trạng công bố thông tin của công ty chứng khoán
2.2.4.1 Quy trình nhận và công bố thông tin của công ty chứng khoán
Sơ đồ 8:Quy trình nhận và CBTT của công ty chứng khoán
TTGDCK Tp.HCM
Cty CK
Nhà đầu tư
Bảng điện tử
Cty
niêm yết
2.2.4.2 Đánh giá hoạt động CBTT của công ty chứng khoán
a/ Ưu điểm
Qua 4 năm hoạt động, hoạt động CBTT của các công ty chứng khoán từng bước đi vào ổn định và ngày càng có hiệu quả. Chất lượng CBTT không ngừng được nâng cao, đặc biệt những thông tin đã được xử lý, phân tích bởi công ty chứng khoán. Các phương tiện CBTT ngày càng phong phú và không ngừng được cải thiện. Mặc dù,các phương tiện CBTT khác nhau giữa các công ty chứng khoán nhưng với nỗ lực của mình các công ty chứng khoán đã cung cấp kịp thời đến NĐT các thông tin nhận được từ TTGDCK
Đã có một vài công ty chứng khoán( Sài Gòn, Bảo Việt, á Châu) bước đầu đã cố gắng cung cấp cho khách hàng những bản tin liên quan đến chứng khoán và TTCK do công ty tự xử lý, xây dựng trên cơ sở những thông tin nhận được.Các công ty chứng khoán này đã tập hợp thông tin từ nhiều nguồn tin chính thức khác nhau như từ các tổ chức phát hành chứng khoán, từ các chủ thể tham gia thị trường và từ chính điều tra của bản thân công ty.
Có thể nói, phương thức và nội dung thông tin được công bố như vậy là tương đối phù hợp với điều kiện TTCK Việt nam trong giai đoạn hiện nay và thể hiện phương thức rất đặc trưng của mỗi công ty cũng như tính chuyên nghiệp của mình khi tham gia trên thị trường
b/ Hạn chế
Quy trình CBTT tại các công ty chứng khoán còn rất sơ sài, thậm chí một số công ty chứng khoán không có quy trình CBTT. Tính chuyên nghiệp của một số công ty này chưa cao. Thực tế, một số công ty chỉ đóng vai trò trung chuyển và cung cấp thông tin đã được TTGDCK cung cấp mà chưa thực hiện việc xử lý, phân tích. Do các phương tiện cung cấp thông tin của mỗi công ty khác nhau nên chưa đảm bảo tính công bằng trong việc tiếp nhận thông tin. Ngoài ra, hệ thống CBTT chưa hoàn chỉnh, phương tiện dùng để CBTT chỉ dưới dạng hình thức văn bản, máy fax, thư điện tử nên việc cung cấp thông tin đôi khi gặp trục trặc
Sự phối hợp trong các kênh CBTT giữa các tổ chức niêm yết,UBCKNN và TTGDCK, các công ty chứng khoán thành viên và các tổ chức có liên quan khác chưa chặt chẽ và còn nhiều vướng mắc. Bên cạnh đó, thông tin từ các công ty chứng khoán còn nghèo nàn,tình hình tài chính, hoạt động nghiệp vụ đặc biệt giao dịch môi giới và tự doanh của các công ty …hầu như ít được công bố mặc dù pháp luật có quy định về vấn đề này
Bên cạnh đó, cũng có công ty chứng khoán thực hiện cung cấp thông tin cho NĐT một cách thụ động bằng cách tập hợp tin từ các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí trong và ngoài nước và các nguồn tin không chính thức khác…chính điều này dễ gây sự hiểu lầm cho NĐT khi đưa ra các quyết định đầu tư
Hiện nay, một số công ty chứng khoán vẫn chưa thực sự thực hiện được vai trò cầu nối của mình trên TTCK cũng bởi vì những tồn tại thiếu đồng bộ và nhất quán trong các quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK và cách thức thực thi vấn đề này như đã nói ở trên.Nhiều công ty chứng khoán có bộ phận tự doanh tham gia mua,bán chứng khoán thì liệu các thông tin cung cấp cho NĐT có kịp thời và chính xác? Vì vậy, cần quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ phải cung cấp thông tin của các tổ chức phát hành và các bên tham gia khác trên thị trường một cách kịp thời và công bằng đối với các công ty chứng khoán. Điều này sẽ giúp các công ty chứng khoán thực hiện đúng hoạt động CBTT của mình và tạo lòng tin cho NĐT tham gia trên thị trường, từ đó tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện của TTCK trong tương lai.
2.3 đánh giá chung hệ thống CBTT tại TTGDCK Tp.HCM
2.3.1 ưu điểm
Trong hoạt động TTCK thông tin đầy đủ và công bằng là một yếu tố vô cùng quan trọng vì đây là cơ sở chủ yếu để các NĐT quyết định mua-bán chứng khoán. Xét về tổng thể, công tác thông tin thị trường trong thời gian qua đã được cải thiện nhiều, vượt qua khó khăn để tạo nên những thành quả đáng ghi nhận.
2.3.1.1 Về môi trường pháp lý
Đã hình thành một khung pháp lý gồm hệ thống các văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động CBTT trên TTCK đó là:
-Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đây là văn bản chủ đạo có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động kinh doanh chứng khoán và giải quyết được những vấn đề bất cập trong nghị định 48/1998/NĐ-CP trước đây. Nghị định 144 của Thủ tướng Chính phủ đã giúp cho khung pháp lý về chứng khoán và TTCK được hoàn thiện hơn đồng thời tạo ra nhiều thuận lợi hơn cho thị trường phát triển. Qua đó góp phần thể hiện sự quan tâm của Chính phủ trong việc xây dựng một TTCK lớn mạnh sánh vai với các TTCK khu vực.Việc ra đời của Nghị định 144 đồng nghĩa với việc ra đời một khung pháp lý ổn định, thông thoáng hơn chắc chắn điều này sẽ có tác động hết sức tích cực đến các chủ thể tham gia trên TTCK.Các quy định về CBTT theo nghị định 144/CP rõ ràng hơn, ràng buộc trách nhiệm của các công ty niêm yết, công ty quản lý quỹ, công ty chứng khoán… nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho NĐT.
-Nghị định số 22-2000/NĐ-CP ngày 10/07/2000 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Nó là cơ sở pháp lý để tiến hành xử lý các hành vi vi phạm trên TTCK mà chưa tới mức phải truy tố hình sự, trong đó có hành vi vi phạm trong lĩnh vực CBTT .
-Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán,ban hành kèm theo quyết định số 79/2000/QĐ-UBCK của Chủ tịch UBCKNN ngày 29/12/2000.
-Quy trình công bố thông tin tại TTGDCK Tp.HCM,ban hành kèm theo quyết định số 67/2000/QĐ-TTGD1 ngày 21/10/2000 của Giám đốc TTGDCK Tp.HCM .
-Hướng dẫn thực hiện CBTT của tổ chức niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM ban hành ngày 22/02/2002.
Như vậy, có thể thấy các văn bản về CBTT hiện nay đã tạo nên cơ sở pháp lý cho hoạt động CBTT của các chủ thể quan trọng trên thị trường, đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các hoạt động giám sát sự tuân thủ pháp luật đối với hoạt động này nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32722.doc