Chuyên đề Thu-Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước

Nhờ nguồn thu tăng, ngân sách Trung ương đã bổ sung tăng chi đầu tư phát triển 1.150 tỷ đồng và bổ sung vốn xử lý khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành một số dự án quốc gia quan trọng. Bên cạnh đó trong năm 2005, Chính phủ đã phát hành 13.401 tỷ đồng công trái và trái phiếu để tăng vốn thực hiện kiên cố hoá trường, lớp học và giao thông, thuỷ lợi trọng điểm.

Tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước năm 2005 là 85.358 tỷ đồng, bằng 31,9 tổng chi ngân sách Nhà nước và 10,2% GDP.

Các khoản chi trả nợ, chi sự nghiệp, bảo đảm quốc phòng an ninh, quản lý cũng đạt bằng và vượt dự toán và báo cáo, tổng cộng khoảng 170.000 tỷ đồng. ngân sách Nhà nước bổ sung chủ yếu vào khắc phục thiên tai, phòng chống, khắc phục hậu quả dịch bệnh ở người, gia cầm, các khoản phát triển sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, thể dục thể thao.

Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội, số tăng thu ngân sách Nhà nước so với dự toán dự kiến kà 28.520 tỷ đồng, Quốc hội đã cho phép sử dụng gần 20.000 tỷ để hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu nhập khẩu, thực hiện không tăng lớn giá bán trong nước khi giá thế giới tăng, thực hiện 2.820 tỷ đồng thực hiện mức lương tối thiểu 350.000 người/tháng từ 1/10/2005, dành 6.000 tỷ đồng chuyển sang năm 2006 thực hiện cải cách tiền lương.

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2690 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Thu-Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
140 khoản phí thuộc các bộ ngành TW và 105 khoản phí thuộc các địa phương đã làm giảm chi phí xã hội khoảng 1.000 tỷ đồng mỗi năm. Thu NSNN năm 2004 dự kiến đạt 166.900 tỷ đồng, vượt dự toán 11,8%, tăng 17,4% so với năm 2003 và tương đương 22,7% GDP. Trong số tăng thu, số tăng từ dầu thô, nhà đất chiếm tỷ trọng lớn.  3.Những thách thức trong cân đối ngân sách thời gian qua  Năm 1996 luật NSNN ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phương pháp điều hành tài khóa. Nhìn chung chúng đã giúp cải thiện rất lớn tình hình ngân sách những năm qua. Tuy vậy, liên tiếp từ năm 1999 đến nay, bội chi ngân sách tính trên GDP tăng liên tục, năm 1999 là 4,9%; năm 2000 là 5%, điều này cũng cho thấy chính sách nới lỏng tài khóa đã được thực hiện. Nhưng xét về hình thức thì lại xuất hiện mâu thuẫn giữa tốc độ tăng chi đầu tư xây dựng cơ bản chậm, tỷ lệ giải ngân vốn còn thấp với chủ trương tăng chi ngân sách cho đầu tư phát triển nhằm kích thích tổng cầu nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Chính những bất cập trong lĩnh vực đầu tư và cấp phát vốn đầu tư từ NSNN đã cho thấy những dấu hiệu cảnh báo cần thận trọng khi sử dụng chính sách tài khóa nới lỏng. Tăng mức chi ngân sách cho đầu tư phát triển là chủ trương đúng, là biện pháp kinh tế có thể làm tăng tổng cầu, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng bội chi tăng thêm phải được sử dụng cho những công trình có hiệu quả, tạo sản phẩm, hàng hóa dịch vụ cho nền kinh tế, vừa tích luỹ tài chính tạo nguồn để trả nợ, bù đắp bội chi; hoặc phải sử dụng bội chi để đầu tư vào những công trình xây dựng cơ bản tạo môi trường thuận lợi cho kinh doanh. Tuy nhiên, khi quan sát diễn biến thực tế chi NSNN thời gian qua chúng ta có thể nhận thấy chính sách tài khoá được điều hành dưới áp lực chống lạm phát. Do đối mặt với những khó khăn về nguồn thu, tiềm lực tài chính, tâm lý lo ngại nguy cơ giá cả tăng vọt không kiểm soát được, tình trạng lãng phí. Ngân sách đã được điều hành theo chủ trương thắt chặt chi tiêu tiến hành tiết kiệm, cắt giảm chi thường xuyên.  Trong giai đoạn 2001-2003 bội chi NSNN năm 2001 là -4,67%, sang năm 2002 có tăng đôi chút là -4,96% và trong năm 2003 là -5,0% so với GDP, như vậy mức thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây đều nằm trong phạm vi cho phép (là mức đã được Quốc hội thông qua) và không gây mất ổn định kinh tế vĩ mô. Để bù đắp cho các khoản thiếu hụt này Chính phủ đã vay nợ trong nước bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu khoảng 60% và bù đắp bội chi từ bên ngoài ở mức xấp xỉ 39%-40%. Bên cạnh việc đạt được những kết quả tích cực, thu chi NSNN vẫn còn không ít tồn tại, cần có những thay đổi cơ bản.  ° Tình trạng thất thu còn khá phổ biến, hiệu quả kiểm soát nguồn thu ngân sách còn hạn chế. Thu NSNN vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các biến động theo thị trường thế giới như dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu. Theo những đánh giá của IMF, hoạt động ngân sách trong một số năm nay là tích cực, ngoài ra, do có nguồn thu lớn từ dầu thô cho nên vị thế về trung hạn của ngân sách là có thể kiểm soát được, miễn là hoạt động cho vay lại và các khoản nợ nằm ngoài ngân sách được kiểm soát chặt chẽ.Tuy nhiên trong năm gần đây cũng ghi nhận những chuyển biến, theo đó cơ chế quản lý tài chính được sửa đổi theo hướng minh bạch và tăng cường tự chủ tài chính, gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách, tạo cơ sở cho việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công trong những năm tới. ° Việc hoàn thuế và kiểm tra hoàn thuế còn nhiều bất cập. Vấn đề không hoàn thành các mục tiêu đề ra là cần phải xem xét. Như vậy, trong bối cảnh tiến hành hội nhập với những biến động phức tạp của thị trường thế giới thì đây là dấu hiệu cảnh báo về quản lý NSNN. Nguồn thu ngân sách qua các năm không ổn định và Thực hiện công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN là một giải pháp cấp bách trong quá trình hội nhập. Nhất là khi đường lối chủ động hội nhập quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế quan được công khai.  ° Bên cạnh những nhiệm vụ chi thực hiện sát với dự toán, một số nhiệm vụ chi tăng so với dự toán là cần thiết như tăng chi sự nghiệp kinh tế để khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ nông dân khắc phục hậu quả của dịch bệnh cúm gia cầm và khôi phục sản xuất chăn nuôi; tăng chi đầu tư phát triển; một số địa phưng đã chủ động bố trí vốn trong dự toán ngân sách năm 2004 để thanh toán nợ xây dựng cơ bản… Tuy nhiên, những tồn tại trong quản lý ngân sách còn lớn như nhiều địa phương bố trí vốn còn phân tán; sử dụng ngân sách lãng phí; việc sử dụng vốn trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng trường, lớp học chưa hiệu quả, vốn huy động phi lãi suất chưa được sử dụng kịp thời, thường xuyên bị tồn đọng ở mức lớn.  ° Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn dàn trải, sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ thất thoát lớn khi mà nợ xây dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN cao là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế – xã hội và kết quả cân đối ngân sách nhưng vẫn chậm được xử lý.  II. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn 2004- 2006: 1. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2004: Năm 2004, cả nước sẽ “thu” 152.920 tỉ đồng Theo quyết định của Quốc hội (QH), trong năm 2004 tổng số thu cân đối ngân sách trung ương là 107.777 tỉ đồng, chiếm 70,5% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước; tổng số thu cân đối ngân sách địa phương là 45.143 tỉ đồng, chiếm 29,5% tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước. Tổng số chi cân đối ngân sách T.Ư là 142.527 tỉ đồng. Sau khi bổ sung cân đối, bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương thì tổng số thực chi cân đối ngân sách T.Ư là 106.890 tỉ đồng, chiếm 57% tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước. Tổng số thực chi cân đối ngân sách các địa phương (bao gồm cả bổ sung từ ngân sách T.Ư cho ngân sách địa phương) là 80.780 tỉ đồng, chiếm 43% tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước. Chi 6.600 tỉ cho cải cách tiền lương Dự toán chi ngân sách T.Ư (kể cả bằng nguồn vay nợ, viện trợ) theo lĩnh vực năm 2004 như sau: tổng số chi cân đối ngân sách T.Ư 142.527 tỉ đồng. Trong đó chi ĐTXDCB 28.992 tỉ đồng; chi bổ sung quĩ hỗ trợ xuất khẩu, thưởng xuất khẩu, hỗ trợ xuất khẩu cho một số mặt hàng quan trọng 300 tỉ đồng; chi cho vay tôn nền nhà và làm nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, cho vay làm nhà đồng bào Tây nguyên 300 tỉ đồng. Đầu tư cho Tổng công ty Dầu khí 2.500 tỉ đồng; chương trình 135: 1.550 tỉ. Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh: 48.529 tỉ đồng. Trong đó, chi cải cách tiền lương: 6.600 tỉ, quản lý hành chính 3.154 tỉ, tinh giản biên chế: 300 tỉ; chi giáo dục, đào tạo, dạy nghề: 4.558 tỉ; chi phát thanh, truyền hình: 493 tỉ; chi khoa học, công nghệ: 1.732 tỉ; chi lương hưu và bảo đảm xã hội: 14.262 tỉ đồng. 2. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2005: So với kết quả tạm tính vào cuối năm 2005, báo cáo mới đây của Chính phủ cho biết, tình hình cân đối thu chi ngân sách đầy đủ của năm 2005 và cả nhiệm vụ ngân sách Nhà nước năm 2006 đã có những dấu hiệu tích cực trên nhiều mặt. Trên cơ sở cân nhắc kết quả, khả năng và tình hình mới, Chính phủ đã đề nghị tăng nhiều khoản thu chi trong quyết toán, nhiệm vụ ngân sách Nhà nước trong giai đoạn tới.Theo báo cáo, kết quả thực tế thu cân đối ngân sách Nhà nước năm 2005 là 217.080 tỷ đồng, vượt hơn 7.000 tỷ đồng so với mức báo cáo và vượt 18,6% (34.080 tỷ đồng) so với dự toán. Tên(+) Tổng thu Tổng chi QuảngNinh 3.596 1.084 Hà Nội 22.439 4.156 Hải Phòng 8.304 1.612 VĩnhPhúc 2.142 691 Đà Nẵng 2.435 1.092 KhánhHòa 2.595 1.063 TP.HCM 47.457 9.288 Đồng Nai 5.209 1.775 BìnhDương 3.103  989 TâyNinh   802 704 Vũng Tàu 32.441  2.153   Long An  925 867 Tiền Giang 900 893 Vĩnh Long 700 635 Cần Thơ 1.562 1.146 Cụ thể, thu nội địa (không kể dầu thô) đạt 115.205 tỷ đồng vượt gần 10 tỷ đồng so với dự toán. Đặc biệt, thu dầu thô dự toán chỉ 38.000 tỷ, báo cáo 55.500 tỷ nhưng thực tế đạt tới 61.533 tỷ, tăng 31,7% so với thực hiện năm 2004. Các khoản thu khác cũng đều vượt tương tự: thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 38.000 tỷ, vượt 300 tỷ đồng so với dự toán và báo cáo, thu viện trợ không hoàn lại đạt 2.342 tỷ đồng, tăng 142 tỷ so với con số báo cáo. Nhiều khoản thu vượt mong đợi Nhiều địa phương kết quả thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng khá so với dự toán được giao: Bình Phước vượt 48,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu 48,1%, Hải Dương 44,2%, Quảng Ninh 40,4%, Đà Nẵng 34,4%, Bình Dương 33,2%, Hà Tây 30,5%, Hưng Yên 29,4%, Tp.HCM 7,1%... Như vậy, trong số thu nội địa các khoản thu từ khu vực kinh tế quốc doanh, công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, thu từ nhà và đất đều có kết quả thực hiện tăng khá so với dự tính (tăng 3.234 tỷ đồng).Ngoài ra, cũng phải kể đến các khoản thu từ doanh nghiệp FDI, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, phí và lệ phí, phí xăng dầu đã không đạt mức mong muốn, tấp hơn 3.029 tỷ đồng so với báo cáo. Trong khi đó, chi phí đầu vào cuối năm 2005 tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp một số doanh nghiệp bị giảm sút. Vượt chi do tiền lương, đầu tư phát triển Kết quả thực hiện dự toán chi ngân sách Nhà nước cũng cho thấy đã vượt so với con số tạm tính khá nhiều. Mức báo cáo cuối năm 2005 là 250.470 tỷ đồng được Chính phủ xin bổ sung là 254.385 tỷ đồng, vượt 10,7% (tương đương 24.635 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 20,8% so với thực hiện năm 2004. Trong đó, một nguyên nhân quan trọng là tổng chi ngân sách Nhà nước, bao gồm số chuyển nguồn từ năm 2004 sang năm 2005, từ năm 2005 sang 2006 để thực hiện cải cách tiền lương và các nhiệm vụ theo chế độ quy định là 264.860 tỷ đồng, vượt 15,3% so với dự toán, và tương ứng với số tăng thu ngân sách Nhà nước. Chi đầu tư phát triển thực tế đạt 71.957 tỷ đồng, vượt gần 2 tỷ so với báo cáo và 9% so với dự toán, chiếm 28,3% tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước, đạt mức 8,5% GDP, tăng 14,9% so với năm trước. Nhờ nguồn thu tăng, ngân sách Trung ương đã bổ sung tăng chi đầu tư phát triển 1.150 tỷ đồng và bổ sung vốn xử lý khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành một số dự án quốc gia quan trọng. Bên cạnh đó trong năm 2005, Chính phủ đã phát hành 13.401 tỷ đồng công trái và trái phiếu để tăng vốn thực hiện kiên cố hoá trường, lớp học và giao thông, thuỷ lợi trọng điểm. Tổng chi đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước năm 2005 là 85.358 tỷ đồng, bằng 31,9 tổng chi ngân sách Nhà nước và 10,2% GDP. Các khoản chi trả nợ, chi sự nghiệp, bảo đảm quốc phòng an ninh, quản lý cũng đạt bằng và vượt dự toán và báo cáo, tổng cộng khoảng 170.000 tỷ đồng. ngân sách Nhà nước bổ sung chủ yếu vào khắc phục thiên tai, phòng chống, khắc phục hậu quả dịch bệnh ở người, gia cầm, các khoản phát triển sự nghiệp giáo dục, khoa học công nghệ, thể dục thể thao. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội, số tăng thu ngân sách Nhà nước so với dự toán dự kiến kà 28.520 tỷ đồng, Quốc hội đã cho phép sử dụng gần 20.000 tỷ để hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu nhập khẩu, thực hiện không tăng lớn giá bán trong nước khi giá thế giới tăng, thực hiện 2.820 tỷ đồng thực hiện mức lương tối thiểu 350.000 người/tháng từ 1/10/2005, dành 6.000 tỷ đồng chuyển sang năm 2006 thực hiện cải cách tiền lương. 3. Ngân sách Nhà nước năm 2006: Khởi đầu khó khăn Thu ngân sách Nhà nước 4 tháng qua ước đạt 77.455 tỷ đồng, bằng 32,6% dự toán, đạt tiến độ thu thấp so với cùng kỳ một số năm gần đây (đều trên 33-34%), trong đó, thu nội địa chỉ tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chính là do ảnh hưởng từ sự trầm lắng của thị trường nhà đất, sản lượng tiêu thụ ôtô giảm mạnh. Duy chỉ có thu ngân sách Nhà nước từ khối doanh nghiệp FDI tăng mạnh, đạt 26,9% so với dự toán, thu từ dầu thô bằng 34,1% dự toán năm, đạt 21.638 tỷ đồng. Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu cũng gặp nhiều khó khăn, ước thực hiện 4 tháng qua đạt 12.525 tỷ đồng, bằng 31,3% dự toán, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Lý do chính là kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt 8,5 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ, đặc biệt là những mặt hàng có thuế cao như ôtô, linh kiện ô tô giảm 50%, thép 20%, xăng dầu giảm 12%, phân bón 5,6%, vì vậy, số thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng. Cân đối ngân sách Nhà nước ước 12.675 tỷ đồng, bằng 26,1% mức bội chi Quốc hội quyết định, được bù đắp bằng vay trong nước 8.975 tỷ đồng, vay nước ngoài 3.700 tỷ đồng.  Năm 2006: Thực tế bội chi ngân sách năm 2006 là 48.613 tỉ đồng Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 350.842 tỉ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2005 sang năm 2006 là 50.739 tỉ đồng; số thu từ quỹ dự trữ tài chính là 126 tỉ đồng; số thu từ việc huy động vốn đầu tư của ngân sách địa phương theo khoản 3, Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước là 9.572 tỉ đồng; số thu kết dư của ngân sách địa phương là 10.934 tỉ đồng. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước 385.666 tỉ đồng, bao gồm cả số kinh phí đã xuất quỹ ngân sách năm 2006. Số chi chuyển nguồn từ năm 2006 sang năm 2007 là 77.608 tỉ đồng.  Mức bội chi ngân sách nhà nước là 48.613 tỉ đồng, bằng 5% tổng sản phẩm trong nước; trong đó nguồn bù đắp bội chi vay trong nước 35.864 tỉ đồng, vay ngoài nước 12.749 tỉ đồng. III. Tình hình ngân sách nhà nước giai đoạn 2007- 2008 1. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2007 a. Thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước năm 2007 a.1 Thu nội địa: Dự toán 151.800 tỷ đồng, ước cả năm đạt 159.500 tỷ đồng, vượt 5,1% (7.700 tỷ đồng) so dự toán, tăng 21,4% so với thực hiện năm 2006. Nhiều khoản thu đạt và vượt dự toán, tăng khá so với thực hiện năm 2006, trong đó: thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vượt 10,3%, tăng 39,4%; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao vượt 12,1%, tăng 32,4%; các loại phí và lệ phí vượt 12,3%, tăng 8,4%; lệ phí trước bạ vượt 19,8%, tăng 33,6%... Trong đó: (1) Kinh tế quốc doanh năm 2007 .Số kinh doanh có lãi chiếm khoảng 94% tổng số doanh nghiệp, số kinh doanh hoà vốn chiếm khoảng 4 - 4,5%, số kinh doanh thua lỗ chỉ chiếm khoảng 1 - 1,5%; thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước có bước cải thiện quan trọng. Thu nộp NSNN từ khu vực ước đạt 53.963 tỷ đồng (chiếm 33,8% thu nội địa), bằng dự toán, tăng 17,0% so với thực hiện năm 2006. (2) Kinh tế ngoài quốc doanh năm 2007 duy trì đà phát triển khá so với năm 2006, trong đó: giá trị sản lượng công nghiệp ước tăng 20,9%; vốn đầu tư ước tăng 24,8%, chiếm 40,7% tổng vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội... Qua đó đóng góp thu NSNN năm 2007 ước đạt 30.508 tỷ đồng, vượt 10,3% (2.841 tỷ đồng) so dự toán, tăng 39,4% so với thực hiện năm 2006. Trong năm 2007 đã có khoảng 54 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký khoảng 470 nghìn tỷ đồng; và có khoảng 871 hợp tác xã được thành lập mới, nâng tổng số hợp tác xã hiện có đạt xấp xỉ 17.880 đơn vị. (3) Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài năm 2007 tiếp tục thu hút được một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp (FDI), trong đó vốn đăng ký cấp mới và đăng ký bổ sung ước đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006. , Số thu NSNN từ khu vực này cả năm ước đạt 30.378 tỷ đồng, tuy tăng 25,5% so với năm 2006, nhưng chỉ bằng 97,9% (giảm 663 tỷ đồng) so với dự toán được giao. (4) Các khoản thu liên quan đến nhà, đất năm 2007 đạt khá, tổng thu ngân sách ước đạt 21.724 tỷ đồng, tăng 19,7% (3.581 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 10,3% so với thực hiện năm 2006; riêng thu tiền sử dụng đất tăng 10,3% (1.500 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2006. a.2 Thu từ dầu thô: Dự toán 71.700 tỷ đồng. Đánh giá cả năm, về sản lượng dầu thô thanh toán: ước đạt 15,57 triệu tấn, giảm 1,93 triệu tấn so với sản lượng tính dự toán, làm giảm thu NSNN khoảng 5.500 tỷ đồng. Về giá dầu thanh toán: dự kiến giá dầu Việt Nam thanh toán bình quân cả năm ước đạt 490,6 USD/tấn (64 USD/thùng), tăng 14,8 USD/tấn (2 USD/thùng) so với giá xây dựng dự toán, tăng thu cho NSNN khoảng 2.300 tỷ đồng. a.3 Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: Dự toán 55.400 tỷ đồng, trên cơ sở dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 69.900 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng là 14.500 tỷ đồng; ước cả năm đạt 56.500 tỷ đồng, tăng 2% (1.100 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 31,7% so với thực hiện năm 2006, trên cơ sở tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 74.000 tỷ đồng (vượt 4.100 tỷ đồng so với dự toán), hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ 17.500 tỷ đồng . Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2007 ước đạt 109,2 tỷ USD; riêng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so với năm 2006. Nhiều mặt hàng nhập khẩu tăng lớn về kim ngạch hoặc sản lượng so với năm 2006, như: máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt gần 10,4 tỷ USD, tăng 56,5%, xăng dầu 7,5 tỷ USD, tăng 25,7%, sắt thép gần 4,9 tỷ USD, tăng 66,2%; điện tử, máy tính và linh kiện 2,9 tỷ USD, tăng 43,7%... a.4 Thu viện trợ không hoàn lại: Dự toán 3.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 3.400 tỷ đồng, tăng 13,3% (400 tỷ đồng) so dự toán. b. Thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước năm 2007 b.1 Chi đầu tư phát triển: dự toán 99.450 tỷ đồng, ước cả năm đạt 101.500 tỷ đồng, tăng 2,1% (2.050 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 27,6% tổng chi NSNN và đạt 8,9% so với GDP. Trong đó: - Chi đầu tư XDCB: dự toán 95.230 tỷ đồng, ước cả năm đạt 97.280 tỷ đồng, tăng 2,2% (2.050 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 19% so với năm 2006. Tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN năm 2007 ước đạt 31,7% tổng chi NSNN, chiếm 10,8% GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2007 đạt 40,4% GDP, tăng 16,1% so với năm 2006. b.2 Chi trả nợ và viện trợ: Dự toán 49.160 tỷ đồng, ước cả năm đạt 49.160 tỷ đồng, b.3 Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, thể dục thể thao, văn hoá xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể dự toán 199.150 tỷ đồng (đã bao gồm chi thực hiện tiền lương tối thiểu theo mức 450.000 đồng/tháng); ước thực hiện chi cả năm đạt 206.000 tỷ đồng, tăng 3,4% (6.850 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 26,7% so với năm 2006; đảm bảo các nhiệm vụ chi theo dự toán như: chi cho lĩnh vực Giáo dục đào tạo đạt 20%, chi cho Khoa học công nghệ đạt 2% và chi sự nghiệp môi trường đạt 1% tổng chi ngân sách nhà nước. 2. Tổng kết thu chi ngân sách nhà nước 2008 a. Thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước Kết quả thực hiện ở một số lĩnh vực thu cụ thể như sau: (1) Thu nội địa: Theo số liệu báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thì thu nội địa ước thực hiện cả năm 2008 đạt 205.000 tỷ đồng, vượt 8,3% (15.700 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 17,6% so với thực hiện năm 2007, chiếm 51,4% tổng thu NSNN; không kể thu tiền sử dụng đất 22.000 tỷ đồng, thu nội địa đạt 183.000 tỷ đồng, vượt 5,9% (10.200 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 24,1% so với năm 2007. (2) Thu từ dầu thô: Dự toán 65.600 tỷ đồng trên cơ sở sản lượng thanh toán 15,49 triệu tấn, giá bán dự kiến 64 USD/thùng. Theo số liệu báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thì thu dầu thô ước thực hiện cả năm đạt 98.000 tỷ đồng, vượt 49,4% (32.400 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 27,3% so với thực hiện năm 2007 trên cơ sở sản lượng cả năm đạt 15,42 triệu tấn, giá bình quân cả năm đạt xấp xỉ 102 USD/thùng, tăng 38 USD/thùng so giá dự toán. (3) Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu: dự toán 64.500 tỷ đồng (trên cơ sở thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 84.500 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng là 20.000 tỷ đồng), phấn đấu thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 121.000 tỷ đồng; sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ, thu cân đối ngân sách cả năm đạt 91.000 tỷ đồng, vượt 41,1% (26.500 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 50,7% so với thực hiện năm 2007 dựa trên cơ sở tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007; kim ngạch nhập khẩu kiềm chế ở mức 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007; nhập siêu của cả nền kinh tế khoảng 17,5 tỷ USD, bằng khoảng 27,8% kim ngạch xuất khẩu. (4) Thu viện trợ: Dự toán 3.600 tỷ đồng, ước cả năm đạt 5.000 tỷ đồng, vượt 38,9% (1.400 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu do tăng viện trợ của Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135) và Chương trình phát triển Nông nghiệp và nông thôn. b. Thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước Kết quả thực hiện một số lĩnh vực chi chủ yếu như sau: Dự toán Quốc hội quyết định là 398.980 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt 474.280 tỷ đồng, vượt 18,9% so với dự toán, tăng 22,3% so với thực hiện năm 2007. Trong đó: (1) Chi đầu tư phát triển: dự toán 99.730 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt 117.800 tỷ đồng, tăng 18,1% (18.070 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 24,7% tổng chi NSNN (chiếm 7,9% GDP), tăng 5,0% so với thực hiện năm 2007. . Tổng hợp nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ, nguồn đầu tư từ xổ số kiến thiết và nguồn vốn cân đối NSNN, tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN năm 2008 ước đạt 144.300 tỷ đồng, bằng 30,3% tổng chi NSNN, bằng 9,7% GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã góp phần đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2008 ước đạt khoảng 39% GDP. (2) Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính (bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương theo mức lương tối thiểu 540.000 đồng/tháng): dự toán 237.250 tỷ đồng, ước thực hiện chi cả năm đạt 262.580 tỷ đồng, tăng 10,7% so với dự toán, tăng 23,6% so với thực hiện năm 2007. (3) Chi bù lỗ kinh doanh mặt hàng dầu nhập khẩu: Để thực hiện kiềm chế tốc độ tăng giá tiêu dùng, Chính phủ đã quyết định chậm điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước trong điều kiện giá dầu thế giới tăng cao, tiếp tục bù lỗ dầu phát sinh năm 2008. Với kết quả thực hiện thu - chi NSNN năm 2008 nêu trên, hoạt động tài chính - ngân sách cơ bản theo sát mục tiêu nhiệm vụ NSNN 5 năm 2006 - 2010 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra: - Tổng thu NSNN 3 năm 2006-2008 ước đạt 67,4% chỉ tiêu 5 năm. Tốc độ tăng thu bình quân (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) là 13,4% (chỉ tiêu đề ra cho 5 năm là 10,8%/năm). Quy mô thu NSNN năm 2008 tăng 75% so với năm 2005, động viên NSNN 3 năm 2006-2008 bình quân đạt 27,7%GDP, trong đó huy động từ thuế và phí (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) đạt 23%GDP (mục tiêu đề ra cho 5 năm là 20-21%GDP). - Tổng chi NSNN 3 năm 2006-2008 ước đạt 64% chỉ tiêu 5 năm 2006-2010. Tốc độ tăng chi bình quân hàng năm đạt 21,3%/năm (chỉ tiêu đề ra 11,2%/năm). Quy mô chi NSNN năm 2008 tăng 79% so với năm 2005. Đã đảm bảo tỷ lệ chi cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo - dạy nghề chiếm 20% tổng chi NSNN, chi khoa học công nghệ chiếm 2%, chi lĩnh vực văn hoá - thông tin đạt trên 1,5%, chi sự nghiệp môi trường trên 1%; tăng chi ngân sách thực hiện chính sách an sinh xã hội; dành nguồn trên 82.000 tỷ đồng để thực hiện điều chỉnh tiền lương ở mức cao hơn và sớm hơn so với lộ trình đã đề ra. - An ninh tài chính quốc gia được củng cố; bội chi NSNN bình quân 3 năm ở mức xấp xỉ 5% GDP; bố trí chi trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn theo cam kết. Đến 31/12/2008, dư nợ Chính phủ (bao gồm cả nợ Trái phiếu Chính phủ) bằng 33,5% GDP, dư nợ ngoài nước của Quốc gia bằng 27,2% GDP. LIÊN HỆ VỚI THỰC TẾ Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp (DN) gặp khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm nguồn thu ngân sách Nhà nước (NSNN) của nhiều địa phương. Bên cạnh đó, việc triển khai các luật thuế mới và luật thuế sửa đổi, nhất là một loạt chính sách giảm, giãn thuế nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NÐ-CP của Chính phủ về những giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ tới số thu ngân sách. Làm thế nào để bù đắp số hụt thu này là bài toán nan giải đối với cục thuế nhiều tỉnh, thành phố. So với dự toán được giao năm 2009, dự kiến tổng số thu thuế nội địa của tỉnh Phú Thọ giảm 224,3 tỷ đồng. Phó Cục trưởng Thuế tỉnh Phú Thọ Hoàng Văn Ðài cho biết, dự báo số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của một số DN trên địa bàn tỉnh giảm nhiều so với thực hiện năm 2008 do tình hình sản xuất, kinh doanh khó khăn. Hơn nữa, việc thực hiện giảm, gia hạn nộp thuế TNDN năm 2009 cũng khiến số thu từ thuế này giảm đáng kể. Phần lớn các DN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ là DN vừa và nhỏ nên số thuế TNDN dự báo sẽ bị giảm khoảng 36 tỷ đồng so với dự toán được giao. Bên cạnh đó, việc giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với 19 nhóm hàng hóa, dịch vụ cũng làm giảm 46,8 tỷ đồng. Do thực hiện giãn thời gian nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN), dự kiến trong năm tháng đầu năm, số thuế này giảm khoảng 12 tỷ đồng. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thị trường bất động sản tiếp tục bị ảnh hưởng, các giao dịch về đất trầm lắng làm cho số thu từ tiền sử dụng đất năm 2009 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ dự kiến giảm 40 tỷ đồng. Ngay trong quý I vừa qua, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh chỉ đạt hơn 235 tỷ đồng, bằng 98,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt 90,1% dự toán quý và 20,9% dự toán năm. Một số chỉ tiêu không hoàn thành dự toán thu ngân sách Nhà nước quý I là thu từ DN nhà nước địa phương (chỉ đạt 71%); thu từ DN đầu tư nước ngoài (48%); thu ngoài quốc doanh (80,4%); th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThu-Chi của ngân sách nhà nước và biện pháp cân đối ngân sách của nhà nước.doc
Tài liệu liên quan