Chuyên đề Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

1.Tính tất yếu của đề tài 1

2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2

3.Đối tượng, phạm vi và giác độ nghiên cứu 3

4.Kết cấu đề tài 3

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC DỊCH VỤ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC 4

1.1.Những vấn đề lý luận về thu hút FDI 4

1.1.1.Khái luận chung về FDI 4

1.1.1.1.Khái niệm FDI và dự án FDI 4

1.1.1.2.Đặc điểm của dự án FDI 5

1.1.1.3.Các hình thức của FDI 6

1.1.2.Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI 7

1.1.2.1.Khái niệm thu hút FDI 7

1.1.2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI 7

1.1.2.2.1.Nhóm nhân tố kéo 7

1.1.2.2.2.Nhóm nhân tố đẩy 8

1.1.2.3.Nội dung thu hút FDI trên giác độ vĩ mô 8

1.1.2.3.1.Xác định mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 8

1.1.2.3.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ giáo dục 9

1.1.2.3.3.Xác định các yêu cầu cần thiết đối với việc phát triển dịch vụ giáo dục 10

1.1.2.3.4.Xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư vào dịch vụ giáo dục 11

1.1.2.3.5.Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ giáo dục 12

1.1.2.3.6.Các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động thu hút FDI 12

1.1.3.Những cam kết đối với việc phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng của WTO 13

1.1.4.Đặc điểm của những cam kết về dịch vụ giáo dục của nước ta với WTO 14

1.2.Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 15

1.2.1.Khái niệm dịch vụ 16

1.2.2.Đặc điểm của dịch vụ 17

1.2.3.Đặc trưng của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 19

1.2.4.Nội dung của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 20

1.2.4.1.Mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 20

1.2.4.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục 21

1.2.4.2.1.Xây dựng chính sách pháp luật 21

1.2.4.2.2.Xây dựng cơ chế đầu tư và tổ chức quản lý 22

1.2.4.2.3.Duy trì môi trường chính trị xã hội ổn định 22

1.2.4.3.Xúc tiến đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục 22

1.2.4.3.1.Xây dựng các danh mục thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 22

1.2.4.3.2.Xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư nước ngoài hướng vào phát triển dịch vụ giáo dục 23

1.2.4.3.3.Thành lập các cơ quan chuyên trách việc xúc tiến đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục 23

1.2.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 23

1.2.5.1.Các nhân tố thuộc môi trường quốc tế 23

1.2.5.2.Các nhân tố thuộc môi trường quốc gia 25

1.2.6.Sự cần thiết phải thu hút thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 27

1.2.6.1.Vị trí của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội 27

1.2.6.2.Sự cần thiết phải thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 29

1.2.6.3.Việt Nam có khả năng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 31

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA WTO 34

2.1.Khái quát quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ giáo dục tại Việt Nam 34

2.1.1.Một số quan điểm cơ bản của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển một nền giáo dục Việt Nam mới trong thời kỳ 1945-1985 34

2.1.1.1.Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (năm 1950) 36

2.1.1.2.Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (năm 1956) 36

2.1.1.3.Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (năm 1979) 37

2.1.3.Quá trình phát triển giáo dục trong hơn 20 năm đổi mới (1986-2008) 39

2.1.3.1.Thời kỳ đổi mới giáo dục (1986-1995) 39

2.1.3.2.Thời kỳ chấn hưng giáo dục (1996-2008) 41

2.2.Những cơ hội và thách thức trong lĩnh vực giáo dục khi Việt Nam gia nhập WTO 43

2.2.1.Những cơ hội 43

2.2.2.Những thách thức 44

2.3.Thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 45

2.3.1.Mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 45

2.3.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong giáo dục 45

2.3.2.1.Xây dựng chính sách pháp luật 45

2.3.2.2.Xây dựng cơ chế đầu tư và tổ chức quản lý 47

2.3.2.3.Xây dựng môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định 47

2.3.2.4.Xúc tiến đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục 48

2.3.2.4.1.Khuyến khích và ưu đãi đầu tư 48

2.3.2.4.2.Xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư nước ngoài hướng vào phát triển dịch vụ giáo dục 48

2.4.Kết quả thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục ở Việt Nam 48

2.4.1.Trước khi Việt Nam gia nhập WTO 48

2.4.2.Từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 50

2.4.3.Nhận xét chung tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục trong 20 năm qua 51

2.5.Đánh giá thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 53

2.5.1.Ưu điểm trong việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 53

2.5.2.Tồn tại trong việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 55

2.5.3.Nguyên nhân của các tồn tại 57

CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA WTO 59

3.1. Định hướng phát triển dịch vụ giáo dục Việt Nam đến năm 2020 59

3.1.1. Định hướng phát triển dịch vụ giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010 59

3.1.2.Định hướng phát triển giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 62

3.2.Những việc cần làm của giáo dục Việt Nam trước tác động của WTO 64

3.3.Một số quan điểm thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 66

3.4.Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 69

3.4.1.Thống nhất nhận thức và quan điểm thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 69

3.4.2.Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách liên quan đến thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 69

3.4.3.Về công tác hướng dẫn thủ tục, kêu gọi đầu tư vào các dự án giáo dục đào tạo 70

3.4.4.Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nướcđối với hoạt động FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 72

3.4.5.Nghiên cứu mở rộng các mô hình thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục 74

KẾT LUẬN 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78

 

 

doc89 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ giáo dục ra đời ở nước ta là thể hiện tính dân chủ hóa và xã hội hóa của giáo dục. Mặt khác, tác động của xu thế toàn cầu hóa giáo dục, sự phát triển của nền kinh tế tri thức, sự cạnh tranh giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực và tính cạnh tranh sẽ ngày càng tăng. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, ngày nay ở nước ta đang phải đối mặt với sự thiếu hụt đội ngũ nhân lực có nghiệp vụ, tay nghề cao và đang dư thừa đội ngũ những người có trình độ nghiệp vụ, tay nghề thấp, không phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có các dịch vụ giáo dục mới đủ khả năng cân bằng lại sự chênh lệch này. Tóm lại, chương 1 đã thực hiện một số nhiệm vụ sau: Hệ thống các lý luận về FDI và thu hút FDI như khái niệm, đặc điểm của FDI, các hình thức FDI, nội dung thu hút FDI, các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI và các chỉ tiêu đánh giá hoạt động này. Hệ thống hóa các vấn đề chung về dịch vụ và dịch vụ giáo dục như khái niệm, đặc điểm. Làm rõ các vấn đề về thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục như đặc trưng, nội dung của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục. Khẳng định thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục là hết sức cần thiết, góp phần phát triển đất nước. Trên cơ sở những vấn đề cơ bản về FDI và thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục, chương 2 sẽ phân tích thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục tại Việt Nam thời gian qua. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA WTO 2.1.Khái quát quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ giáo dục tại Việt Nam Trong 60 năm qua, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng chăm lo xây dựng một nền giáo dục Việt Nam kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đã thu được những thành tựu vĩ đại. Từ khi ra đời, Đảng ta đã gắn việc đấu tranh chống chính sách nhu dân với cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, coi dốt nát là một thứ giặc. Với những tư tưởng về giáo dục đó, ngay khi thành lập nước, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định phương hướng cơ bản của chính sách giáo dục là: “Trong thời hạn ngắn nhất phải cử hành lệnh bắt buộc học chữ quốc ngữ để chống nạn mù chữ đến triệt để”. 2.1.1.Một số quan điểm cơ bản của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển một nền giáo dục Việt Nam mới trong thời kỳ 1945-1985 Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, sáng ngày 3/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải làm, trong đó nhiệm vụ “diệt giặc dốt” đứng hàng thứ hai. Người chỉ rõ “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Từ quan điểm đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền giáo dục cách mạng dân chủ đã được khai sinh cùng với nước Việt Nam mới. Nhằm đẩy mạnh việc xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ.Cũng trong ngày 8/9/1945 Chính phủ ban hành 3 sắc lệnh quan trọng về bình dân học vụ: - Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nha bình dân học vụ, quy định về nhiệm vụ của nha chăm lo việc học cho nhân dân, trực thuộc Bộ Giáo dục. - Sắc lệnh số 19/SL quy định trong 6 tháng làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học, ít nhất là 30 người theo học. - Sắc lệnh số 20/SL cưỡng bách việc học chữ quốc ngữ là hướng mọi lứa tuổi, hạn trong 1 năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Các sắc lệnh trên đã bổ sung cho nhau để trở thành một đạo luật đầu tiên của nền giáo dục nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có tác dụng làm chuyển biến quan niệm và nhận thức của các cấp chính quyền và các tầng lớp nhân dân đối với vấn đề học chữ quốc ngữ. Cùng với các sắc lệnh về bình dân học vụ trên, ngày 4/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi chống nạn thất học”. Trong lời kêu gọi này, Người chỉ rõ tình trạng gần như hoàn toàn mù chữ của nhân dân Việt Nam là một trở lực to lớn đối với sự tiến bộ và giàu mạnh của đất nước sau này. Song song với việc tổ chức bình dân học vụ và đẩy mạnh phong trào xóa nạn mù chữ, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã quan tâm đến việc xây dựng nền giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Một nền giáo dục Việt Nam mới, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo các em thành những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn năng lực có sẵn của các em”. Ngày 9/7/1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 119/SL thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục. Tiếp đó, ngày 10/8/1946, Chính phủ ban hành 2 Sắc lệnh 146/SL và 147/SL khẳng định những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới: đại chúng hóa, dân tộc hóa và khoa học hóa, và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và nhân dân. Để cụ thể hóa nội dung của các Sắc lệnh, một loạt chủ trương, biện pháp nhằm khuyến khích học sinh đi học ở các bậc học đã được ban hành: bãi bỏ tiền học phí, học bằng tiếng Việt, mở ký túc xá... Nền giáo dục mới theo quy định của Sắc lệnh nói trên gồm 3 bậc học: Bậc học cơ bản gồm 4 năm và bắt đầu từ 1950 sẽ là bậc học cưỡng bách. Bậc học trung học và chuyên nghiệp Bậc học đại học Riêng Sắc lệnh số 147/SL đã ấn định thêm những điều khoản pháp chế để thực hiện bậc học cơ bản: không phải trả tiền, các môn học dạy bằng tiếng Việt, tất cả các bậc học từ tiểu học đến đại học. 2.1.1.1.Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (năm 1950) Tháng 7/1950, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra với chiến dịch Biên giới, bản đề án cải cách giáo dục đã được Hội đồng Chính phủ thông qua, với mục tiêu tổng quát là xây dựng một nền giáo dục dân chủ nhân dân. Bản đề án nêu rõ: “Nền giáo dục mới phải là nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, được thiết kế trên nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng”. Mục tiêu của hệ thống giáo dục là giáo dục thế hệ trẻ thành những người công dân trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, phải có phẩm chất, nghị lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Phương châm giáo dục là học đi đôi với hành, gắn công việc học tập ở nhà trường với công cuộc giải phóng đất nước. Nền giáo dục của một nước Việt Nam độc lập đã hình thành sơ bộ gồm hệ thống phổ thông 9 năm, cơ sở giáo dục bình dân, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng và đại học. Cuộc cải cách giáo dục này nhằm thực hiện việc dạy tiếng Việt ở bậc đại học, hoàn tất việc đưa tiếng Việt vào dạy ở nhà trường vốn đã được triển khai sau Cách mạng tháng Tám 1945. 2.1.1.2.Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (năm 1956) Sau hòa bình (1954), miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông cùng tồn tại: hệ thống giáo dục 9 năm (ở vùng kháng chiến do ta xây dựng) và hệ thống giáo dục 12 năm (ở vùng mới giải phóng do Pháp để lại). Tình hình đó đòi hỏi phải điều chỉnh và thống nhất giáo dục phổ thông cho phù hợp. Mặt khác, đất nước lúc này tạm chia làm hai miền, nền giáo dục vừa phải phục vụ cho công cuộc xây dựng ở miền Bắc vừa phải phục vụ nhiệm vụ đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước. Tháng 3/1956 Đại hội Giáo dục phổ thông toàn quốc họp bàn việc triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa II). Đại hội đã thông qua đề án do Bộ Giáo dục khởi thảo làm nhiệm vụ sáp nhập hai hệ thống giáo dục của vùng tự do và vùng giải phóng. Mục tiêu cải cách giáo dục lần này là đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những công dân phát triển toàn diện. Phương châm giáo dục là gắn lý luận với thực hành, gắn nhà trường với đời sống xã hội. Nội dung giáo dục có tính chất toàn diện gồm 4 mặt: đức, trí, thể, mỹ; trong đó, trí dục là cơ sở, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng và đạo đức. Về hệ thống giáo dục, hình thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm gồm 3 cấp. Tháng 5/1956, Chính phủ đã thông qua đề án cải cách giáo dục lần 2 và giao cho Bộ Giáo dục triển khai đề án đó. Tháng 8/1956, Chính phủ ban hành “Chính sách giáo dục phổ thông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Các chủ trương này được triển khai thành 5 công tác: Giáo dục phổ thông: thống nhất 2 hệ thống giáo dục ở vùng tự do thành hệ thống giáo dục 10 năm với nội dung phát triển toàn diện (dân, trí, thể, mỹ) Phát triển đại học và trung học chuyên nghiệp Thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa Phát triển giáo dục miền núi Ổn định tình hình và phát triển giáo dục đối với học sinh miền Nam tập kết. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai là một bước tiến cơ bản trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục của nước ta trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt. 2.1.1.3.Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba (năm 1979) Ngày 30/4/0975, sau 30 năm chiến tranh, đất nước đã được thống nhất bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đứng trước những yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hệ thống giáo dục được cải cách từ năm 1956 đã bộc lộ những thiếu sót mà những sự cải cách cục bộ không thể bổ sung được. Cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục đã trở thành một đòi hỏi khách quan. Đại hội 4 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân nhằm làm cho giáo dục phục vụ đắc lực hơn, có hiệu quả hơn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 1/1979, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục. Đây là chính sách lớn về xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và là cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 trong lịch sử. Cuộc cải cách giáo dục này nhằm xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân, thống nhất trong phạm vi cả nước. Cuộc cải cách giáo dục này nhằm 3 mục tiêu lớn: - Nội dung và mục tiêu cơ bản: coi giáo dục là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa, một nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Giáo dục là nhân tố có tính chất quyết định đối với đào tạo nhân tài và đào tạo đội ngũ những người lao động mới có đạo đức, sức khỏe, có kiến thức khoa học – kỹ thuật. - Cuộc cải cách giáo dục đặt ra nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành; thực hiện phổ cập cấp 3 cho cả công nhân, nông dân và mọi người lao động trong cả nước. - Thực hiện tốt hơn 3 nguyên lý giáo dục: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Nhìn chung, sau cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3, sự nghiệp giáo dục trên toàn quốc đã thu được những kết quả khả quan. Bước đầu hệ thống giáo dục đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, thống nhất trong cả nước từ mầm non đến đại học và sau đại học. Hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm được thống nhất cho chương trình đào tạo chung trên toàn quốc. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng hoàn chỉnh bộ sách giáo khoa mới theo tinh thần cải cách giáo dục cho cả hệ thống 12 năm. Đặc biệt, từ sau năm 1976, việc xây dựng hệ thống đào tạo sau đại học được coi là một bước phát triển quan trọng của ngành giáo dục Việt Nam. 2.1.3.Quá trình phát triển giáo dục trong hơn 20 năm đổi mới (1986-2008) Mặc dù đã thu được những kết quả khả quan sau cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 song những khó khăn gay gắt về kinh tế trong nước và sự phức tạp về tình hình quốc tế đòi hỏi nền giáo dục của đất nước cũng phải thay đổi cùng với luồng gió đổi mới kinh tế của đất nước. 2.1.3.1.Thời kỳ đổi mới giáo dục (1986-1995) Ngành giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước đã gặp phải một số khó khăn lớn do sự tác động của nền kinh tế đất nước. Sau 2 kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình cũ, thời kỳ 1975-1987 nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, yếu kém do hệ quả của những cơ chế bao cấp. Chính vì thế mà sự đầu tư cho giáo dục trong giai đoạn này bị hạn chế. Những khó khăn đó đã đặt ngành giáo dục đào tạo trước yêu cầu bức thiết phải đổi mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của xã hội cũng như để khẳng định lại vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển đất nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI đã chỉ rõ vai trò sự nghiệp giáo dục trong thời kỳ đổi mới là: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội. Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và công nghệ, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã hội”. Cũng từ sau Đại hội VI, cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 dần dần chuyển sang điều chỉnh cải cách và đổi mới giáo dục (từ 1987). Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và chỉ thị của Trung ương Đảng, ngành giáo dục đã xây dựng một chương trình phát triển giáo dục trong 3 năm từ 1987 đến 1990 với một hệ thống đề án gồm 38 chỉ tiêu. Chương trình này gồm các tư tưởng chỉ đạo sau: - Giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, nhà trường là công cụ của chuyên chính vô sản. - Kế hoạch phát triển giáo dục là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. - Chất lượng và hiệu quả, trước mắt và lâu dài. - Đổi mới quản lý giáo dục. Trên cơ sở đánh giá chung thực trạng giáo dục từ sau Đại hội VI, Văn kiện Đại hội VII (7/1991) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) đã định ra những quan điểm chiến lược quan trọng và phương pháp tiếp tục đổi mới giáo dục trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đã đề ra mục tiêu cho ngành giáo dục. Do đó, nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn 5 năm (1991-1995) là tiếp tục đổi mới, ổn định phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII tháng 1/1993 đã đề ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo với 4 quan điểm chỉ đạo: - Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được Đại hội VII xem là quốc sách hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là điều kiện cơ bản để bảo đảm việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. - Mục tiêu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mở rộng quy mô, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. - Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội. - Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước. Nhờ chính sách đổi mới giáo dục, toàn ngành giáo dục đã quyết tâm đưa sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển đáp ứng với vai trò là quốc sách hàng đầu của đất nước. 2.1.3.2.Thời kỳ chấn hưng giáo dục (1996-2008) Để tiếp tục khẳng định và hoàn thiện đường lối đổi mới, Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đã quyết định đưa nước ta vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng như các kỳ Đại hội trước, Đại hội VIII khẳng định vai trò của giáo dục đào tạo là “quốc sách hàng đầu”. Để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản khóa VIII (12/1996) đã họp bàn về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Hội nghị quyết định định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển giáo dục đào tạo - thời kỳ chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Luật Giáo dục ban hành tháng 12/1998 là đạo luật đầu tiên ở nước ta về giáo dục. Về cơ bản, chúng ta đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh. Hệ thống giáo dục đó bao gồm: - Giáo dục mầm non gồm nhà trẻ và mẫu giáo - Giáo dục phổ thông gồm 2 bậc học là tiểu học và trung học phổ thông - Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề - Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ cao đẳng và đại học; giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sỹ và trình độ tiến sỹ. Bên cạnh Luật Giáo dục 1998, Quốc hội cũng đã ra nhiều quyết định quan trọng để đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa ở phổ thông và phổ cập giáo dục ở trình độ trung học cơ sở. Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 9/12/2000, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm thay đổi cách dạy, cách học theo một nội dung, phương pháp mới tiên tiến phù hợp với thực tiễn Việt Nam và theo kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới. Nghị quyết 41/2000/QH10 ngày 9/12/2000, kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X về phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001-2010, bảo đảm cho hầu hết thanh niên, thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiểu học tiếp tục học tập để đạt trình độ trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18 đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong 5 năm 1996-2001, thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, nền giáo dục nước nhà có bước phát triển mới. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở ở một số tỉnh, thành phố, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến bước đầu. Sự nghiệp giáo dục ngày càng được đề cao và được toàn xã hội quan tâm. Giai đoạn 2001-2005, giáo dục và đào tạo đã phát triển với một quy mô lớn. Bên cạnh các cơ sở giáo dục công lập, giáo dục ngoài công lập cũng đã mở ra nhiều loại hình. Để bổ sung hoàn chỉnh hệ thống giáo dục, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI, tháng 6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục sửa đổi và ngày 27/6/2005, Chủ tịch nước đã công bố Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Luật Giáo dục 2005 đã điều chỉnh và đưa vào văn bản những chính sách cơ bản để phát triển nền giáo dục nước ta theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật đã quy định hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân gồm: - Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo - Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông - Giáo dục dạy nghề có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề - Giáo dục đại học và sau đại học (gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Tóm lại, tư duy phát triển giáo dục ở nước ta qua các thời kỳ luôn gắn bó mật thiết với chế độ chính trị, với tư duy phát triển kinh tế - xã hội và nhờ vậy đã đưa sự nghiệp giáo dục nước ta phát triển về cơ bản đồng nhịp với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, giáo dục được coi là công cụ thiết yếu trong xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những bước tăng trưởng đáng kể và nhất là tư duy phát triển giáo dục ở nước ta cần tiếp tục đổi mới theo các Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX một cách kiên quyết hơn, nhanh chóng hơn. Đổi mới tư duy giáo dục để xây dựng một nền giáo dục của dân, do dân, vì dân; xây dựng một xã hội học tập mà trong đó có đẩy đủ tính dân chủ, công khai, bình đẳng và công bằng làm thỏa đáng nhu cầu học tập đa dạng của mọi người. 2.2.Những cơ hội và thách thức trong lĩnh vực giáo dục khi Việt Nam gia nhập WTO 2.2.1.Những cơ hội Việc gia nhập WTO và trở thành thành viên chính thức của tổ chức này đã tạo ra cho dịch vụ giáo dục của Việt Nam những cơ hội sau: Tạo điều kiện hoàn thiện và phát triển bền vững hệ thống giáo dục quốc dân với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài nhằm đáp ứng cho nhu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có cơ hội mở rộng và sử dụng hợp tác quốc tế trong giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục. Chỉ có thông qua hợp tác quốc tế mới có thể đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng trực tiếp những nhu cầu cấp bách của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra ở nước ta. Mở rộng “du học tại chỗ” và làm giảm đi tỷ trọng “du học nước ngoài”, góp phần tiết kiệm ngoại tệ. Nguồn đầu tư cho giáo dục sẽ đa dạng, phong phú và lớn hơn. Ngày càng có nhiều nguồn vốn từ dân, từ nước ngoài đầu tư cho dịch vụ giáo dục. Điều này sẽ giúp cho giáo dục có thêm điều kiện để phát triển. Năng lực và tiềm năng hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân được khai thác triệt để, ngày càng có thêm nhiều cơ hội cung cấp giáo dục cho xã hội có hiệu quả. Tiếp thu có chọn lọc các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới về các phương diện: nội dung đào tạo, phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, quản lý giáo dục, xây dựng đội ngũ giáo viên... hướng tới xây dựng hệ thống giáo dục học tập suốt đời trong một xã hội học tập. Đổi mới quản lý giáo dục theo hướng quản lý bằng pháp luật, bằng các văn bản pháp quy và tăng quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục. Gia tăng tính cạnh tranh lành mạnh đối với tất cả các cơ sở giáo dục, làm cho nền giáo dục nước ta ngày càng thích ứng được với xã hội, với nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập được với trào lưu phát triển giáo dục của thế giới. Tranh thủ cơ hội để mở cửa giáo dục nước ta với khu vực và thế giới. Có chiến lược và kế hoạch khai thác thị trường giáo dục của ta ra nước ngoài. Lợi dụng sự thừa nhận của nước ngoài đối với những ngành nghề đào tạo có chất lượng ở nước ta và những ngành học nổi trội hoặc chỉ ở nước ta mới có, đồng thời với môi trường ổn định an ninh chính trị, quốc phòng và với học phí rẻ để thu hút lưu học sinh các nước đến nước ta học tập. 2.2.2.Những thách thức Bên cạnh những cơ hội, dịch vụ giáo dục cũng phải đối mặt với những thách thức sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO: Thách thức lớn nhất là làm sao vừa thực hiện những cam kết về giáo dục, vừa bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, thực hiện những mục tiêu cơ bản của ta về giáo dục, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải cảnh giác với những tác động tiêu cực trong hoạt động dịch vụ giáo dục nhằm thu lợi nhuận, trái với mục đích của giáo dục là phát triển con người, phát triển văn hóa, góp phần phát triển đất nước. Khả năng cạnh trang bình đẳng trong môi trường tự do hóa thương mại của ta còn yếu kém. Chất lượng giáo dục Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu về cung cấp nguồn nhân lực cho yêu cầu phát triển kinh tế, năng lực cạnh tranh của các cơ sở giáo dục Việt Nam, nhất là các trường đại học và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn yếu, chưa đủ sức tham gia thị trường giáo dục quốc tế, chưa đủ sức thu hút học sinh nước ngoài vào Việt Nam. Xu hướng xuất khẩu giáo dục không lành mạnh từ các nước có nền giáo dục phát triển trong những năm gần đây. Đây là thách thức và rủi ro rất lớn đối với giáo dục nước ta trong khi quản lý của ta về hoạt động giáo dục xuyên biên giới còn rất yếu kém, thiếu các văn bản pháp quy, tổ chức quản lý phân tán, chồng chéo. Nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý các hoạt động đào tạo có yếu tố nước ngoài: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng... Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giáo dục đào tạo chưa được rà soát và sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh khi đã vào WTO, mô hình quản lý giáo dục còn mang nặng tính chất kế hoạch hóa tập trung, chưa phù hợp với giáo dục trong cơ chế thị trường, nặng về quản lý hành chính sự vụ, chưa quan tâm đầy đủ chất lượng. Vấn đề liên kết đào tạo chưa được quan tâm quản lý chặt chẽ, có thể dẫn đến nhiều phức tạp khi các đối tác yêu cầu thực hiện các nguyên tắc của WTO. Lĩnh vực giáo dục xuyên quốc gia là lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất. 2.3.Thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 2.3.1.Mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Đến nay đã thu hút được gần 136 triệu USD vào phát triển dịch vụ giáo dục. Về cơ bản, hệ thống đào tạo đã bảo đảm cung cấp được nguồn nhân lực qua đào tạo, đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đất nước. 2.3.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong giáo dục 2.3.2.1.Xây dựng chính sách pháp luật Luật Giáo dục ban hành tháng 12/1998 là đạo luật đầu tiên ở nước ta về giáo dục. Tính đến thời điểm đó, chúng ta đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống giáo dục đó bao gồm: - Giáo dục mầm non gồm nhà trẻ và mẫu giáo - Giáo dục phổ thông gồm 2 bậc học là tiểu học và trung học phổ thông - Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề - Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ cao đẳng và đại học; giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sỹ và trình độ tiến sỹ. Phương thức giáo dục gồm giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy. Luật Giáo dục 1998 đã được sửa đổi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26450.doc
Tài liệu liên quan