Chuyên đề Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam

Môc lôc

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ VÙNG KINH TẾ 3

I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3

1.Đầu tư và đặc điểm của đầu tư 3

2.Đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4

3. Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) 6

4. Bản chất và vai trò của FDI 11

5. Vai trò của chính phủ. 22

6. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 23

7. Đặc điểm và môi trường của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 25

II.Sự hình thành các vùng kinh tế ở Việt Nam 30

III.Sự cần thiết phải thu hút FDI phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam 31

IV.Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào các khu vực kinh tế 33

1.Ổn định chính trị - xã hội 33

2. Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. 33

3. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư thỏa đáng, đồng bộ và minh 34

bạch. 34

4. Môi trường thể chế ổn định. 35

5. Bảo đảm cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển KT - XH và thu hút đầu tư. 36

6. Hệ thống thị trường đồng bộ chiến lược phát triển hướng ngoại 36

7. Trình độ quản lý và năng lực của người lao động. 37

8. Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới. 37

9. Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả. 38

PHẦN II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO CÁC KHU VỰC KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 39

I. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế của Việt Nam 39

1. Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài theo nghành kinh tế. 40

2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế 45

II. Nhận xét và đánh giá chung. 51

1. Ưu điểm 51

2 Tồn tại. 51

3. Nguyên nhân 53

PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN CÁC KHU VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM 55

I.Khái quát về thực trạng thu hút FDI vào nền kinh tế VIệt Nam nói chung. 55

1. Vị trí và tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài với nền kinh tế Việt Nam. 55

2. Khái quát chung thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 56

II. Phương hướng tăng cường thu hút vốn FDI vào phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam 63

III. Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI vào phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam. 63

KẾT LUẬN 68

 

 

doc72 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3369 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế đánh giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế. Pháp luật ĐTNN và các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến ĐTNN cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa hoàn thiện, các nhà ĐTNN vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu tư thuận lợi ở Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước có kinh tế thị trường truyền thống. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn ĐTNN, một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng cao khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN. Thực tế đã chứng minh việc ban hành Luật Đầu tư đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra những chuyển biến tích cực của tình hình ĐTNN vào Việt Nam kể từ năm 2006 tới nay. Từ thực tiễn thu hút ĐTNN 20 năm qua cho thấy việc tạo dựng môi trường pháp lý cho ĐTNN trong thời gian qua là rất cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt thu hút vốn ĐTNN ở khu vực và trên thế giới, Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội đất nước ta vừa qua. Luật Đầu tư năm 2005 xác định việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý Khu Công nghiệp, Khu chế xuất, Khu Công nghệ cao và Khu kinh tế (sau đây gọi là Ban quản lý) cấp Giấy Chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như quản lý hoạt động đầu tư và giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về nguyên tắc đối với một số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch, hoặc chưa có quy hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế  cũng như  các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và Ban quản lý tự quyết định và cấp GCNĐT. Việc phân cấp cấp GCNĐT về UBND cấp tỉnh và Ban quản lý là một chủ trương thực hiện cải cách hành chính trong quản lý kinh tế và đã được tổng kết trong nhiều năm qua, đã tạo điều kiện thuận lợi để UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện được trách nhiệm quản lý hoạt động đầu tư trong nước và ĐTNN trên địa bàn. Việc phân cấp mạnh cho UBND tỉnh và Ban quản lý đã tạo điều kiện cho các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung thực hiện chức năng hoạch định chính sách, dự báo, kiểm tra, giám sát. Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động ĐTNN ở địa phương, nhất là các địa phương có nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã đi vào nề nếp, theo trình tự hợp lý, đã được đơn giản hóa,…được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều đổi mới, góp phần cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh của địa phương. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện các nội dung quản lý hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp GCNĐT đến hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và hỗ trợ các địa phương từ việc tổ chức hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại địa bàn,…. đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa phương đi vào nề nếp. Mô hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư” tiếp tục xuất hiện và có tác động lan toả rộng khắp trong cả nước, đã góp phần nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN vào Việt Nam.  Khuôn khổ pháp lý từng bước được hoàn thiện và nâng cao chất lượng quản lý là các yếu tố và động lực góp phần đưa lại kết quả đáng khích lệ của hoạt động ĐTNN tại Việt Nam, góp phần xác định vai trò quan trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước ta. II.Sự hình thành các vùng kinh tế ở Việt Nam Nguồn lực là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quy mô và tốc độ phát triển - xã hội của một nước, ở mức độ lớn, phục thuộc vào việc khai thác hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Tài nguyên thiên nhiên là tài sản của một quốc gia, là một trong những nguồn lực để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tài nguyên thiên nhiên tuy không có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, song đó là điều kiện thường xuyên, cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố tạo vùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, các ngành mũi nhọn. Cùng với tài nguyên thiên nhiên còn có tài nguyên nhân văn cũng là tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội của một nước, một vùng. Dân cư và nguồn lao động không chỉ là lực lượng trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà còn là lực lượng tiêu thụ sản phẩm của xã hội, kích thích quá trình tái tạo sản xuất mở rộng của xã hội. Dân cư và các nguồn lực lao động vốn khó di chuyển đi xa, vì vậy khi lựa chọn đị điểm sản xuất kinh doanh trước hết cần tận dụng tới mức tối đa nguồn lao động tại chỗ. Trong tài nguyên nhân văn còn có yếu tố về văn hoá - lịch sử. Mỗi một vùng ở nước ta đều có một bản sắc dân tộc khác nhau, và có các ngành nghề truyền thống khác nhau. Do đó, nhà đầu tư nước ngoàiđánh giá từng ngành nghề truyền thống, ngành nào có lợi hơn và thu được lợi nhuận nhanh thì họ sẽ đầu tư vào. Ngoài ra, các nhà đầu tư còn căn cứ và hiện trạng và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội ở nơi mình định đầu tư vào. Cơ cấu GDP cũng là một nhân tố quan trọng để nhà đầu tư xem xét để từ đó nhà đầu tư biết mình phải đầu tư vào ngành nào, vào lĩnh vực nào. Với những căn cứ trên mà các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư chủ yếu vào nước ta ở 8 vùng từ Bắc đến Nam. III.Sự cần thiết phải thu hút FDI phát triển các khu vực kinh tế ở Việt Nam Trước hết FDI là ngồn bổ xung vốn đầu tư. Giải quyết tình trạng thiếu vốn ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường trong vòng luẩn quẩn như sau: SX kh«ng hiÖu qu¶ Thu nhËp thÊp TÝch luü thÊp §Çu t­ thÊp Khi có FDI Þ Đầu tư tăng Þ Quy mô XS, hiệu quả XS tăng Þ Thu nhập tăng Þ Tích luỹ tăng Þ Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống dân cư: + Khi chưa có FDI : Đầu tư thấp Þ quy mô SX nhỏ Þ Sử dụng ít lao động Þ thất nghiệp + Khi có FDI : Đầu tư tăng Þ quy mô SX tăng Þ Sử dụng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm Þ Giảm thất nghiệp Tăng thu nhập dân cư. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích quá trình SX: FDI Þ đầu tư tăng Þ SX tăng Cầu đầu vào tăng(NVL) Tăng SX cung cấp đầu vào (NVL) Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cải thiện cán cân thanh toán, do khoản mục vốn tăng thêm, mặt khác đầu tư truc tiếp nước ngoài thường hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất khẩu do đó gảm chi ngoại tệ và tăng thu ngoại tệ từ hoạt động của DNCVĐTNN. Do vậy sẽ làm cán cân thanh toán dịch chuyển theo chiều thăng dư. Hầu hết các nước đang phát triển ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán. Đầu tư trưc tiếp nước ngoài đẩy nhanh quá trình tiếp nhận công nghệ ở các nước tiếp nhận đầu tư : Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về vốn, có điều kiện để nghiên cứu triển khai công nghệ kỹ thuật cao, luôn xuất hện công nghệ mới dẫn tới xuất hiện công nghệ hạng hai, công nghệ hạng ba. Đã dẫn tới nhu cầu chuyển giao công nghệ. Trong khi nước sở tại khan hiếm vốn không có điều kiện nghiên cứu nên mặt bằng công nghệ thưòng thấp hơn, luôn có nhu cầu tiếp nhận công nghệ song cũng rất hạn chế việc tiếp nhận công nghệ thông qua con đường quan hệ thương mại vì không có vốn. Nên thông qua con đường FDI để tiếp nhận công nghệ là chủ yếu. Với hình thức này nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được các công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở nước đối tác nhưng còn tiên tiến hơn so với công nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên cứu, có điêù kiện đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Thông qua FDI các nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thể giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia thực hiện mà các công ty có lợi thể về việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn... Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài học hoi được kinh ngiệm kinh doanh, nâng cao hiêu quả quản lý, và tác phong lao động của các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm kinh doanh, có khả năng quản lý hiệu quả. Trong quá trình hơp tác :cùng kinhdoanh, cùng quản lý. ..Sẽ nâng cao hiệu quả quản lý, kinh nghệm kinh doanh cho nứoc tiếp nhận. Ngoài ra đầu tư trưc tiếp còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Các nước đang phát thiển thường có cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực một do không có nhiều vốn. Vi vây FDI sẽ cung cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn,dần dần mang tính chất của một nền kinh tế phát triển. IV.Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào các khu vực kinh tế 1.Ổn định chính trị - xã hội Sự ổn định chính trị xã hội tạo ra môi trường thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh, tác động lớn đến việc thu hút đầu tư và tạo ra lợi nhuận. Trong môi trường đó, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu lâu dài và hợp pháp tài sản của họ. Từ đó làm an lòng nhà đầu tư, để họ có thể yên tâm tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và khai thác dự án đầu tư một cách có hiệu quả nhất. Mức độ an tâm của các nhà kinh doanh được cũng cố thông qua sự đánh giá về rủi ro chính trị. Các nhà kinh doanh thường đánh giá mức độ rủi ro chính trị theo 4 dạng chủ yếu sau: sự mất ổn định trong nước; sự xung đột với nước ngoài; xu thế chính trị và xu hướng kinh tế. Tình trạng bất ổn về chính trị bằng việc thay đổi Chính phủ cũng có thể cản trở đầu tư, nếu nó dẫn đến một hệ thống chính sách và biện pháp khuyến khích không ổn định. Đặc biệt rất dễ có một tác động bất lợi đối với đầu tư, nếu sự thay đổi Chính phủ bao gồm cả việc thay đổi các luật cơ bản như: Luật đầu tư, quyền sở hữu tài sản, Luật thuế và nhất là nếu sự thay đổi chính trị đó làm tăng các rủi ro tài sản bị tịch thu bổ sung vào công quỹ. Bảo đảm ổn định xã hội thực chất là tạo ra môi trường văn hóa – xã hội thuận lợi cho họat động của các nhà đầu tư, đó là một bộ phận cấu thành hệ thống hạ tầng xã hội. Có nghĩa là, Nhà nước giải quyết những vấn đề xã hội theo hướng tích cực, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu quả. Những vấn đề xã hội mà Nhà nước cần quan tâm như vấn đề dân số, việc làm, xóa đói giảm nghèo,công bằng xã hội, xóa bỏ những tệ nạn xã hội, thái độ lao động, đạo đức kinh doanh và bảo vệ môi trường, y tế, giáo dục. 2. Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Duy trì ổn định chính sách kinh tế vĩ mô là giảm những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế và khuyến khích tăng trưởng bền vững lâu dài, góp phần tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Trong việc duy trì ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, yếu tố hàng đầu là ổn định tiền tệ mà biểu hiện là sự ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định giá cả, lãi suất ,…. nhằm giảm tính bấp bênh trong đầu tư, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố tác động đến môi trường kinh tế vĩ mô của quốc gia là các yếu tố như mức tổng cầu, thu nhập, lạm phát. Đây là những yếu tố quan trọng đánh giá sự thành công hay thất bại của dự án đầu tư. Các biến số này sẽ có tác động mang tính hệ thống đối với tất cả các nhà đầu tư. Mặt khác, trong số những yếu tố quyết định mức cầu của tổng mức đầu tư, trong một chừng mực nào đó, những quyết định của nhà đầu tư này lại tuỳ thuộc vào những quyết định có thể có của những nhà đầu tư khác. Do đó, bất cứ một sự không ổn định nào trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến sự biến động đầu tư khả dĩ có tính bất ổn và hay bị tác động của những tư tưởng lạc quan hay bi quan. Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô là điều tiên quyết cho việc tính toán kinh doanh của các nhà đầu tư, tạo niềm tin vào tương lai, đồng thời tránh khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra. Ôn định chính sách kinh tế vĩ mô với thể chế ổn định và mức thuế hợp lý sẽ tạo điều kiện để nhà đầu tư dự đoán chính xác lợi tức triển vọng, giảm tính bấp bênh khả dĩ của đầu tư. Điều này là yếu tố bảo đảm và khuyến khích thu hút tốt các nguồn vốn đầu tư. 3. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư thỏa đáng, đồng bộ và minh bạch. Các quốc gia thường dùng nhiều công cụ khác nhau để tác động đến tổng mức đầu tư, đến sự phân phối đầu tư giữa các khu vực, các loại tài sản và theo thời gian bằng cách tác động đến tỷ suất sinh lợi của vốn. Để cho các nhà đầu tư có khả năng đáp ứng được những yêu cầu hoạt động đã đề ra, phần lớn các nước nhận đầu tư đều có những biện pháp tích cực như khuyến khích thuế, cho độc quyền ở thịtrường nội địa,…Sự cho phép độc quyền đối với thị trường nội địa dành cho các nhà đầu tư nước ngoài đã làm tăng khuyến khích đầu tư. Từ lâu nó đã được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu ở các nước kém phát triển quan tâm tìm kiếm. Nhưng thế độc quyền lại không gây được sức ép buộc các công ty đa quốc gia phải hạ thấp giá cả và nâng cao chất lượng. Hơn nữa, vì độc quyền làm giá cả trong nước và lợi nhuận tăng lên, do đó tạo nên sự chuyển dịch trực tiếp lợi ích từ người tiêu dùng của các nước kém phát triển đến các nhà đầu tư. Các trường hợp ưu đãi bằng thuế là biện pháp khuyến khích thường gặp nhất. Chúng được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau: thuế suất ưu đãi cho một số loại đầu tư nào đó, miễn và giảm thuế có thời hạn, cho phép khấu hao nhanh, hoàn thuế,…. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, những biện pháp khuyến khích đầu tư có hiệu quả rất hạn chế do sự hạn chế của hệ thống quản lý thuế và còn do những biến dạng thị trường như việc phân phối tín dụng hay sự can thiệp của hệ thống quản lý hành chính vào việc phân bổ ngoại tệ. Các biện pháp ưu đãi bằng thuế có thể ảnh hưởng đến sự phân bổ các khoản lợi ích đặc biệt nhờ độc quyền hơn là ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, do đó thường có hiệu quả thấp. Mặt khác, thật khó xác định và đo lường được mức chênh lệch giữa suất sinh lợi của đầu tư cá biệt và suất sinh lợi của đầu tư xã hội để lý giải cho những ưu đãi bằng thuế. Do vậy, việc thực hiện bất kỳ biện pháp khuyến khích bằng thuế nào cũng gây ra những gánh nặng rất lớn cho hệ thống quản lý thuế. Các biện pháp ưu đãi bằng thuế sẽ khiến cho những đối tượng có thể hưởng lợi sẽ ra sức vận động hành lang để có lợi cho mình. Sự thất thu thuế tiềm ẩn trong các biện pháp khuyến khích có một chi phí cơ hội rõ ràng. Những nổ lực nhằm hoàn chỉnh hệ thống thuế nhằm hướng dẫn sự phân bổ các nguồn lực có thể dẫn đến những biến dạng lớn mang tính hệ thống. Do đó, tính ổn định và có thể dự báo được của chế độ thuế là điều kiện tiênquyết cho tính hiệu quả của biện pháp khuyến khích đầu tư. 4. Môi trường thể chế ổn định. Chính phủ có một vai trò quyết định trong việc xây dựng và duy trì một môi trường kinh tế lành mạnh. Chính phủ phải đảm bảo luật pháp và trật tự thực thi các hợp đồng và định hướng những điều tiết của nó để hỗ trợ cạnh tranh và đổi mới.Quan trọng nhất là Chính phủ phải đảm bảo môi trường thể chế ổn định thông quaổn định hệ thống pháp luật và đảm bảo thực thi có hiệu quả, nhằm giúp cho nhà đầu tư an tâm và tính toán được hiệu quả đầu tư. Ngoài ra, trong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi thì những yếu tố quyết định khác cũng có vai trò cực kỳ quan trọng. Những yếu tố đó là: việc thi hành luật các quyền sở hữu tài sản, việc loại bỏ các quy định quản lý không cần thiết để đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định. Tầm quan trọng của các quyền sở hữu tài sản đối với đầu tư đã được xác lập, quyền sở hữu tài sản cần phải được đảm bảo thực thi một cách có hiệu quả thông qua hệ thống tư pháp. Nạn quan liêu, tham những là một vấn đề nan giải đối với các dự án đầu tư. Bởi vì việc thực hiện dự án có thể bao gồm nhiều thủ tục hành chính, nhất là những nền kinh tế còn nhiều quy định quản lý chưa ổn định và hoàn chỉnh. Nạn tham nhũng làm tăng chi phí kinh doanh dẫn đến đầu tư kém hiệu quả. Do đó, việc loại bỏ các quy định quản lý không cần thiết, cải cách hành chính để giảm tham nhũng sẽ thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng.Sự phân phối thu nhập ảnh hưởng đến việc tích lũy vốn bằng cách ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách công cộng và mức độ ổn định CT - XH. Một sựphân phối thu nhập không đồng đều có thể kích thích các đòi hỏi của công nhân và tạo sự tranh chấp về lao động, làm tăng mức độ xung đột về chính trị và thậm chí dẫn đến bất ổn về ngân sách và kinh tế, cản trở đầu tư và tăng trưởng. 5. Bảo đảm cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển KT - XH và thu hút đầu tư. Cơ sở hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật, các công trình và các phương tiện tồn tại trên một lãnh thổ nhất định được dùng làm điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt. Nó đảm bảo cho sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, các luồng thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống. Để thúc đẩy thu hút FDI cần tạo ra một cơ chế chính sách và định chế có tính chất hỗ trợ, bao gồm: các thành phần của sự ổn định chính trị xã hội, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, tạo ra môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh với chi phí thấp, môi trường thể chế ổn định để đảm bảo sự đồng tâm nhất trí của xã hội và một bảo đảm cơ sở hạ tầng cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế 6. Hệ thống thị trường đồng bộ chiến lược phát triển hướng ngoại Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường hàng hoá - dịch vụ...Các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị trường đồng bộ, đảm bảo cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Thị trường lao động là nơi cung cấp lao động cho nhà đầu tư. Thị trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh và thị trường hàng hoá - dịch vụ là nơi tiêu thụ sản phẩm, lưu thông hàng hoá, đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ thống thị trường này sẽ đảm bảo cho toàn bộ quá trìng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi - từ nguồn đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mai, chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư. 7. Trình độ quản lý và năng lực của người lao động. Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả FDI. Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao động phù hợp với yêu cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng xuất cao. Bên cạnh đó, các nhà ĐTNN sẽ giảm một phần chi phí đào tạo và bớt được thời gian đào tạo nên tiến độ và hiệu quả của các dự án sẽ đạt đúng theo mục tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho nước chủ nhà thua thiệt, đặc biệt là ở các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI. Sai lầm của các cán bộ quản lý nhà nước có thể làm thiệt hại về thời gian, tài chính cho nhà ĐTNN và cho nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà phải tích cực nâng cao trình độ dân trí của người lao động để không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến mà còn nâng cao kỹ thuật quảnlý kinh tế. 8. Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới. Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác, mà còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà dầu tư sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của họ. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á trong thời gian qua dã làm giảm tốc độ đầu tư FDI vào khu vực này. Hàng loạt các nhà đầu tư rút vốn hoặc không đầu tư nữa vì sợ rủi ro cao. 9. Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả. Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và hỗ trrợ chocác nhà ĐTNN. Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là: - Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật bảo đảm. - Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài. - Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất...Bởi yếu tố này tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao. Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc: Tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN. Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực là bộ máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực, năng động,có phẩm chất đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội. PHẦN II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO CÁC KHU VỰC KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế của Việt Nam Hiện nay, thực trạng về thu hút vốn đầu tư nước ngoài được xem là vấn đề rất quan trọng đối với nước ta, đặc biệt là lúc toàn thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà xuất phát từ cuộc khủng hoảng nền kinh tế Mỹ. Vì vậy, đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần có những biện pháp để giữ được sức hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để hiểu rõ hơn thực trạng thu hút vốn đầu tư của nước ta trong những thời gian qua, chúng ta hãy xem qua bảng biểu tổng kết từ cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư thể hiện sức thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài của nước ta trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Bảng 1: tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2000 - 2008 Năm số dự án được cấp phép vốn đăng ký (triệu USD) vốn thực hiện (triệu USD) 2000 389 2696 2414 2001 550 3230 2451 2002 802 2963 2591 2003 748 3146 2650 2004 723 4222 2852 2005 922 6339 3289 2006 797 7566 4105 2007 1445 21312 8028 2008 1171 64011 10419 Từ bảng biểu trên ta có thể thấy đến năm 2008 vừa qua, số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đột biến. Từ đó thể hiện Việt Nam đã thực sự thu hút được rất nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó cũng thấy rằng nước ta là nước rất có tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó cũng đòi hỏi nước ta cũng phải có những chính sách hợp lý, các doanh nghiệp phải biết sử dụng các nguồn vốn đó một cách có hiệu quả. Sau đây là cụ thể tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nghành và theo vùng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21618.doc
Tài liệu liên quan