MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I 2
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ, THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ KINH TẾ - TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ 2
1. Khái niệm về tranh chấp kinh tế, thương mại và việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án 2
1.1. Khái niệm tranh chấp kinh tế 3
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án 4
2. Quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ 5
PHẦN II 8
NHỮNG VẤN ĐỀ VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI ĐỊA PHƯƠNG 8
1. Vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Toà kinh tế 8
1.1. Về thẩm quyền theo vụ việc 8
1.2. Về thẩm quyền của Toà các cấp 10
1.3. Về thẩm quyền theo lãnh thổ 10
2. Vấn đề áp dụng chế tài phạt hợp đồng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại 11
PHẦN III 14
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC KINH DOANH, 14
THƯƠNG MẠI CỦA TOÀ KINH TẾ Ở ĐỊA PHƯƠNG 14
1. Một số giải pháp khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong thực tiễn xét xử của Toà án 14
2. Một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả công tác giải quyết của Toà án 14
KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7431 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình hoạt động Thương Mại (Giáo trình luật thương mại- Tập 2- Trường Đại học luật Hà Nội).
“Tranh chấp kinh tế” là hệ quả phát sinh từ các quan hệ kinh tế- các quan hệ có tính chất tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời. Tính chất, đặc điểm của các tranh chấp kinh tế bị chi phối bởi tính chất nội dung của các quan hệ kinh tế. Hay nói cách khác, cơ sở phát sinh của các tranh chấp kinh tế là các hoạt động kinh tế giữa các chủ thể.
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà án
+. Khái niệm
“Giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại” được hiểu là các hình thức, các phương pháp nhằm giải quyết các bất đồng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có tranh chấp.
+. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại
Đảm bảo việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng kịp thời, chính xác, nghiêm minh, đúng pháp luật.
Đảm bảo các cho các phán quyết của Toà án được thực thi một cách nghiêm chỉnh đúng pháp luật. Đồng thời, bảo đảm đến mức tối đa sự gián đoạn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể tranh chấp.
2. Quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại tại Toà kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ
a. giới thiệu về toà kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ
Toà kinh tế- Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ được thành lập vào năm 1994 (tỉnh Vĩnh Phú cũ) và được tách ra vào đầu năm 1997. Với vai trò là Toà chuyên trách của Toà án Tỉnh, trong cơ cấu gồm có sáu thành viên thì có ba thẩm phán chuyên trách và có ba thư ký.
b. Thực tiễn qua gần 10 năm xét xử của Toà kinh tế - Toà án nhân tỉnh Phú Thọ
Trong khoảng từ 1997 đến tháng 4 năm 2007 Toà kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã giải quyết 32 vụ án về tranh chấp kinh tế, thương mại. Trong đó tranh chấp về hợp đồng kinh tế có 31 vụ bao gồm:
- Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá 12 vụ chiếm 38.70%. Tranh chấp này tăng mạnh từ năm 1998 đến 2006 (số liệu thống kê Toà kinh tế từ năm 1998 đến năm 2000).
- Tranh chấp về hợp đồng xây dựng cơ bản là 14 vụ chiếm 45,16%.Trong những năm qua tranh chấp liên quan đến hợp đồng xây dưng cơ bản tăng mạnh từ năm 1999 đến 2000 (số liệu thống kê Toà kinh tế từ năm 1997- tháng 4/2007).
- Tranh chấp về hợp đồng xuất nhập khẩu uỷ thác là 2 vụ chiếm 6,45% (một vụ năm 2002 giữa công ty DAELIM- CORPORATION và công ty TNHH TASCO- MATERIAL; và một vụ giữa Công ty xây dựng số 25 và Công ty TNHH KOR- VIPACK).
- Về tranh chấp trong thành lập, hoạt động, giải thể Công ty có 1 vụ là về việc tranh chấp giữa thành viên Công ty là bà Đào Thị Phương với Công ty cổ phần Hoà Thanh (chiếm tới 3,12%)
- Về tranh chấp liên quan đến mua bán Cổ phiếu, Trái phiếu không có vụ nào.
- Về các tranh chấp kinh doanh thương mại khác không có vụ nào.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, em thấy về tranh chấp hợp đồng kinh tế là có số vụ cao nhất là 31 vụ, trong đó hoà giải được 8 vụ chiếm tới 25,80%. Các vụ án được hoà giải đều được cơ quan Toà án chấp nhận và dựa trên sự thoả thuận thuận tình của 2 bên. Đưa ra xét xử là 23 vụ chiếm tới 74,19%. Các vụ án được đưa ra xét xử thì trong đó xét xử sơ thẩm thì có những vụ án đã xét xử sơ thẩm đến phúc thẩm và rồi lại được xét xử lại kéo dài nhiều năm. Tiêu biểu như vụ: về việc tranh chấp hợp đồng mua bán trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa Công ty TNHH khai thác đá Hương Cần và Công ty cổ phần xây dựng Hùng Vương. Với vụ án này, Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên tại bản án sơ thẩm số 01/2001/ KDTM-ST ngày 31/05/2001. Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà ông Nguyễn Ngọc Triệu đã tuyên: buộc Công ty cổ phần Xây dựng Hùng Vương phải thanh toán cho Công ty TNHH Khai thác Đá Hương Cần tiền nợ gốc là 304.000.000 đồng, tiền lãi chậm trả 1,5%/tháng tính đến ngày tuyên án sơ thẩm là 21 tháng 8 ngày, thành tiền là 96.236.000 đồng. Tổng số tiền Công ty cổ phần Xây dựng Hùng Vương phải thanh toán trả Công ty TNHH khai thác Đá Hương Cần là 400.236.000 đồng . Tại bản án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội bản án số 159/2001/ KT-PT ngày 17/8/2001 với Hội đồng xét xử, Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà Ông Trần Đình Dần đã tuyên quyết định: buộc Công ty cổ phần Xây dựng Hùng Vương phải thanh toán cho Công ty TNHH khai thác Đá Hương Cần cả số tiền nợ gốc là 304 triệu đồng lãi chậm trả 1.5%/tháng tính đến ngày tuyên án sơ thẩm là 21 tháng 8 ngày, thành tiền là 96.236.000 triệu đồng. Tổng số tiền Công ty cổ phần Xây dựng Hùng Vương phải thanh toán cho Công ty TNHH khai thác Đá Hương Cần là: 400.236.000 đồng. Vụ án này sau đó đã bị huỷ và sau đó lại được xét xử sơ thẩm tại Toà kinh tế- Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ.
Trong tranh chấp về hợp đồng kinh tế thì tranh chấp về hợp đồng xây dựng cơ bản và hợp đồng mua bán hàng hoá có số lượng lớn (hợp đồng xây dựng cơ bản là 14 vụ chiếm 45,16%, hợp đồng mua bán hàng hoá là 10 vụ chiếm 32,25%).
Còn số vụ về tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hoá là 4 vụ chiếm 12,90%; tranh chấp về hợp đồng xuất nhập khẩu uỷ thác là 2 vụ chiếm 6,45%.
Tranh chấp các hợp đồng có nhân tố nước ngoài là :1 vụ chiếm 3,4 %. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, các tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hoá; tranh chấp về xuất nhập khẩu uỷ thác; tranh chấp các hợp đồng có nhân tố nước ngoài đều có số lượng ít.
Tóm lại, các tranh chấp về hợp đồng xây dựng cơ bản và hợp đồng mua bán hàng hoá có tỷ lệ cao. Đó là do sự phát triển của nền kinh tế thị trường; các tổ chức kinh tế (Doanh nghiệp, Hợp tác xã, Công ty) bước vào kinh doanh. Đó là quy luật tất yếu các tổ chức kinh tế gặp nhiều sự bỡ ngỡ; chưa hiểu biết nhiều về pháp luật. Do đó, còn nhiều thủ tục chưa đúng pháp luật về đầu tư kinh doanh.
- Số vụ án còn lại từ năm này sang năm khác không nhiều (chỉ chiếm tới 2%). Đặc biệt năm 2001 không có vụ án nào giải quyết;
- Số vụ án tạm đình chỉ có 2 vụ chiếm tới 6,25%;
- Số vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 3 vụ chiếm tới 9,37%;
- Số vụ án có người bảo vệ có quyền và lợi ích của đương sự có 25 vụ chiếm tới 78,12%.
Quyết định của Toà án:
+ Di lý (chuyển vụ án lên Toà án có thẩm quyền) là 3 vụ chiếm tới 9,37%;
+ Tạm đình chỉ, đình chỉ 2 vụ chiếm tới 6,25%;
+ Số vụ án hoà giải thành là 8 vụ chiếm tới 25%;
+ Số vụ án đã xét xử 24 vụ chiếm tới 75%;
+ Số vụ án có kháng cáo, kháng nghị là 23 vụ chiếm tới 71,87%;
+ Số vụ án bị huỷ có 3 chiếm tới 9,37%.
+ Giá trị giải quyết: thường có giá trị lớn;
PHẦN II
NHỮNG VẤN ĐỀ VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI ĐỊA PHƯƠNG
1. Vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Toà kinh tế
Giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại hiện nay đòi hỏi phải có những hình thức, thủ tục đa dạng, linh hoạt, trong khuôn khổ pháp luật kinh tế, dựa trên sự tôn trọng quyền định đoạt của đương sự, bảo đảm thời gian, bảo đảm bí mật kinh doanh và uy tín của của các bên đương sự, phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế.
Ngày 01/07/1994 trọng tài kinh tế chấm dứt hoạt động. Toà kinh tế, một Toà chuyên trách của Toà án nhân dân đã được ra đời, có chức năng giải quyết và xét xử các vụ án kinh tế. Pháp luật nội dung trong thời gian qua ở nước ta đã có nhiều bước tiến đáng kể theo hướng văn minh, hiện đại. Việc xác định một vụ việc tranh chấp có phải là tranh chấp về kinh tế, thương mại và vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại của Toà án không? Nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thụ lý, chuẩn bị hồ sơ và giải quyết tranh chấp cũng như việc thi hành quyết định, bản án của Toà án. Vậy chúng ta cùng đi tìm hiểu việc xác định thẩm quyền có nhữnh khó khăn gì.
1.1. Về thẩm quyền theo vụ việc
Thứ nhất: khi thẩm phán áp dụng BLTTDS năm 2004, thì trong đó không sử dụng thuật ngữ Tranh chấp hợp đồng kinh tế như trước đây mà dùng thuật ngữ tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại. Vì vậy, chưa rõ là các tranh chấp khác, cũng phát sinh trực tiếp từ hoạt động kinh doanh, thương mại như các tranh chấp liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh hay các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng… có được áp dụng khoản 1 Điều 29 BLTTDS hay không?
Thứ hai: BLTTDS sử dụng phương pháp liệt kê để xác định các hoạt động được coi là hoạt động kinh doanh, thương mại và không thể liệt kê hết các hoạt động kinh doanh thương mại trong thực tế. Bởi vậy, không rõ là những tranh chấp phát sinh từ các lĩnh vực ngoài 14 lĩnh vực được liệt kê tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2004. Ví dụ : tranh chấp phát sinh từ quan hệ giám định, đấu thầu, đấu giá… có được coi là tranh chấp kinh doanh, thương mại hay không?
Thứ ba: Để áp dụng khoản 1 Điều 29 BLTTDS thì các bên tranh chấp phải có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận khi tham gia quan hệ. Nhưng thực tế hiện nay đang tồn tại nhiều quan hệ hợp đồng kinh tế được ký giữa một bên không có đăng ký kinh doanh và không có mục đích lợi nhuận. Nhưng theo khoản 1 Điều 29 BLTTDS thì đây không phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại vì một bên không có đăng ký kinh doanh. Mặt khác, cũng không thể coi đây là tranh chấp về dân sự vì khoản 3 Điều 25 BLTTDS quy định tranh chấp dân sự là các tranh chấp về hợp đồng dân sự. Do vậy, gây nhiều khó khăn cho các thẩm phán khi tham gia nhận dạng một vụ tranh chấp kinh tế.
Thứ tư: BLTTDS đã cụ thể hoá các loại tranh chấp công ty bằng cách liệt kê bổ các tranh chấp liên quan đến việc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. BLTTDS quy định tranh chấp công ty phải là các tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty hoặc giữa các thành viên công ty với nhau. Bởi vậy, có một vấn đề vẫn chưa được làm rõ là các tranh chấp giữa công ty hoặc các thành viên của công ty với người được thuê làm giám đốc công ty có phải là vụ án kinh tế không? Thực tế đã xuất hiện nhiều vụ việc phát sinh từ hoạt động quản lý của công ty .Ví dụ điển hình là thành viên công ty là bà Đào thị Phương yêu cầu Toà án huỷ quyết định quản lý của cơ quan quản lý Công ty cổ phần Hoà Thanh. Loại việc này có được coi là tranh chấp công ty hay chỉ là các yêu cầu về kinh doanh thương mại? Cũng lưu ý rằng Điều 30 BLTTDS không liệt kê cụ thể loại yêu cầu này mà chỉ quy định chung chung là “Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định”. Ngoài ra, khi xét xử từng vụ án các thẩm phán rất khó khăn trong việc hiểu như thế nào là tranh chấp có mục đích lợi nhuận trong các tranh chấp về chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau nếu các bên có mục đích lợi nhuận.
1.2. Về thẩm quyền của Toà các cấp
Thứ nhất: theo cách phân định thẩm quyền theo cấp Toà án của BLTTDS thì thực tế áp dụng có thể dẫn đến một số tranh chấp rất phức tạp lại thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện trong khi đó một số tranh chấp khác, đơn giản hơn lại thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh.
Thứ hai: nhu cầu uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự quán của Việt Nam hoặc cho Toà án nước ngoài, trong nhiều trường hợp thường chỉ rõ sau khi Toà án đã thụ lý vụ án. Trong khi đó việc xác định chính xác Toà án theo cấp xét xử đã phải làm từ khi Toà án quyết định thụ lý vụ án. Tất nhiên, Thẩm phán cấp huyện được phân công giải quyết vụ án có thể chọn giải pháp chuyển vụ án cho Toà cấp tỉnh nếu phát hiện cần phải uỷ thác tư pháp. Nhưng việc chuyển vụ án như vậy sẽ làm chậm quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
1.3. Về thẩm quyền theo lãnh thổ
Theo điểm b khoản 1 Điều 35 BLTTDS ghi nhận quyền của các đương sự được tự thoả thuận với nhau bằng văn bản để yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn giải quyết vụ việc. Quy định này đã tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong thực tế, đó là khi ký kết hợp đồng, các bên thoả thuận lựa chọn Toà án nơi một trong các bên giải quyết tranh chấp nhưng khi tranh chấp xảy ra thì nguyên đơn lại khởi kiện đến Toà án khác yêu cầu giải quyết làm cho Toà án này rất lúng túng trong việc quyết định thụ lý hay không thụ lý vụ kiện.
Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Theo điểm g khoản 1 Điều 36 quy định: “Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”.Mặc dù BLTTDS đã sử dụng cụm từ “hợp đồng được thực hiện” thay cho cụm từ “thực hiện hợp đồng” nhưng vẫn chưa rõ ràng là nếu trong hợp đồng các bên quy định một địa điểm thực hiện hợp đồng nhưng trên thực tế hợp đồng hoàn toàn không được thực hiện và giữa các bên có tranh chấp thì Toà án địa phương, nơi các bên thoả thuận thực hiện hợp đồng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không? vấn đề này cần được hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất trong thực tế.
2. Vấn đề áp dụng chế tài phạt hợp đồng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại
Khi giải quyết một tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại. Thẩm phán thường xuyên phải áp dụng các chế tài trong thương mại. Tuy nhiên, áp dụng chế tài nào, điều kiện để áp dụng, mức phạt và mức bồi thường thiệt hại cụ thể như thế nào còn tuỳ thuộc vào sự nhận thức của thẩm phán đối với các quy định của điều luật và sự đánh giá, nhận định về mức độ vi phạm, nguyên nhân vi phạm, bối cảnh vi phạm để đưa ra phán quyết về chế tài vi phạm hợp đồng mà bên vi phạm phải gánh chịu. Theo quy định tại Điều 292-Luật thương mại 2005, các chế tài bao gồm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; huỷ bỏ hợp đồng; các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại cho thấy, khi có tranh chấp hợp đồng, nguyên đơn thường yêu cầu Toà án buộc bị đơn phải thực hiện các nghĩa vu theo hợp đồng, bên cạnh đó là việc yêu cầu áp dụng các chế tài phạt và bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bị đơn gây ra. Thẩm phán sẽ phải thường xuyên xử lý các yêu cầu của đương sự xung quanh việc áp dụng chế tài này.Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu quá trình giải quyết các tranh chấp em chỉ xin đề cập đến việc áp dụng chế tài phạt vi phạm.
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật Thương mại.
Như vậy, chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng khi các bên có sự thoả thuận trước trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng không có thoả thuận thì bên bị vi phạm mất quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng và chỉ có quyền đòi bồi thường thiệt hại (Điều 307).Tuy nhiên, có thể nên hiểu quy định của điều luật này một cách cứng nhắc như vậy không? nếu trong hợp đồng các bên không quy định việc phạt vi phạm hợp đồng, nhưng sau đó, các bên có thoả thuận mới hoặc một bên thừa nhận vi phạm và chấp nhận mức phạt do bên bị vi phạm đưa ra, thì có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng được không? Đây là vấn đề chưa được pháp luật quy định. Tuy nhiên, theo quan điểm của em, trường hợp này có thể áp dụng chế tài phạt, bởi xét cho cùng, đây là biện pháp răn đe các bên trong việc vi phạm hợp đồng, khi bên vi phạm đã thừa nhận vi phạm hợp đồng và chịu phạt thì không có lý do gì để chấp nhận điều đó.
Về mức phạt vi phạm hợp đồng, Điều 301- Luật thương mại 2005 qui định “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” (Trừ trường hợp dịch vụ giám định, mức phạt không quá 10 lần thù lao dịch vụ giám định). Qui định này đã khá rõ ràng, các bên có quyền thoả thuận về mức phạt hoặc tổng mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; giới hạn thứ hai là mức phạt được tính trên giá trị nghĩa vụ Hợp đồng bị vi phạm. Nếu các bên không thoả thuận cụ thể về mức phạt thì Thẩm phán sẽ cân nhắc để áp dụng mức phạt tuỳ vào mức độ vi phạm , nguyên nhân của việc vi phạm nhưng tối đa không quá 8% nghĩa vụ bị vi phạm hoặc theo mức mà trước đây các bên đã nhiều lần áp dụng và mặc nhiên thừa nhận. Nếu các bên thoả thuận cụ thể về mức phạt trong hợp đồng thì Thẩm phán cũng đánh giá mức phạt cụ thể nhưng không quá mức phạt mà các bên mà đã thoả thuận.Tuy nhiên, áp dụng mức phạt nào, thẩm phán cũng tuỳ từng trường hợp cụ thể để vận dụng. Tiêu biểu như vụ án sau:
Công ty xây dựng tổng hợp phú thọ(địa chỉ: Việt Trì-Phú Thọ) bán cho công ty xây dựng và phát triển nông thôn(địa chỉ :Việt Trì- Phú Thọ) 50 máy bơm công nghiệp mới 100%, xuất xứ từ Italia. Tổng giá trị hợp đồng là 1 tỷ đồng. Các bên thoả thuận hàng được giao nhiều đợt; bên nào vi phạm hợp đòng sẽ bị phạt 8% trên giá trị nghĩa vụ bị vi phạm. Đợt giao hàng thứ nhất, Công ty xây dựng tổng hợp Phú Thọ tiến hành giao 20 máy, có giá trị 400 triệu đồng. Ngay từ đợt giao hàng này, Công ty xây dựng tổng hợp Phú Thọ đã giao hàng không đúng chất lượng (Cụ thể, hàng không có xuất xứ từ Italia, hàng cũ đã qua sử dụng), Công ty xây dựng và phát triển nông thôn Phú Thọ từ chối không nhận hàng và huỷ hợp đồng.Hai ben phát sinh tranh chấp và Công ty xây dựng và phát triển nông thôn Phú Thọ đã kiện Sông ty xây dựng tổng hợp Phú Thọ ra Toà án với yêu cầu phạt Công ty xây dựng tổng hợp Phú Thọ 8% trên toàn bộ giá trị hợp đồng, cụ thể 80 triệu đồng. Khi giải quyết vụ trnh chấp này, có hai quan điểm khác nhau trong Toà kinh tế xung quanh việc áp dụng mức phạt hợp đồng.
Quan điểm của thẩm phán thứ nhất cho rằng: Mức phạt 8% trên tổng giá trị hợp đồng được chấp nhận vì ngay lần gia hàng đầu tiên, bên bán đã không thực hiện đúng hợp đồng, như vậy, bên bán đã vi phạm toàn bộ hợp đồng.
Quan điểm của các thẩm phán còn lại thì cho rằng: chỉ áp dụng mức phạt trên giá trị hàng giao đợt 1, bởi bên mua đã từ chối nhận hàng và huỷ bỏ hợp đồng. Như vậy,bên mua đã tước đi cơ hội được tiếp tục thực hiện hợp đồng của bên bán. Do đó, bên mua không có quyền đòi phạt trên toàn bộ giá trị hợp đồng.
Khi thẩm phán đưa tranh chấp đó ra giải quyết thì rất khó khăn trong việc áp dụng chế tài về phạt vi phạm hợp đồng và phải làm sao bảo đảm được quyền và lợi ích của các bên đương sự.
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI CỦA TOÀ KINH TẾ Ở ĐỊA PHƯƠNG
1. Một số giải pháp khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong thực tiễn xét xử của Toà án
Toà kinh tế đã đề cao trách nhiệm cá nhân và nâng cao hiệu quả công tác, tiếp theo bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn và ý thức trách nhiệm đối với đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra nghiệp vụ xét xử, công tác thi hành án kinh tế, thương mại và việc chuyển giao bản án, chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong áp dụng pháp luật. Rà soát lại những trường hợp có án bị huỷ, sửa nghiêm trọng. Yêu cầu Thẩm phán phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm bằng văn bản, kiên quyết xử lý đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng về thủ tục.
2. Một số kiến nghị nhằm thực thi hiệu quả công tác giải quyết của Toà án
a. Điều quan tâm duy nhất của đương sự là liệu vụ việc có được giải quyết một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật hay không, liệu bản án, quyết định của toà án có được thực hiện nghiêm túc trong thực tế hay không?
Khi giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại cần phải phân biệt tranh chấp về Dân sự. Nếu không được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì sẽ được coi là tranh chấp về Dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án như một vụ án Dân sự. Cách làm này sẽ loại bỏ được những vướng mắc khi phải xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ nằm ngoài các nhóm tranh chấp về Dân sự qui định tại Điều 25 và tranh chấp về kinh doanh, thương mại qui định tại Điều 29 BLTTDS
Nêu định nghĩa một cách khái quát và đưa ra các dấu hiệu cụ thể để nhận biết các hoạt động được coi là hoạt động kinh doanh, thương mại cụ thể bởi không văn bản pháp luật nào có thể liệt kê hết được các hoạt động kinh doanh thương mại được tiến hành trên thực tế. Các dấu hiệu nhận biết hoạt động kinh doanh, thương mại có thể là:
- Mọi hoạt động từ đầu tư, sản xuất, mua bán, cung ứng dịch vụ trên thị trường
- Do các chủ thể kinh doanh (những tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh) tiến hành
- Được tiến hành để phục vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận của mình.
- Cần thống nhất các tiêu chí để xác định khi nào các chủ thể tham gia quan hệ được coi là mục đích lợi nhuận.
Trong thời gian qua, việc phân biệt mục đích lợi nhuận hay mục đích sinh hoạt, tiêu dùng khi các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế là rất khó khăn hay và hay nhầm lẫn, nhất là khi chủ thể là các cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Ví dụ: Một cá nhân có đăng ký kinh doanh ký hợp đồng bằng văn bản để sử dụng điện thoại di động. Cá nhân này có thể dùng điện thoại để liên lạc với bạn hàng của mình (vì mục đích lợi nhuận) mà cũng có thể dùng điện thoại để liên lạc với bạn bè, người thân (vì mục đích sinh hoạt tiêu dùng).
Vậy tranh chấp hợp đồng sử dụng dịch vụ điện thoại này là tranh chấp kinh doanh, thương mại hay tranh chấp dân sự?
Theo em, để đơn giản cho việc áp dụng pháp luật và nhằm mở rộng phạm vi những tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế, thương mại cần quan niệm mục đích lợi nhuận theo nghĩa rộng với các xu hướng sau:
- Mọi hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện để phục vụ một cách trực tiếp (ví dụ: hành vi mua hàng về để bán lại của một công ty thương mại) hay gián tiếp (ví dụ: Mua máy tính để lưu giữ các thông tin, soạn thảo văn bản phục vụ cho hoạt động bán hàng của mình) đều phải được suy đoán là có mục đích kinh doanh. Thậm chí cả những hành vi tưởng như thuần tuý sinh hoạt, tiêu dùng như Công ty thương mại ký hợp đồng với một Công ty điện tử để mua ti vi cho Cán bộ, Công nhân viên xem cũng phải được coi là mục đích lợi nhuận, nếu Hợp đồng được ký với danh nghĩa của Công ty thương mại đó và tiền thanh toán tính vào chi phí kinh doanh của Công ty.
- Trường hợp bên tham gia quan hệ Hợp đồng là cá nhân có đăng ký kinh doanh, nếu trong văn bản hợp đồng nêu rõ các thông tin về đăng ký kinh doanh thì phải được suy đoán là Hợp đồng được ký trên danh nghĩa của một chủ thể kinh doanh và nhằm mục đích lợi nhuận. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A được Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh để tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Nếu trong văn bản Hợp đồng ghi rõ: Nguyễn Văn A, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số… thì phải suy đoán là ông A có mục đích lợi nhuận khi tham gia quan hệ hợp đồng này.
- Cần quan niệm mọi tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, tổ chức quản lý và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp nói chung và Công ty nói riêng là tranh chấp về kinh doanh, thương mại để được Toà án giải quyết như một vụ án kinh tế mà không bắt buộc các bên tranh chấp phải là thành viên Công ty hoặc Công ty.
Cụ thể:
+ Các tranh chấp giữa Công ty hoặc thành viên Công ty với người được Công ty thuê làm Giám đốc điều hành (không phải là thành viên Công ty)
+ Các tranh chấp phát sinh ngay trong giai đoạn tiền lập Công ty (khi tư cách Công ty và thành viên Công ty chưa hình thành)
+ Các tranh chấp phát sinh trong quá trình chuyển nhượng vốn của thành viên Công ty cho người ngoài, ngay cả khi người nhận vốn chuyển nhượng chưa được xác lập tư cách thành viên Công ty hoặc khi người chuyển nhượng vốn đã chấm dứt tư cách thành viên công ty.
+ Các tranh chấp giữa các xã viên Hợp tác xã với nhau; tranh chấp giữa xã viên Hợp tác xã, tranh chấp giữa Hợp tác xã, xã viên với người được thuê là chủ nhiệm Hợp tác xã (Theo Luật Hợp tác xã 2003) liên quan đến việc thành lập họat động và giải thể Hợp tác xã. Chủ nhiệm Hợp tác xã (theo Luật Hợp tác xã 2003) liên quan đến việc thành lập họat động và giải thể Hợp tác xã.
Để phù hợp với quy định của BLTTDS , Toà án Nhân Dân Tối Cao có thể hướng dẫn các tranh chấp nói trên là các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại như quy định mang tính dự phòng tại khoản 4 điều 29 BLTTDS.
b. Cần xây dựng và ban hành hệ tiêu chí cụ thể minh bạch để xác định tiêu chí cụ thể, minh bạch để xác định tính chất phức tạp của tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại và nhu cầu uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở Nước ngoài hoặc do Toà án Nhà nước nhằm phân định chính xác thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh, qua đó hạn chế tình trạng chuyển vụ án từ huyện lên tỉnh và từ tỉnh xuống huyện một cách tuỳ tiện.
- Cần hướng dẫn theo hướng mở rộng quyền thoả thuận của các bên để lựa chọn Toà án thích hợp giải quyết các tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh. BLTTDS mới quy định một trường hợp các bên tranh chấp được quyền thoả thuận lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại. theo Điểm b khoản 1 Điều 35 thì các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án, nơi nguyên đơn có trụ sở hoặc cư trú giải quyết tranh chấp. Nhưng trên thực tế có rất nhiều trường hợp các bên tham gia quan hệ thoả thuận trước với nhau lựa chọn Toà án của một địa phươn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (2).doc