MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH THU THẬP THÔNG TIN 2
1.Giới thiệu về địa bàn thực tập . 3
2. Thời gian thực tâp. 5
3. Phương pháp thu thập và nguồn tư liệu thu thập . 5
4. Những vấn đề có tính chất lí luận trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN SƠN DƯƠNG. 14
1. Tổ chức cơ cấu hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. 14
2. Về đặc điểm của hoạt động thi hành án của cơ qua thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. 15
3. Những biện pháp được sử dụng tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương để thi hành án. 17
5. Vấn đề án tồn đọng và nguyên nhân của án tồn đọng tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. 20
CHƯƠNG III: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ RÚT RA TỪ THỰC TIỄN KHẢO HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 22
KẾT LUẬN 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8120 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân sự tại cơ quan Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương – tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đúng bản án, quyết định của Tòa án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trái pháp luật, vi phạm quy chế Chấp hành viên thì bị xử lí kỉ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường”. Như vậy, thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử và là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án.
Từ những phân tích trên, với ý nghĩa là một giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án dân sự nói chung có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau: Thi hành án dân sự Việt Nam là hoạt động hành chính – tư pháp nhằm thực hiện đầy đủ, kịp thời những bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên do Chấp hành viên và cơ quan thi hành án tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định.
4.2. Các nguyên tắc thi hành án dân sự.
Các nguyên tắc thi hành án dân sự là những quan điểm chỉ đạo quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Là một bộ phận cấu thành của tổ chức và hoạt động Nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự vừa tuân thủ những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động Nhà nước như: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước …. vừa tuân thủ nhưng nguyên tắc mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ đó là các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc đảm bảo hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án ( Điều 3 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004).
Việc thi hành nghiêm chỉnh và triệt để các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án là một tất yếu khách quan trong hoạt động tư pháp của bất kì nhà nước nào. Bản án, quyết định của Tòa án là sự phán xét nhân danh Nhà nước và phải được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định : “ Các bản án , quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành thì tất cả các đương sự, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành không cho phép bất kì một sự cản trở, chống đối nào đối với việc thi hành các bản án, quyết định đó.
Nội dung của các bản án, quyết định phải được thi hành một cách đầy đủ, kịp thời. Khi phát hiện thấy những sai sót hoặc điều chưa rõ ràng trong bản án, quyết định của Tòa án, những chủ thể tham gia hoạt động thi hành án chỉ có quyền khiếu nại, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định. Mặt khác, khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành thì cơ quan Tòa án, Thi hành án hoặc bất cứ một cơ quan nào khác cũng đều không có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung của vụ án, quyết định đó. Tòa án nơi đã đưa ra bản án, quyết định được đưa ra thi hành chỉ có quyền giải thích những điều mà cơ quan thi hành án và Chấp hành viên yêu cầu.
Việc đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành là đảm bảo sự tôn trọng pháp luật, hiệu lực của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có một bộ máy, cơ chế thích hợp, đội ngũ cán bộ đủ năng lực đảm bảo cho hoạt động thi hành án có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong từng giai đoạn xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ Nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc chỉ có Chấp hành viên, cơ quan thi hành án được thành lập theo quy định của pháp luật là có thẩm quyền thi hành án.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của công tác thi hành án dân sự Việt Nam , pháp luật đã xác lập những cơ sở pháp lí về tính chuyên trách của họat động thi hành án dân sự. Điều 24 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 quy định : “ Tại các Tòa án nhân dân địa phương có Chấp hành viên làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định về dân sự, những khỏan về bồi thường và tài sản trong các bản án hình sự”. Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 quy định chỉ có thủ trưởng cơ quan thi hành án mới có quyền ra quyết định thi hành án và Điều 12 xác định chỉ có Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật và được bảo vệ. Nội dung các quy định này tiếp tục được khẳng định Khoản 1 và Khoản 2 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Nguyên tắc này không chỉ khẳng định tính chuyên trách của hoạt động thi hành án dân sự mà còn thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tập thể. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, khi trình độ văn hóa pháp lí của nhân dân còn hạn chế nguyên tắc này có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội chống lại hiện tượng “ thỏa thuận” thuê người thi hành án, “ dịch vụ đòi nợ” gây thiệt hại đến lợi ích của nhân dân lao động.
Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự với chủ động tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trong hoạt động thi hành án dân sự.
Việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của người được thi hành án thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hoạt động thi hành án dân sự và thi hành án hình sự. Khi bản án hình sự có hiệu lực pháp luật, việc thi hành các bản án đó được các cơ quan chức năng thực hiện theo quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào ý chí của đương sự. Đối với các vụ án dân sự nói chung, sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình về việc có thi hành các phán quyết của Tòa án. Pháp luật thừa nhận sự thỏa thuận tự nguyện của người được thi hành án và người phải thi hành án về thể thức, phương pháp và những vấn đề khác liên quan đến việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án nếu sự thỏa thuận đó đúng theo quy định của pháp luật, không vi phạm lợi ích của Nhà nước, xã hội và chuẩn mực đạo đức chung.Điều 6 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định : “ 1. Nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án; 2. Người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức thi hành án, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội ….”.
Bên cạnh việc tôn trọng quyền tự định đọat , tự nguyện thi hành án của đương sự, pháp luật còn quy định quyền chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trong việc tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Khi có yêu cầu thi hành án của người được thi hành án hoặc người phải thi hành án cơ quan thi hành án và Chấp hành viên chủ động tiến hành các trình tự thi hành án và được áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật buộc người phải thi hành án thực hiện đúng phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Điều 22 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định việc thủ trưởng cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án trong những trường hợp sau:
Án phí, lệ phí tòa án, trả lại án phí, lệ phí tòa án;
Hình phạt tiền;
Tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính;
Xử lí vật chứng đã thu giữ;
Thu hồi đất theo quyết định của Tòa án;
Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của Tòa án.
Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án thì sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật( Điều 7 Pháp lệnh).
Nguyên tắc kết hợp vai trò chủ của Chấp hành viên cơ quan thi hành án trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Đây là một nguyên tắc quan trọng, xuất phát từ đặc thù của tổ chức hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta. Thực tiễn thi hành án dân sự trong những năm qua đã khẳng định tính đúng đắn, phù hợp của nguyên tắc này. Họat động thi hành án dân sự nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, tập thể, giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội không chỉ là hoạt động chuyên môn thuần túy của các cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp tổ chức chính quyền và toàn xã hội. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, việc đặt công tác thi hành án dân sự trong tổng thể hoạt động triển khai các nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì mới thấy hết được ý nghĩa của nguyên tắc này. Sự phối hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của ủy ban nhân dân các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân trong hoạt động thi hành án dân sự. Nguyên tắc này được quy định tại các Điều 8 và Điều 10 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Điều 8 Pháp lệnh thi hành án dân sự quy định trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phối hợp chỉ đạo các cơ quan trong việc thi hành án ở địa phương; chỉ huy các lực lượng quân đội có trách nhiệm chỉ đạo công tác phối hợp thi hành án trên địa bàn mình đóng quân; lực lượng công an, cảnh sát có trách nhiệm giữ gìn trật tự, kịp thời ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; các tổ chức và đơn vị hữu quan và mọi công dân có trách nhiệm giúp đỡ thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên nhằm đảm bảo cho công tác thi hành án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Điều 10 của Pháp lệnh quy định trách nhiệm phối hợp, kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát trong việc thực hiện công tác thi hành án. Để đảm bảo cho công tác thi hành án được diễn ra theo đúng các trình tự, quy định của pháp luật thì việc tham gia của Viện kiểm sát vào hoạt động này là hết sức cần thiết. Thực hiện nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát sẽ giám sát toàn bộ hoạt động của công tác thi hành án của Chấp hành viên và thủ trưởng cơ quan thi hành án tránh được những sai sót về mặt tố tụng đồng thời phát hiện nhanh chóng, kịp thời những hành vi sai phạm, tiêu cực của Chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án và cán bộ làm công tác thi hành án, đem lại sự tin tưởng vào sự trong sạch về công tác thi hành án đối với công dân và toàn xã hội. Tuy nhiên, sự phối hợp công tác không có nghĩa là đùn đẩy, dựa dẫm, không rõ ràng trách nhiệm. Chấp hành viên cơ quan thi hành án được pháp luật giao cho chức năng thi hành án, không chỉ giữ vai trò tham mưu mà thực sự chủ động tổ chức tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành kịp thời, đúng các bản án, quyết định của Tòa án.
Nguyên tắc thi hành đúng đắn, kịp thời các bản án, quyết định của Tòa án theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Thi hành đúng đắn, kịp thời bản án, quyết định của Tòa án là nguyên tắc có
tính bắt buộc đối với hoạt động thi hành án. Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đưa ra thi hành thì Chấp hành viên có trách nhiệm thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng đắn các phán quyết của Tòa án không được phép có bất kì sự thay đổi nào đối với nội dung bản án, quyết định đó mà chỉ được quyền yêu cầu Tòa án nơi đã ra bản án, quyết định đó giải thích những vấn đề chưa rõ ràng, còn vướng mắc. Khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh quy định : “ Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án; đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự”. Tuy nhiên, việc thi hành đầy đủ nội dung của bản án, quyết định của Tòa án không có nghĩa là Chấp hành viên có thể tùy tiện áp dụng mọi biện pháp để đạt được mục đích mà phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định trong quá trình thi hành án. Pháp luật đã quy định chặt chẽ, cụ thể thủ tục thi hành án từ thời điểm bắt đầu cho đến giai đoạn kết thúc quá trình thi hành án. Các biện pháp mà cơ quan thi hành án có thể thực hiện như kê biên, định giá tài sản, bảo quản, bán đấu giá tài sản, các biện pháp cưỡng chế vv... mặt khác, pháp luật cũng quy định căn cứ thời hạn để đưa bản án, quyết định ra thi hành. Việc quy định cụ thể về thời hiệu thi hành án, thời hạn tự nguyện thi hành án, căn cứ tạm hoãn, tạm đình chỉ và đình chỉ thi hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án… tạo cơ sở pháp lí cho Chấp hành viên, cơ quan thi hành án tổ chức việc thi hành án kịp thời, đúng đắn tránh những sai sót, tùy tiện trong quá thực hiện nhiệm vụ. Việc tuân thủ pháp luật, thi hành đúng đắn và kịp thời các bản án, quyết định của Tòa án tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, chống phiền hà, gây khó khăn trong quá trình thi hành án, góp phần tạo nên niềm tin cho người dân vào pháp luật, vào hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN SƠN DƯƠNG.
Sau bước đầu thu thập các thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu của Chuyên đề Tôi đã tiến hành tìm hiểu hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương và đã thu thập được một số thông tin về hoạt động thi hành án của cơ quan . Đó là:
Tổ chức cơ cấu hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương.
Tổ chức hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương bao gồm 11 thành viên trong đó có 5 Chấp hành viên 4 Cán bộ giúp việc 1 kế toán 1 văn thư lưu trữ. 5 Chấp hành viên của cơ quan bao gồm:
Chấp hành viên Hoàng Quang Hà ( Trưởng cơ quan thi hành án);
Chấp hành viên Trần Quang Hưng( Phó Trưởng cơ quan thi hành án);
Chấp hành viên Ma Đình Thành;
Chấp hành viên Nguyễn Thành Thụy;
Chấp hành viên Hoàng Thị Hoa.
5 Chấp hành viên trong cơ quan là những người đáp ứng đủ những yêu cầu và tiêu chuẩu theo quy định của pháp luật hiện hành : Trung thành với Tổ quốc Việt Nam, có phẩm chất đạo đức và sức khỏe phục vụ cho công tác, có trình độ chuyên môn là Cử nhân Luật và đã qua đào tạo về nghiệp vụ Chấp hành viên. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ luôn nêu cao tấm gương đạo đức, tận tụy với công việc, thân thiện với đồng nghiệp và mọi người, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao . Các Chấp hành viên của cơ quan luôn là những Đảng viên gương mẫu trong việc tuân thủ chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và vận động mọi người trong cơ quan và nhân dân trong địa bàn mình sinh sống nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, xây dựng đời sống văn hóa.
Hoạt động nghiệp vụ của các Chấp hành viên được tiến hành theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lí cấp trên. Do đặc thù về địa bàn tiến hành chức năng nhiệm vụ và yêu cầu của công tác mỗi Chấp hành viên được phân công phụ trách thực hiện công tác thi hành án trên một địa bàn nhất định trên cơ sỏ tính toán phù hợp với các nhiệm vụ khác và số lượng bản án, quyết định phải thi hành cho mỗi Chấp hành viên. Trung bình mỗi năm một Chấp hành viên được phân công phụ trách giải quyết khoảng 300 bản án hoặc quyết định phải thi hành.
Về đặc điểm của hoạt động thi hành án của cơ qua thi hành án dân sự huyện Sơn Dương.
Là những nét đặc thù phân biệt với các hoạt động khác có tính chất pháp lí khác
cùng diễn ra trên địa bàn huyện Sơn Dương đó là:
Quan hệ pháp luật thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương được hình thành trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án về giải quyết tranh chấp dân sự được đưa ra thi hành và được tiến hành theo một trình tự do pháp luật quy định . Đặc điểm trên đã phản ánh đúng quy định tại Điều 18 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 : “ Khi bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh này thì Tòa án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho người được thi hành án và người phải thi hành án bản án, quyết định có ghi “để thi hành”.”. Pháp luật còn quy định thời hạn phải đưa ra thi hành đối với các bản án, quyết định của Tòa án xác định rõ phạm vi nội dung và quyền hạn trách nhiệm trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trên cơ sở các bản án, quyết định được Tòa án nhân dân chuyển sang để thi hành.
Trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Sơn Dương, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, người được thi hành án, người phải thi hành án là chủ thể chính, trong đó Chấp hành viên là chủ thể trung tâm.
Tham gia vào quan hệ pháp luật thi hành án dân sự có rất nhiều chủ thể. Trong các chủ thể này thì Chấp hành viên là chủ thể trung tâm, bắt buộc và tham gia vào toàn bộ quá trình thi hành một bản án, quyết định của Tòa án các chủ thể khác chỉ tham gia vào hoạt động thi hành án ở từng thời điểm, từng lĩnh vực mà không nhất thiết phải tham gia vào toàn bộ quá trình và chỉ những chủ thể do pháp luật quy định mới được tham gia vào quá trình thi hành án. Trong hoạt động thi hành án dân sự, Chấp hành viên là người duy nhất chỉ đạo toàn bộ tiến trình thi hành một bản án, quyết định của Tòa án . Là người được Nhà nước giao cho nhiệm vụ thi hành án, Chấp hành viên thực thi nhiệm vụ của mình một cách độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thiếu hoạt động của Chấp hành viên thì không thể có hoạt động thi hành án dân sự. Hoạt động thi hành án của Chấp hành viên nhân danh cơ quan Nhà nước, thể hiện quyền lực Nhà nước, thực hiện trên thực tế sự công bằng xã hội mà Tòa án đã tuyên.
Hoạt động thi hành án dân sự tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương là hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp. Tính chất hành chính trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương thể hiện ở việc cơ quan thi hành án dân sự vừa thuộc quyền quản lí của Phòng tư pháp huyện Sơn Dương( theo chiều ngang) vừa chịu sự quản lí về chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan thi hành án cấp trên(theo chiều ngang). Tính chất tư pháp của hoạt động thi hành án thể hiện ở việc hoạt động thi hành án là một giai đoạn tố tụng độc lập. Hoạt động này được thông qua hoạt động của các cơ quan nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện các công việc do pháp luật quy định nhằm đảm bảo công bằng và trật tự xã hội.
Hoạt động thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương được tiến hành trên địa bàn huyện Sơn Dương để thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật. Với chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật hoạt động thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương thi hành các phán quyết về dân sự, kinh tế, lao động và các phán quyết khác về phần dân sự trong các bản án hình sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang và các Tòa án các tỉnh khác trong cả nước ủy thác thi hành.
Những biện pháp được sử dụng tại cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương để thi hành án.
Biện pháp được hiểu là những cách thức được thực hiện để tiến hành một công việc nhất định. Thi hành án là một hoạt động tư pháp nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của các đương sự có liên quan vì vậy nó phải được tiến hành theo những cách thức chặt chẽ do pháp luật quy định. Để tổ chức công tác thi hành án cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương và Chấp hành viên thường sử dụng hai biện pháp là biện pháp giáo dục, thuyết phục và biện pháp cưỡng chế để tổ chức thi hành án.
Biện pháp giáo dục, thuyết phục.
Đây là biện pháp được các Chấp hành viên và cơ quan thi hành án sử dụng nhiều nhất để tổ chức thực hiện thi hành án. Biện pháp này thể hiện tính đặc thù của thi hành án dân sự so với hoạt động thi hành án hính sự. Giáo dục, thuyết phục các đương sự tự nguyện thi hành án thể hiện quan điểm pháp luật của Nhà nước ta trong việc tạo điều kiện, cơ hội cho người phải thi hành án được chủ động thực hiện các nghĩa vụ theo phán quyết của Tòa án và được phép tự thỏa thuận với người được thi hành án về thời gian và cách thức thực hiện các nghĩa vụ đó.
Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và được chuyển sang cơ quan thi hành án để tổ chức thi hành trong một thời hạn nhất định do pháp luật quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với bản án, quyết định phải có đơn yêu cầu thi hành án) hoặc đến thời hạn do pháp luật quy định(đối với bản án, quyết định được quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh) ra quyết định thi hành án. Chấp hành viên được giao phân công giải quyết vụ việc đó sẽ cấp giấy triệu tập các đương sự đến cơ quan thi hành án để giải thích quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Chấp hành viên có thể trực tiếp đến tận gia đình của người phải thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án và động viên thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ theo phán quyết của Tòa án. Đây là biện pháp được ưu tiên sử dụng để tổ chức công tác thi hành án. Biện pháp này chiếm tới hơn 90% trong tổng số giải quyết các vụ án. Sau khi được giáo dục, thuyết phục mà người phải thi hành án nếu có điều kiện thi hành án mà vẫn cố tình không thi hành thì cơ quan thi hành án sẽ phải tiến hành biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
Biện pháp cưỡng chế.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan thi hành án, chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước, do Chấp hành viên thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh thi hành án dân sự buộc đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc về tài sản theo quyết định của Tòa án.
Cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án hết thời gian tự nguyên, có điều kiện nhưng không tự nguyện thi hành án hoặc cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tan, hủy hoại tài sản được quy định tại Điều 7 Pháp lệnh thi hành án. Khi tiến hành cưỡng chế thi hành án Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự huyện Sơn Dương luôn tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc cưỡng chế thường gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự xã hội nên biện pháp này chỉ được thực hiện khi có yêu cầu bức thiết số vụ việc phải giải quyết thông qua biện pháp này là không nhiều trung bình mỗi năm cơ quan tổ chức khoảng 20-30 vụ cưỡng chế để thi hành án.
4.Một số sai sót, vướng mắc trong công tác thi hành án tại đơn vị.
* Một là, tình trạng án có điều kiện thi hành nhưng chậm thi hành vẫn còn nhiều. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trong đó có nguyên nhân chủ quan thuộc về ý thức trách nhiệm của bản thân cơ quan thi hành án, Chấp hành viên chưa tích cực tổ chức thi hành án, như chậm ra quyết định thi hành án, thi hành án chưa kịp thời xác minh điều kiện thi hành án, tâm lý nể nang ngại va chạm không kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án(Theo bảng thống kê 3 năm trở lại đây). Ví dụ: Có nhiều bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật từ các năm 1990 hoặc 1992 nhưng vì nhiều lí do vẫn chưa được thi hành xong vv…
stt
Năm
Số việc phải giải quyết xong ở thời điểm báo cáo
Số việc thi hành xong ở thời điểm báo cáo
Tỷ lệ giải quyết xong/tổng số phải thi hành
Tỷ lệ thi hành xong /tổng số có điều kiện thi hành
1
2006
252 việc
221 việc
26%
43.22%
2
2007
721 việc
3158 việc
60%
42%
3
2008
613 việc
495 việc
61.23%
75%
Hai là, trong quá trình thi hành án Chấp hành viên thiếu thận trọng , khách quan dẫn đến sai phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật.
Ba là, Chấp hành viên chưa thực hiện đúng các quy định của pháp luật về trả lại đơn yêu cầu thi hành án. Theo quy định tại điều 29 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì “ Thủ trưởng cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền trả lại đơn yêu cầu thi hành án và bản án, quyết định cho người được thi hành án trong trường hợp có quyết định đình chỉ thi hành án hoặc có căn cứ xác định người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án có điều kiện thi hành án thì người được thi hành án có quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định đó trong thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 23 của Pháp lệnh này kể từ ngày có điều kiện thi hành”.Qua khảo sát nghiên cứu cho thấy hiện nay có tình trạng Chấp hành viên chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình trong việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nên dẫn đến một lượng lớn án không có hoặc chưa có điều kiện thi hành nhưng cơ quan thi hành án chưa trả đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.Đây chính là nguyên nhân khá cơ bản dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng hiện nay tại các cơ quan thi hành án dân sự.
Bốn là, vẫn còn tình trạng một số Chấp hành viên chưa nhận thức rõ vai trò, vị trí của Chấp hành viên trong quá trình thi hành án. Ví dụ, có trường hợp Chấp hành viên Ma Đình Thành giao cho cán bộ giúp việc Đào Ngọc Tiến tiến hành xác minh điều kiện thi hành án nhưng thiếu kiểm tra đôn đốc, nhắc nhở cán bộ giúp việc dẫn đến tình trạng người phải thi hành án tẩu tán tài sản ,không thi hành án, gây thiệt hại cho người đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực tiễn việc tổ chức thi hành án dân sự tại cơ quan Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương – tỉnh Tuyên Quang.doc