Công tác kiểm toán được tổ chức rộng rãi ở những nơi có hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy ai có thể làm công tác kiểm toán ? Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, đặc biệt ở những nước đã phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật. hay ngay như các nước trong khối Asean, công tác kiểm toán được quan tâm một cách đặc biệt, họ coi đó là công cụ quan trọng và cần thiết trong công tác quản lý nền kinh tế đất nước. Những chuyên viên kiểm toán phải là những người đã tốt nghiệp ở trường kế toán cao cấp, những tiến sĩ về kế toán. Họ phải qua thi tuyển và sau khi đã có chứng chỉ kiểm toán, họ phải tuyên thệ trước toà án thương mại hoặc toà án kinh tế rồi mới được hành nghề. Những nhà kiểm toán hay nói đúng hơn là những nhà giám định kế toán phải đăng ký hành nghề và mở những văn phòng kiểm toán tương tự như những văn phòng luật sư để thực hiện chức năng kiểm toán. Luật pháp ở nhiều nước phát triển qui định các công, xí nghiệp, các tổ chức doanh nghiệp, xí nghiệp nói chung mỗi khi có tranh chấp hoặc làm việc với các cơ quan thuế vụ, hoặc báo cáo lời lỗ với ngân hàng, hoặc các cơ quan nhà nước, thì các bảng tổng kết tài sản phải có cơ quan kiểm toán chứng nhận mới có giá trị. Bởi vì, chính các cơ quan kiểm toán có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu, kiểm tra các chứng từ và hồ sơ kế toán của các doanh nghiệp, xí nghiệp. và khi họ nhận thấy đúng chính xác, rõ ràng thì họ mới chứng nhận. Các doanh nghiệp, xí nghiệp muốn được bảo đảm về mặt kế toán, muốn có các bảng tổng kết tài sản có giá trị cần phải hợp đồng với một văn phòng kiểm toán, để được văn phòng kiểm toán này thường xuyên hướng dẫn, theo dõi, giúp đỡ để công tác kế toán của các doanh nghiệp, xí nghiệp này đi đúng hướng, không sai lệch, chính xác và hợp lệ.
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6171 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác kiểm toán ở Việt Nam và một số giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra hay không; kiểm toán này còn gọi là kiểm toán tính quy tắc. Kiểm toán các báo cáo tài chính là việc kiểm toán để kiểm tra và xác nhận tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính cũng như việc báo cáo tài chính có phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được thừa nhận rộng rãi hay không.
Theo chủ thể kiểm toán có kiểm toán nội bộ, kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập. Kiểm toán nội bộ là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành; phạm vi của kiểm toán nội bộ xoay quanh việc kiểm tra và đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như chất lượng thực thi trong những trách nhiệm được giao. Kiểm toán nhà nước là công việc kiểm toán do các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước (tài chính, thuế...) và cơ quan kiểm toán nhà nước tiến hành theo luật định; kiểm toán nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của nhà nước taị các đơn vị sử dung vốn và kinh phí của nhà nước (ngoài ra, kiểm toán nhà nước còn thực hiện kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá sự hữu hiệu và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước). Kiểm toán độc lập là loại kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán viên độc lập thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp; kiểm toán độc lập là loại hoạt động dịch vụ tư vấn được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, được quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kiểm toán.
Các loại kiểm toán hoạt động độc lập với nhau giữa chúng cũng có những mối quan hệ nhất định với nhau. Hoạt động của tổ chức kiểm toán nội bộ phục vụ nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quản lý trong nội bộ đơn vị.Đối với các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước và những đôí tượng khác thuộc kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nội bộ là lực lượng hỗ trợ đắc lực và tin cậy của kiểm toán nhà nước. chính vì lẽ đó mà ở nhiều nước trên thế giới (chẳng hạn như Malaysia,CHLB Đức..) người ta đả trao cho kiểm toán nhà nước chức năng chỉ đạo nhiệm vụ và có ý kiến thoả thuận trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm công tác lãnh đạo của tổ chức kiểm toán nội bộ.Hằng năm các tổ chức kiểm toán nội bộ phải báo cáo kết quả kiểm toán trong năm cho kiểm toán nhà nước. Đối với kiểm toán độc lập thì có khác, đây là tổ chức dịch vụ tư vấn tài chính kỹ thuật, kiểm toán được thành lập và hoạt đọng theo Luật doanh nghiệp của mỗi nước và trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc,chuẩn mực kiểm toán do nhà nước qui định (luật kiểm toán, luật kinh tế, luật thương mại, luật thuế..).quan hệ của kiểm toán nhà nước với các công ty hay văn phòng kiểm toán độc lập chỉ nảy sinh trong trường hợp các kiểm toán viên độc lập thực hiện các hợp đồng kiểm toán đối với các đơn vị thuộc đối tượng của kiểm toán nhà nước.
Trong bài viết này em xin đề cập tới một dạng của kiểm toán đó là kiểm toán độc lập. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế muốn quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi phải có một bên thứ ba độc lập khách quan và có trình độ chuyên môn cao được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho các đối tượng quan tâm. Vì vậy nó đã hình thành nên kiểm toán độc lập. Luật pháp nhiều quốc gia có nền kinh tế thi trường phát triển qui định chỉ có các báo cáo tài chính đã được kiểm tra độc lập mới có giá trị pháp lý và độ tin cậy.
Khái quát về kiểm toán độc lập.
2.1. Khái niệm kiểm toán độc lập.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán độc lập. Kiểm toán độc lập có thể được hiểu là sự xem xét và trình bày ý kiến một cách độc lập về các báo cáo tài chính của một tổ chức kinh tế bởi một kiểm toán viên được chỉ định theo nhiệm vụ được giao và tuân thủ theo đúng các qui định có liên quan. Theo” Qui chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân” ban hành kèm theo nghị định số 07-CP ngày 21/4/1994 của Chính phủ thì kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán đọc lập về tính đúng dắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị) khi có yêu cầu của các đơn vị này. Theo định nghĩa của Liên đoàn kinh tế thế giới (IFAC) thì đó là quá trình các kiểm toán độc lập tiến hành kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Kiểm toán độc lập cũng như kiểm toán nói chung đều thực hiện hai chức năng đó là kiểm toán xác nhận và trình bày ý kiến.
Hoạt động kiểm toán độc lập rất phong phú, đa dạng bao gồm cả kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đồng thời nó thực hiện cả các dịch vụ tư vấn, quản lý tài chính, pháp lý, các dịch vụ kinh tế và dich vụ đào tạo khác. Kiểm toán độc lập ra đời không phải tự thân, vị thân mà nó ra đời do tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường đòi hỏi. ở nước ta sau khi chuyển đổi cơ chế quản lý đặc biệt là sau khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì kiểm toán độc lập càng trở nên cấp bách và càn thiết, nó có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế thị trường mở cửa. Kiểm toán độc lập ra đòi nó là một hoạt động kinh doanh dù xét trên lĩnh vực vĩ mô hay vi mô, Nhà nước hay cá nhân thì những lợi ích mà nó mang lại lớn hơn rất nhiều chi phí bỏ ra. Nó ra đòi nhằm cung cấp thông tin tin cậy cho mọi đối tượng theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi. hoạt động kiểm toán ở nước ta còn non trẻ nhưng đả khẳng định được mình trong những năm qua, nó đã đem lại những lợi ích kinh tế nhất định cho đất nước, cho các thành phần kinh tế và doanh nghiệp.
2.2. Vai trò của kiểm toán độc lập.
Kiểm toán độc lập phải kiểm tra, xác nhận tính chính xác, trung thực theo pháp luật quản lý kinh tế đặc biệt là quản lý tài chính, ngân sách Nhà nước đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp, thông qua đó mà phòng ngừa và phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong quản lý kinh tế - tài chính trong cơ quan, doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp đon vị quản lý hành chính sự nghiệp nói chung. Bên cạnh đó, kiểm toán độc lập còn cung cấp cho cơ quan lãnh đạo, quản lý những thông tin, căn cứ chuẩn xác, tin cậy về trạng thái tài chính, hoạt động kinh doanh nói chung của các doanh nghiệp, nhờ vậy mà có thể đề ra được những quyết định đúng đắn trong lãnh đạo, quản lý. Kiểm toán có tác dụng hướng dẫn, đòi hỏi các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị hành chính, sự nghiệp quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước và các nguồn lực trong hoạt động và kinh doanh theo pháp luật. Kiểm toán cung cấp kịp thời và chính xác những thông tin về vi phạm pháp luật trong quản lý kinh tế - tài chính để các cơ quan bảo vệ pháp luật như thanh tra, công an, kiểm sát, toà án thực hiện có hiệu lực và hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, bảo vệ tài sản nhà nước và công dân.
Hệ thống kiểm toán có vai trò quan trọng và không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường, hơn nữa nền kinh tế nước ta lại theo định hướng xã hội chủ nghĩa phảI ngày càng thể hiện được tính ưu việt của nó. Đó là một nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bền vững, tiết kiệm, hiệu quả và công bằng.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TOÁN NÓI CHUNG VÀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP NÓI RIÊNG Ở VIỆT NAM.
Sự cần thiết hình thành kiểm toán độc lập tại Việt Nam.
Thuật ngữ kiểm toán được thế giới biết đến từ rất lâu nhưng ở Việt Nam nó vẫn còn khá mới mẻ. Năm 1991 với hai công ty kiểm toán độc lập đầu tiên ra đời. Mặc dù nước ta đã bắt đầu quan tâm đến công tác kiểm toán nhưng trên thực tế công tác kiểm toán vẫn chưa dược đánh giá đúng mức và chưa được thực hiện một cách rộng rãi, có hệ thống với những hướng dẫn và qui định cụ thể bằng luật pháp. Trong một thời gian dài chúng ta quản lý nền kinh tế của đất nước mà không cần đến hệ thống kiểm toán, đối với các công ty quốc doanh công tác kiểm toán vẫn còn là một điều mới mẻ. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển công tác kiểm toán được tổ chức từ rát lâu và được tổ một cách chặt chẽ, chu đáo, có hệ thống được qui định rõ rệt bằng luật pháp. Công tác kiểm toán được tổ chức một cách rộng rãi ở khắp mọi nơi, có thể nói ở đâu có sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có sự hoạt đọng của các doanh nghiệp cá thể hoặc công ty thì ở nơI đó đều có công tác kiểm toán.
Trong nhữmg năm gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện các loại hình công ty theo Luật công ty bao gồm: các doanh nghiệp Nhà nước được củng cố, các hình thức kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty tài chính và sắp tới là thị trường chứng khoán.
Các hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp. Trong nền kinh tế thị trường, các tài nguyên kinh tế không phải là vô hạn và thị trường sẽ đóng vai trò phân bổ các tài nguyên hữu hạn này theo một phương pháp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Một loại tài nguyên là đồng tiền vốn, nằm ở người có vốn đầu tư và các nhà cho vay. Bên sử dụng đòng tiền vốn để kinh doanh chính là các đơn vị kinh tế. Các nhà cho vay và các nhà đầu tư sẽ quyết định cung cấp đồng tiền vốn cho những đơn vị kinh tế nào mà họ nghĩ là lành mạnh và có hiệu quả cao. Quyết định của nhà đàu tư và các nhà cho vay được cân nhắc dựa trên những nguồn thông tin tài chính mà họ cho là đáng tin cậy. Đó là các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập và như vậy dịch vụ kiểm toán trở thành một dịch vụ rất cần thiết và không thể thiếu được trong cấu trúc hạ tầng nền kinh tế thị trường. Sự cần thiết đó xuất phát từ nhu cầu thực tế diễn ra từng, ngày từng giờ trong tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. Trước hết, xuất phát từ nhu cầu sử dụng thông tin đòi hỏi phải có sự trung thực và hợp lý của báo các tài chính của doanh nghiệp, công ty. Những người quan tâm đến báo cáo tài chính của công ty đó là chủ công ty (Nhà nước, tư nhân, nước ngoài), các nhà đầu tư (trong và ngoài nước), các ngân hàng (khi xem xét cho vay tiền), các nhà cung cấp, các khách hàng, các cơ quan quản lý Nhà nước (uỷ ban kế hoạch Nhà nước, uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư, cơ quan thuế...). Tiếp theo, xuất phát từ nhu cầu cần có một dịch vụ tư vấn về quản lý kiểm toán, kế toán, tài chính, thuế... của ban giám đốc công ty, những dịch vụ này sẽ được kiểm toán phục vụ với chất lượng cao (do đặc tính nghề nghiệp, chuyên môn). Ngoài ra, còn xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm quản lý số vốn mà nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp, hạn chế các mặt tiêu cực làm thất thoát tài sản...
Kiểm toán độc lập rất quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô vì nó giúp cho việc xác nhận sự tin cậy và hữu ích của các báo cáo tài chính; các báo cáo tài chính có thể gửi cho các ngân hàng nhằm mục đích để được vay mượn và gửi cho các cổ đông để huy động vốn, vì lợi ích của mình nên ngân hàng, các nhà đầu tư và chính các chủ sở hữu coi kiểm toán là một trong các điều kiện để xuất tiền cho vay; góp phần vào việc tính toán chính xác sự tăng trưởng kinh tế thông qua tính chuyên nghiệp, các chuẩn mực về kỹ thuật và chất lượng dịch vụ kiểm toán; tạo ra sự tin cậy thông qua khuôn khổ đạo đức nghề nghiệp; tạo ra sự tin cậy cho những người sử dụng báo cáo tài chính như cổ đông, chủ nợ, nhân viên, nhà cung cấp, khách hàng, nhà phân tích tài chính, chuyên viên thống kê, nhà kinh tế, các cơ quan thuế và cơ quan nhà nước; kiểm toán độc lập sẽ cho ý kiến về mức độ trung thực và hợp lý đối với các báo cáo về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp, để các nhà đầu tư và nhà cho vay có thể dựa vào các báo cáo tài chính này mà có các quyết định hợp lý; công tác kiểm toán còn giúp doanh nghiệp phát hiện các sai sót và chỗ yếu để chấn chỉnh kịp thời và nâng cao hiệu quả quản lý kinh doanh.
2. Thực trạng công tác kiểm toán ở nước ta.
Công tác kiểm toán được tổ chức rộng rãi ở những nơi có hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy ai có thể làm công tác kiểm toán ? Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường, đặc biệt ở những nước đã phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật.. hay ngay như các nước trong khối Asean, công tác kiểm toán được quan tâm một cách đặc biệt, họ coi đó là công cụ quan trọng và cần thiết trong công tác quản lý nền kinh tế đất nước. Những chuyên viên kiểm toán phải là những người đã tốt nghiệp ở trường kế toán cao cấp, những tiến sĩ về kế toán. Họ phải qua thi tuyển và sau khi đã có chứng chỉ kiểm toán, họ phải tuyên thệ trước toà án thương mại hoặc toà án kinh tế rồi mới được hành nghề. Những nhà kiểm toán hay nói đúng hơn là những nhà giám định kế toán phải đăng ký hành nghề và mở những văn phòng kiểm toán tương tự như những văn phòng luật sư để thực hiện chức năng kiểm toán. Luật pháp ở nhiều nước phát triển qui định các công, xí nghiệp, các tổ chức doanh nghiệp, xí nghiệp nói chung mỗi khi có tranh chấp hoặc làm việc với các cơ quan thuế vụ, hoặc báo cáo lời lỗ với ngân hàng, hoặc các cơ quan nhà nước, thì các bảng tổng kết tài sản phải có cơ quan kiểm toán chứng nhận mới có giá trị. Bởi vì, chính các cơ quan kiểm toán có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu, kiểm tra các chứng từ và hồ sơ kế toán của các doanh nghiệp, xí nghiệp.. và khi họ nhận thấy đúng chính xác, rõ ràng thì họ mới chứng nhận. Các doanh nghiệp, xí nghiệp muốn được bảo đảm về mặt kế toán, muốn có các bảng tổng kết tài sản có giá trị cần phải hợp đồng với một văn phòng kiểm toán, để được văn phòng kiểm toán này thường xuyên hướng dẫn, theo dõi, giúp đỡ để công tác kế toán của các doanh nghiệp, xí nghiệp này đi đúng hướng, không sai lệch, chính xác và hợp lệ.
Vì trong thời gian qua chúng ta không có công tác kiểm toán nên các công ty, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế không biết nhờ ai, cơ quan nào có đầy đủ khả năng, chuyên môn để kiểm tra công tác kế toán, hoặc hợp đồng nhằm giúp thực hiện tốt công tác kế toán của cơ quan mình. Qua các báo, cũng như các phiên toà kinh tế, chúng ta được biết nhiều công ty quốc doanh đã bị lỗ, hoặc bị chiếm dụng vốn, bị tham ô những số tiền lớn lên đến hàng tỷ, hàng chục tỷ trong nhiều năm, nhưng các cơ quan chủ quản hoặc các cơ quan thuế vụ và tài chính vẫn không hề biết. Chỉ đến khi những công ty này đi đến giai đoạn thâm hụt trầm trọng, vỡ nợ hay phá sản, thì mới bị phát hiện và khi ấy thiệt hại đã trở nên quá lớn lao và những tài sản khổng lồ của nhà nước, của nhân dân đã bị mất mát nhiều công ty đã làm thất thoát đến hàng trăm tỷ đồng trong thời gian 5-7 năm mới bị phát hiện. Nếu như có công tác kiểm toán và các công ty quốc doanh đều phải được kiểm toán hàng năm một cách chặt chẽ thì chắc chắn những thiệt hại nói trên sẽ được hạn chế và phát hiện sớm. Nhất là trong tình hình nước ta, công tác kế toán còn nhiều phức tạp và sơ hở, nhân sự của các phòng kế toán và cả kế toán trưởng chưa được thi tuyển hoặc chọn lọc nghiêm túc thì công tác kế toán lại càng trở nên cấp bách và quan trọng hơn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng từng ngày của các tổ chức kinh tế, hàng trăm thậm chí hàng ngàn công ty liên doanh, công ty vốn nước ngoàI 100%.. hàng ngàn công ty tư doanh đang hoạt động và mỗi ngày mỗi nhiều hơn, công tác quản lý kinh tế ngày càng trở nên phức tạp, chúng ta cần coi trọng công tác kiểm toán, phải xem kiểm toán là một công cụ quan trọng và cần thiết để giúp cho nền kinh tế đất tránh được những thiệt hại lớn lao không cần thiết.
Chúng ta cần nghiên cứu và học hỏi hệ thống kiểm toán và những kinh nghiệm kiểm toán ở những nước lân cận như Sinhgapore, Hồng Kông, Đài Loan và ở các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Anh, Nhật... Công tác kiểm toán cần được triển khai đều khắp ở tất cả mọi nơi ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Mọt hệ thống kiểm toán tốt, đủ trình độ và chặt chẽ, nghiêm túc chắc chắn sẽ góp phần ngăn chặn kịp thời những thiệt hại quan trọng và sẽ giúp cho nền kinh tế đất nước tăng trưởng theo kịp các nước lân cận.
Ngay từ khi mới ra đời, các tổ chức kiểm toán ở nước ta đã đóng góp một phần không nhỏ giúp các cơ quan nhà nước thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đã cung cấp cho các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước các dịch vụ có giá trị như: kiểm toán độc lập, giám định kế toán tài chính, đánh giá tài sản và góp vốn ... Bằng chính uy tín của mình và sự tuân thủ nghiêm ngặt phương châm hoạt động độc lập, khách quan, bí mật số liệu, liên tục nâng cao chất lượng, hiệu quả và uy tín nghề nghiệp vì vậy các tổ chức kiểm toán Việt Nam đã thu hút được sự chú ý và đầu tư của các tổ chức nước ngoài và quốc tế. Mặc dù kiểm toán đã có từ lâu ở các nước có nền kinh tế phát triển nhưng ở nước ta lại là hoạt động hoàn toàn mới mẻ, kiến thức chuyên môn còn hạn hẹp, môi trường hoạt động cũng không hoàn toàn thuận lợi... do đó đã lầm hạn chế đến sự phát triển chung của ngành.
3. Thực trạng công tác kiểm toán độc lập ở nước ta.
Hệ thống kiểm toán ở Việt Nam mới ra đời nên gặp không ít những khó khăn ban đầu. Hoạt động kiểm toán độc lập ở nước ta còn quá mới mẻ, các công ty kiểm toán phát triển nhanh chóng nhưng còn quá non trẻ, nhân lực và tàI lực còn hạn chế. Trừ những đơn vị kế toán có sự tham gia quản lý của nước ngoài, hầu hết người quản lý ở các đơn vị chưa hiểu hết mục đích của hoạt đọng kiểm toán, chưa thấy rõ lợi ích thiết thực từ những tư vấn của các kiểm toán viên... Nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, công ty tư nhân, công ty cổ phần chưa muốn tiết lộ thông tin thực về hoạt động của doanh nghiệp mình cho người khác, trừ khi bị bắt buộc hay các doanh nghiệp có sự cố. Do hoạt động kiểm toán của các tổ chức kiểm toán trong nước mới được hình thành nên có những người chưa thực sự tin tưởng chất lượng công việc của kiểm toán viên Việt Nam.
Còn khó khăn của các tổ chức kiểm toán trong nước có thể thấy đó là: do thiếu những kiến thức về quản trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, thiếu những chuyên gia có liên quan, cho nên các tổ chức kiểm toán chưa mạnh dạn thực hiện các dịch vụ tư vấn quản trị là điều mà các nhà quản lý quan tâm nhất; vì đạo đức nghề nghiệp, các tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên không được tự quảng cáo công khai về mình dưới bất kỳ hình thức nào nhưng không phải vì thế mà kiểm toán viên không được chủ động tiếp cận khách hàng, tìm hiểu nhu cầu và đề xuất các dịch vụ thiết thực mang lại hiệu quả cao cho khách hàng, chính điều này làm cho nhiều khách hàng chưa đến với các tổ chức kiểm toán; cũng vì nhiều lý do khác mà kiểm toán viên từ chối yêu cầu phục vụ khách hàng không phải vì yêu cầu vượt quá khả năng phục vụ của mình, đây cũng là vấn đề cần rút kinh nghiệm đối với các kiểm toán viên; bộ máy quản lý tài chính bảo vệ pháp luật được tổ chức rất đồ sộ, nhiều khâu cấp, rất hệ thống từ Trung ương đến địa phương, biên chế lớn song chưa được qui rõ ràng về chức năng nhiệm vụ hoạt đọng chồng chéo và có sự phối, kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này với nhau nói chung và với hệ thống kiểm toán nói riêng. Quản lý tài chính, ngân sách ở nhiều doanh nghiệp bị buông lỏng, bộ máy quản lý cấp trên vô cùng đò sộ nhưng kém hiệu lực và hiệu quả, không thể xác định được trách nhiệm thuộc về khâu nào, cấp nào, cơ quan, tổ chức nào. Trong khi đó sự tác động của hệ thống kiểm toán còn quá mỏng manh và hụt hẫng rất xa so với nhu cầu công tác kiểm toán đối với doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị sự nghiệp. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất vẫn là khung pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Mặc dù Việt Nam đã có qui chế về kiểm toán đọc lập nhưng vẫn chưa xây dựng xong các chuẩn mực kế toán - kiểm toán quốc gia tiến gần đén hệ thống chuẩn mực quốc tế. Vì thế, nhiều công ty kiểm toán đọc lập phải vận dụng các chuẩn mực kế toán - kiểm toán quốc tế, dù rằng biểtõ có nhiều điểm không phù hợp với khung cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi. Từ đó dẫn đén một hệ quả khác. Chẳng hạn như: việc đánh giá chất lượng của một báo cáo kiểm toán vẫn hãy còn thiếu căn cứ chung để làm thước đo; hoạt động kiểm toán chưa được chuẩn hoá; khi có tranh chấp nổ ra, chúng ta cũng chưa có những cơ sở giải quyết các vấn đề thuộc về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên; cũng chính vì thiếu một hệ thống chuẩn mực này cho nên quan điểm của các kiểm toán viên so với quan điểm của cơ quan thuế vụ vẫn còn một khoảng cách. Điều này khiến cho nhiều doanh nghiệp có vốn nước ngoài ngạc nhiên vì sao các báo cáo kết quả kiểm toán ít được cơ quan thuế thừa nhận dẫn đến sự nghi ngờ chất lượng kiểm toán.
Về tư cách pháp lý của các cơ quan kiểm toán độc lập có khá nhiều công ty kiểm toán độc lập Việt Nam thuộc loại hình doanh nghiệp có cơ quan chủ quản là Bộ tài chính đã khiến cho nhiều người băn khoăn, nghi ngờ về tính độc lập của những công ty này. ở các nước khác, cho dù một ngân hàng cũng không được tham gia vốn vào các công ty kiểm toán độc lập. Thành viên sở hữu những công ty này chỉ có thể là các kiểm toán viên.Chúng ta cần điều chỉnh theo đó để giúp cho các công ty này thực sự độc lập, khách quan cả thực chất lẫn danh nghĩa, hình thức. Đến nay, theo các đạo luật về loại hình doanh nghiệp Việt Nam thì hầu hết các công ty độc lập ở việt Nam đều thuộc loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Kể cả các công ty kiểm toán độc lập ở nước ngoài đang thuộc công ty hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn, nhưng khi vào Việt Nam, theo Luật đầu tư nước ngoài, lại được thành lập doanh nghiệp theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này nếu cứ tiếp tục sẽ khiến cho những người sử dụng báo cáo kết quả kiểm toán sẽ nghi ngờ về khả năng bồi thường của công ty khi có sự cố xảy ra... Vì thế nên sớm chuyển sang loại hình công ty hợp danh, trách nhiệm vô hạn.
Thuận lợi cơ bản của Việt Nam là chúng ta đi chậm hơn các nước hàng trăm năm trong lĩnh vực kiểm toán độc lập nên kế thừa được toàn bộ kinh nghiệm của thế giới trong lĩnh vực này.
III. MỘT SỐ SAI SÓT TRONG CÔNG TÁC KIỂM TOÁN Ở VIỆT NAM.
Công tác kiểm toán của nước ta còn quá mới mẻ nên không thể tránh được những sai sót, nhầm lẫn trong công tác kiểm toán. Các báo cáo tài chính đã được kiểm toán không có những sai sót lớn đén mức khiến người đọc báo cáo phải hiểu sai. Những sai sót này có thể do nhận thức lệch lạc hoặc do ghi chép và các sai sót thường xảy ra đối với việc kiểm toán tài sản cố định. Đây là một số sai sót thường gặp. Các sai sót thường gặp trong đánh giá tài sản cố định: hạch toán sai về nguyên giá tài sản cố định do đưa vào những tài sản đạt tiêu chuẩn tài sản cố định vào công cụ lao động; hạch toán chi phí mua sắm xây dựng nâng cấp cải tạo tài sản cố định vào chi phí sản xuất kinh doanh; chưa đủ các thủ tục theo qui định về đầu tư XDCB đã hạch toán tăng nguyên giá tài sản cố định; một số doanh nghiệp kiểm kê chỉ là hình thức, chủ yếu dựa vào số liệu sổ sách để lập biên bản kiểm kê, dẫn đến có tài sản cố định trên thực tế thì có nhưng trên sổ sách thì không; về trích khấu haotài sản cố định: Phần lớn doanh nghiệp đều trích khấu hao cao hơn quyết định 507 TC/ĐTXD ngày 22/7/1986 của bộ tài chính, một số tài sản cố định đã khấu hao hết giá trị nhưng đơn vị vẫn trích khấu hao; về chi phí sản xuất kinh doanh như chi phí nguyên vật liệu: hạch toán sai về giá, định mức tiêu hao vật tư, nhiều hoá đơn chưa đúng qui định của Bộ tài chính, tạm tríchvào chi phí sản xuất khoản vật tư của A cung cấp chưa có đầy đủ căn cứ pháp lý; về chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: Một số doanh nghiệp hạch toán sai hoặc tính toán chưa đúng chế độ vào chi phí này như chi ủng hộ các đoàn thể, trả lãi vay quá hạn, hạch toán nguyên giá tài sản cố định, trích khấu hao tài sản cố định hơn qui định, chi tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên...; về chi phí tiền lương: Đa phần các doanh nghiệp chưa đăng ký quỹ tiền lương để làm căn cứ quản lý phân phối quỹ lương, hạch toán nhầm lẫn nhiều khoản lương.
Trên đây là một số các sai sót thường gặp trong công tác kiểm toán đối với các doanh nghiệp.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC KIỂM TOÁN Ở NƯỚC TA.
Trước hết, phải khẳng định lại hiệu lực pháp lý của báo cáo kiểm toán đối với các doanh nghiệp. Không nên vì dành cửa của cơ quan đó mà làm giảm hiệu lực pháp lý của báo cáo kiểm toán.
Sau đó, phải thống nhất hoạt động kiểm toán vào một đầu mối để nâng cao chất lượng của công tác kiểm toán.Đặc biệt cần rà soát lại hoạt động cuả những công ty, chi nhánh, văn phòng kiểm toán nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Bên cạnh đó phải có quy chế về kiểm toán bắt buộc với các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp được thành lập theo luật công ty. Việc ban hành quy định là khởi đầu nhưng quan trọng hơn là tổ chức và kiểm tra thực hiện quy định đó. Trong điều kiện hiện nay đây cũng là biện pháp có hiệu quả nhằm tăng cường hiệu lực của Pháp lệnh về kế toán - thống kê đã ban hành và đang bị lãng quên.
Tiếp theo, phải quy định khung giá phí kiểm toán và công bố công khai. Giá phí kiểm toán phải vừa sức chịu đựng của doanh nghiệp.Đó là điều kiện rất quan trọng để các doanh nghiệp tự giác đến với kiểm toán độc lập.
Tuy nhiên trong những năm trước mắt cần nhanh chóng hình thà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng công tác kiểm toán ở Việt Nam và Một số Giải pháp.doc