MỤC LỤC
CHƯƠNG I. Giới thiệu tổng quát về Ban Quản lý dự án lưới điện Hà Nội 1
1. Sự ra đời và phát triển của Ban Quản lý dự án 1
2. Nhiệm vụ, quyền hạn chính của Ban quản lý dự án 2
3. Đặc điểm các dự án do Ban quản lý dự án tổ chức đấu thầu 3
4. Cơ cấu tổ chức của BQLDA 4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC ĐẤU THẦU TẠI BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN LƯỚI ĐIỆN HÀ NỘI 7
I.Kết quả công tác đấu thầu xây lắp tại Ban Quản lý dự án trong thời gian qua 7
1. Tình hình đấu thầu xây lắp tại Ban Quản lý dự án trong 7
giai đoạn 2001- 2004 7
2. Thực trạng công tác tổ chức đấu thầu tại Ban quản lý dự án giai đoạn 2001- 2004 9
3. Đánh giá qui trình tổ chức đấu thầu tại Ban Quản lý dự án 20
3.1 Chuẩn bị đấu thầu 21
3.2.Tổ chức đấu thầu 23
3.3. Đánh giá xếp hạng Nhà thầu 25
3.4 Trình duyệt kết quả đấu thầu 26
3.5 Công bố kết quả đấu thầu 26
3.6 Thương thảo và ký kết hợp đồng với nhà thầu trúng thầu 26
II. Đánh giá tổng quan công tác đấu thầu xây lắp tại Ban Quản lý dự án lưới điện Hà Nội 28
1. Những thành tựu đã đạt được 28
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC ĐẤU THẦU TẠI 43
BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN TRONG THỜI GIAN TỚI 43
I. Phương hướng phát triển của Ban Quản lý dự án trong 43
thời gian tới 43
1.Dự báo nhu cầu điện Thành phố Hà Nội 43
2. Phương hướng hoạt động và nhiệm vụ của Ban Quản lý dự án 44
II. Giải pháp góp phần hoàn thiện công tác tổ chức đấu thầu tại Ban Quản lý dự án 46
1.Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nhân sự 46
1.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn của giải pháp 46
1.2 Nội dung biện pháp 46
1.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 51
1.4. Hiệu quả giải pháp 52
2. Tăng cường công tác chuẩn bị hồ sơ mời thầu 52
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của giải pháp 52
2.2. Nội dung biện pháp 53
2.3.Điều kiện thực hiện giải pháp 55
2.4. Hiệu quả của giải pháp 55
3. Nâng cao chất lượng tư vấn 55
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của giải pháp 55
3.2. Nội dung biện pháp 56
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 57
3.4. Hiệu quả giải pháp 57
4. Đẩy nhanh tiến độ các công tác xin cấp đất, thoả thuận tuyến, giải phóng mặt bằng và xin đào hè đường. 58
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiến của giải pháp 58
4.2. Nội dung biện pháp 58
4.3. Điều kiện thực hiện 59
4.4. Hiệu quả giải pháp 59
II. Kiến nghị với Công ty Điện lực Hà Nội 60
III. Kiến nghị với cơ quan chính quyền và các Điện lực Quận, Huyện 60
KẾT LUẬN 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT 64
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2716 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác tổ chức đấu thầu tại ban quản lý dự án lưới điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đ-CP.
Căn cứ quyết định của Công ty Điện lực Hà Nội thành lập tổ chuyên gia xét thầu.
Căn cứ vào nghiên cứu khả thi đã được Công ty phê duyệt,
Căn cứ vào kế hoạch đấu thầu gói thầu, tiêu chuẩn xét thầu riêng cho gói thầu đã được Công ty phê duyệt.
Các thông tin liên quan đến việc kiểm tra, làm rõ, đánh giá, so sánh các hồ sơ dự thầu, BQLDA không được tiết lộ cho các Nhà thầu hay bất cứ người nào khác không chính thức liên quan đến qui trình đấu thầu cho đến khi công bố trao hợp đồng cho người thắng thầu. Mọi nỗ lực của Nhà thầu nhằm gây ảnh hưởng đến việc xét thầu thì BQLDA có thể loại bỏ hồ sơ dự thầu của Nhà thầu đó.
Trong quá trình xét thầu, các chuyên viên của tổ xét thầu đã làm việc rất nghiêm túc, khách quan và tuân theo các tiêu chuẩn, căn cứ mà Nhà nước và Tổng Công ty Điện lực Việt Nam ban hành. Tuy nhiên, trong đó vẫn còn một số sai sót. Nguyên nhân là do các chuyên viên chưa có nhiều kinh nghiệm, nắm vững qui chế nhưng kỹ năng thực hành chưa nhuần nhuyễn. Đó là vấn đề cần suy xét của Ban lãnh đạo BQLDA và Công ty.
3.4 Trình duyệt kết quả đấu thầu
Sau khi xem xét, đánh giá các hồ sơ dự thầu, tuỳ theo quy mô từng gói thầu đã được quy định, tổ chuyên gia xét thầu của BQLDA lập tờ trình để trình lên Ban Giám đốc xem xét phê duyệt kết quả đấu thầu.
Văn bản trình duyệt kết quả đấu thầu lên Ban Giám đốc Công ty, thường là Phó Giám đốc phụ trách đầu tư xây dựng và có các nội dung cơ bản như sau:
- Tên và nội dung gói thầu: Nêu tóm tắt các nội dung chính của gói thầu; Cơ sở pháp lý của việc tổ chức đấu thầu: Dự án đầu tư, kế hoạch đấu thầu hoặc thiết kế dự toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Nêu quá trình tổ chức đấu thầu
- Kết quả đánh giá hồ sơ dự thầu và xếp hạng Nhà thầu
- Đề nghị phê duyệt kết quả đấu thầu: Tên Nhà thầu trúng thầu (kể cả liên danh hoặc thầu phụ nếu có); Giá đề nghị trúng thầu; Loại hợp đồng và thời gian thực hiện hợp đồng.
3.5 Công bố kết quả đấu thầu
Sau khi thẩm định kết quả đấu thầu, nếu thấy hợp lý Ban Giám đốc sẽ ra quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu.
BQLDA sẽ căn cứ vào quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu của Ban Giám đốc để làm thông báo trúng thầu gửi cho các nhà thầu.
Thông báo bằng văn bản tới các nhà thầu tham dự đấu thầu về kết quả đấu thầu kể cả trường hợp không có nhà thầu nào trúng thầu hoặc huỷ đấu thầu.
3.6 Thương thảo và ký kết hợp đồng với nhà thầu trúng thầu
Nội dung thương thảo để giải quyết các vấn đề còn tồn tại chưa hoàn chỉnh về hợp đồng đối với nhà thầu: việc áp giá với những sai lệch so với yêu cầu của hồ sơ mời thầu trên nguyên tắc: giá trị hợp đồng không vượt giá trúng thầu được duyệt.
Nhà thầu cần phải nộp bảo lãnh hợp đồng trước khi ký kết hợp đồng. Trường hợp Ngân hàng bảo lãnh yêu cầu phải có hợp đồng mới ký cấp giấy bảo lãnh thì BQLDA có thể ký hợp đồng trước nhưng phải đảm bảo có bảo lãnh trước khi hợp đồng có hiệu lực.
Riêng với các gói thầu quy mô nhỏ, khi nhận được thông báo kết quả đấu thầu thì BQLDA có thể thương thảo và ký hợp đồng ngay.
BQLDA cần thương thảo hợp đồng một số nội dung về phương pháp xử lý tình huống trong quá trình thực hiện hợp đồng như: khối lượng thay đổi không do nhà thầu; về tạm ứng, thanh toán; về tiến độ thực hiện theo hồ sơ dự thầu; những yếu tố khách quan khác ảnh hưởng đến thực hiện hợp đồng; về biện pháp tổ chức, phương tiện máy móc bố trí nhân lực trực tiếp sản xuất, quản lý, giám sát như trong hồ sơ dự thầu đã nêu.
Nếu quá trình thương thảo với nhà thầu trúng thầu không thành công thì BQLDA sẽ trình lên Ban Giám đốc xin ý kiến: cho phép huỷ kết quả hoặc cho phép mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo đến thương thảo và kí kết hợp đồng.
Tuy BQLDA mới thành lập được 4 năm, kinh nghiệm về nghiệp vụ đấu thầu chưa nhiều nhưng bằng sự cố gắng rất lớn, các cán bộ BQLDA đã thực hiện trình tự tổ chức đấu thầu rất tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác trên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự chuyên nghiệp. Ví dụ, giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu nhiều khi còn lớn hơn giá trúng thầu; chất lượng hồ sơ mời thầu chưa cao, còn nhiều thiếu sót; nhiều gói thầu phải tổ chức đấu thầu lại lần thứ hai; đặc biệt BQLDA chỉ mới thông báo đấu thầu trên một số tờ báo như: Lao động, Đầu tư…Những hạn chế trên có thể do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, đặc biệt là nguyên nhân thuộc về năng lực, kinh nghiệm của các cán bộ BQLDA. Vì vậy, BQLDA phải luôn đổi mới về mọi mặt để ngày càng lớn mạnh, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
II. Đánh giá tổng quan công tác đấu thầu xây lắp tại Ban Quản lý dự án lưới điện Hà Nội
1. Những thành tựu đã đạt được
Trước hết cần khẳng định mặt tích cực mang tính bản chất của đấu thầu là tạo cho các Nhà thầu một sân chơi có tính cạnh tranh cao, công bằng và minh bạch, nhằm giúp Chủ đầu tư lựa chọn được Nhà thầu có đủ khả năng để thực hiện gói thầu với những yêu cầu về chất lượng, giá cả và tiến độ.
Vậy việc đánh giá hiệu quả công tác tổ chức đấu thầu thì phải xem xét được mức giá của gói thầu theo kế hoạch đấu thầu đã được duyệt so với giá ký kết hợp đồng với Nhà thầu, chất lượng công trình như thế nào và tiến độ thi công công trình có đảm bảo hay không?
Mặc dù mới thành lập được 4 năm nhưng BQLDA đã có nhiều thành tựu trong công tác tổ chức đấu thầu các gói thầu xây lắp theo nhiệm vụ của Công ty giao cho, từng bước vươn lên để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường.
Trong thành công của mỗi phần dự án hay cả dự án thì vai trò của công tác đấu thầu có ý nghĩa quan trọng. Nếu công tác tổ chức đấu thầu tốt sẽ chọn được Nhà thầu tốt, chất lượng công trình sẽ tốt theo và đảm bảo tiết kiệm vốn, rút ngắn tời gian thi công công trình và ngược lại.
Công tác tổ chức đấu thầu ở BQLDA đã có nhiều thành tựu lớn, được thể hiện theo các nội dung sau đây:
Cơ sở pháp lý: Quy trình tổ chức đấu thầu tuân theo qui chế và qui định của Nhà nước về đấu thầu.
BQLDA đã tuân thủ nghiêm chỉnh luật pháp, các qui chế và qui định của Nhà nước về nội dung, trình tự đấu thầu và chỉ tổ chức đấu thầu khi có đủ điều kiện đấu thầu theo các Nghị định và thông tư về đấu thầu mà Chính phủ và các Bộ ban hành như: Nghị định 52, 88, 66, …và hướng dẫn của Tổng Công ty.
Trong quá trình tổ chức công tác đấu thầu, BQLDA đều tiến hành theo đúng nội dung của quyết định đầu tư dự án. Nếu có phát sinh từ phía BQLDA hay Nhà thầu thì BQLDA đều có tờ trình kịp thời lên Ban Giám đốc để xin ý kiến chỉ đạo.
BQLDA luôn cập nhật các thông tin liên quan về đấu thầu và mở các lớp tập huấn cho cán bộ để học tập và từ đó nắm vững qui chế của Nhà nước về đấu thầu để có thể tiến hành công tác đấu thầu một cách hiệu quả và phù hợp với các chính sách của Nhà nước.
Tính hiệu quả:
Tiết kiệm vốn đầu tư
Qua phần phân tích tổng hợp công tác đấu thầu giai đoạn 2001-2004, ta thấy việc tiến hành công tác đấu thầu đã thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với chủ trương mới của Đảng và Nhà nước, phù hợp với qui luật của nền kinh tế thị trường.
Tiết kiệm trong đấu thầu được thể hiện thông qua 2 chỉ tiêu sau:
Mức tiết kiệm tuyệt đối:
Mức tiết kiệm = Giá gói thầu kế hoạch – Giá trúng thầu
Tỷ lệ tiết kiệm:
Mức tiết kiệm
Tổng giá trị gói thầu kế hoạch
Tỷ lệ tiết kiệm =
Nhờ áp dụng hình thức đấu thầu các gói thầu xây lắp mà hàng năm BQLDA tiết kiệm được cho Công ty, cho xã hội một phần vốn đầu tư, được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 5: Kết quả đấu thầu trong giai đoạn 2001- 2004
(Đơn vị:triệu đồng)
Năm Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
Tổng giá gói thầu kế hoạch
1.552
4.930,7
20.337,6
58.412
Tổng giá trúng thầu
1.360,6
4.410,2
19.224,9
50.540
Mức tiết kiệm tuyệt đối
191,4
520,5
1.113
7.872
Tỷ lệ tiết kiệm (%)
12,33
10,55
5,47
13,5
Nguồn: Phòng Kế hoạch - BQLDA
Qua bảng tổng hợp trên cho thấy, thông qua đấu thầu vốn đầu tư đã được tiết kiệm so với kế hoạch ban đầu ở mức khá cao, tiết kiệm cho Công ty nói riêng và Nhà nước nói chung. Đặc biệt, năm 2004 có giá trị tiết kiệm tuyệt đối là 6.477.976.410 đồng do qui mô đầu tư ngày càng lớn (cao nhất trong các năm).Tỷ lệ tiết kiệm bình quân chung qua các năm khoảng 10%.
Tỷ lệ tiết kiệm qua các năm cao không đồng đều, năm 2002 đạt 10,55% nhưng năm 2003 chỉ đạt 5,47% (giảm 5,08%) và đến năm 2004 lại tăng lên là 12,9%.
Các gói thầu mà BQLDA tiến hành tổ chức đấu thầu đều có giá trúng thầu thấp hơn giá gói thầu theo kế hoạch đấu thầu nhưng trong quá trình triển khai thi công công trình có thể phát sinh một số công việc mới, làm tăng giá trị gói thầu. Vì thế ta chỉ xem xét được sự chênh lệch giữa giá trúng thầu với giá kế hoạch chứ chưa thể tính được mức chênh lệch giữa giá thực tế với giá kế hoạch vì đấu thầu là một khâu của quá trình thực hiện dự án. Tuy nhiên, thực hiện tốt công tác đấu thầu là bước khởi đầu cho sự thành công của dự án.
Đặc biệt, thông qua công tác đấu thầu, Công ty và BQLDA có thể tận dụng được lượng vốn đầu tư của các Nhà thầu vì trong quá trình thực hiện gói thầu thì các Nhà thầu phải tự ứng vốn để thi công công trình, sau đó BQLDA mới làm thủ tục thanh quyết toán cho các Nhà thầu. Như vậy, BQLDA có thể tận dụng lượng vốn đó để làm công trình khác (vốn tự có) hay có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư như tiền trả lãi vốn vay (nếu là vốn vay).
Vậy công tác đấu thầu giúp BQLDA có thể tiết kiệm vốn, tăng cường quản lý vốn và tránh thất thoát và lãng phí vốn cho Công ty nói riêng và cho xã hội nói chung.
Chất lượng và tiến độ thực hiện dự án
Sản phẩm kinh doanh chủ yếu của Công ty là điện năng; điện năng là dạng năng lượng quý, một loại vật tư kỹ thuật có tính chất chiến lược dùng làm động lực trong tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân; điện do Nhà nước khai thác và quản lý cần được sử dụng hợp lý và tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Công ty Điện lực thành phố Hà Nội là thành viên của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, chịu trách nhiệm quản lý và phân phối điện năng cho thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội là khu vực có mật độ dân cư cao, thành phần phụ tải đa dạng; điện cho công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, ánh sáng sinh hoạt. Vì thế đòi hỏi Công ty phải cung ứng điện đạt chất lượng, an toàn và liên tục.
Các công trình dự án mà BQLDA tiến hành đấu thầu đều là các dự án về lưới điện. Vì tính chất đặc trưng đó nên yếu tố chất lượng và tiến độ công trình là rất quan trọng.
Tổ chức đấu thầu thực chất là tổ chức sự cạnh tranh. Trong đấu thầu có các loại cạnh tranh chủ yếu sau đây:
Cạnh tranh giữa chủ đầu tư với các Nhà thầu;
Cạnh tranh giữa các Nhà thầu.
Trong đó sự cạnh tranh giữa các Nhà thầu là hết sức quyết liệt và để giành được phần thắng trong cuộc cạnh tranh thì các Nhà thầu phải thể hiện năng lực của mình qua chất lượng công trình, tiến độ thực hiện dự án và giá chào thầu cùng các yếu tố khác. Vì vậy, thông qua đấu thầu, BQLDA có thể chọn ra Nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của gói thầu.
Và khi Nhà thầu đã ký được hợp đồng với BQLDA thì họ phải thực hiện gói thầu theo đúng theo yêu cầu về chất lượng và tiến độ. Nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Nhà thầu đó. Mà trong điều kiện hiện nay, mất uy tín đồng nghĩa với sự phá sản doanh nghiệp. Mặt khác, do sự ràng buộc trong hợp đồng khiến cho Nhà thầu phải luôn bám sát theo hợp đồng. Đồng thời BQLDA có cán bộ giám sát luôn được phân công theo dõi tiến độ và chất lượng thi công của Nhà thầu. Vì vậy, các gói thầu đấu thầu luôn đảm bảo và nâng cao chất lượng đồng thời tiến độ thi công gói thầu được đẩy nhanh.
Hiệu quả của việc nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ thi công đối với các gói thầu do BQLDA thực hiện:
Tiết kiệm được chi phí đầu tư như tiền trả lãi vay (trong trường hợp vay vốn)
Sớm thu hồi được vốn đầu tư
Giảm chi phí cho BQLDA
Nhanh đưa công trình vào sử dụng, sớm thu được lợi nhuận.
Tuy nhiên, đó chỉ là các con số trên hợp đồng còn trong thực tế, khi các Nhà thầu thi công công trình còn gặp nhiều khó khăn, gây kéo dài thời gian thi công công trình, làm chậm tiến độ công trình, gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý dự án của BQLDA.
Các gói thầu không hoàn thành đúng tiến độ là một phần do công tác giải phóng mặt bằng không đáp ứng đúng tiến độ, một phần do tình hình thực tế đầu tư phát sinh khối lượng mới nên BQLDA phải ký hợp đồng bổ sung với Nhà thầu, do phải đợi vật tư thiết bị,…
Ví dụ, gói thầu “ Nâng điện áp 22kV lộ 280 E8 Hoàn Kiếm” (đấu thầu năm 2003): theo hợp đồng thì thời gian hoàn thành là 60 ngày nhưng phải kéo dài thêm 10 ngày do một phần vật tư thiết bị cấp hàng chưa đúng tiến độ đặt ra, phần do gặp khó khăn trong công tác đền bù hè đường và thiết kế và thực tế còn khác nhau do địa bàn thi công thay đổi so với thời điểm khảo sát.
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ tham gia vào công tác tổ chức đấu thầu.
Trong đấu thầu không chỉ có sự cạnh tranh giữa các Nhà thầu với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa Chủ đầu tư với các Nhà thầu vì: Xét trên những phương diện nhất định của trao đổi hàng hoá, đấu thầu cũng mang tính chất của quan hệ mua bán: hàng hóa mua bán là các công việc của quá trình thi công; người bán là Chủ đầu tư, người mua là các Nhà thầu; giá cả trao đổi chính là giá thầu. Song so với mua bán hàng hoá thông thường, quan hệ mua bán ở đây có những nét đặc thù riêng: Chủ đầu tư bán việc nhưng phải trả tiền; Nhà thầu mua việc nhưng được trả tiền; người bán muốn bán việc với giá rẻ nhất, người mua chấp nhận mua với giá đó tức là chấp nhận mức lợi nhuận không cao theo cách hiểu của mua bán thông thường.
Trong quá trình trao đổi, cọ xát như thế, năng lực của cán bộ của BQLDA ngày càng được củng cố, nâng cao, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cũng như kiến thức chuyên môn thông qua giải quyết những phát sinh, vướng mắc và các tình huống cụ thể, phong phú của công tác đấu thầu. Đồng thời, các cán bộ có thể nắm vững và tiếp nhận những thay đổi từ các qui chế, qui định của Nhà nước về đấu thầu, để có thể vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu. Từ đó chất lượng cán bộ làm công tác đấu thầu không ngừng được nâng cao. Nâng cao nâng lực, trình độ chuyên môn của các cán bộ làm công tác đấu thầu chính là góp phần làm tăng hiệu quả các dự án.
Đấu thầu đã đem lại tính công khai, minh bạch cho các dự án do BQLDA thực hiện.
Một mục tiêu được coi là cơ bản trong quy định về đấu thầu là làm sao chống được sự thất thoát vốn của Nhà nước thông qua các hoạt động lựa chọn Nhà thầu. Đây là một thách thức cho bất kỳ một tổ chức, một quốc gia.
Trong quá trình đấu thầu, các dự án do BQLDA thực hiện đã được thông báo công khai, đảm bảo tính đúng đắn, minh bạch cho dự án, tránh được các hiện tượng tiêu cực thường có trong việc thi công các công trình như: lạm dụng vốn, thất thoát và lãng phí vốn, … Đồng thời quyền lợi của các bên tham gia được bảo vệ. Nội dung của tính công khai, minh bạch được thể hiện rõ trong việc công khai thông báo mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, cung cấp hồ sơ mời thầu với những nội dung rõ ràng, cụ thể theo đúng qui định, đặc biệt là công tác xem xét, đánh giá hồ sơ dự thầu đúng theo qui định, không có hiện tượng liên kết với các Nhà thầu,...
Sau khi có kết quả đấu thầu, BQLDA đều có thông báo tới cho các Nhà thầu, cả Nhà thầu trúng thầu lẫn Nhà thầu trượt thầu và có giải thích lý do đầy đủ, rõ ràng, tránh sự mập mờ, ngờ vực.
Đấu thầu góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các Nhà thầu.
Vấn đề cạnh tranh là nội dung cơ bản nhất để đảm bảo công tác đấu thầu thực sự có hiệu quả. Một gói thầu mà có nhiều Nhà thầu tham dự thì sẽ có sự cạnh tranh gay gắt. Các Nhà thầu tham dự đều muốn trúng thầu, vì thế họ phải phát huy tối đa năng lực. Từ đó, Chủ đầu tư có thể chọn ra được một Nhà thầu có khả năng nhất, đảm bảo công trình thực sự có hiệu quả.
BQLDA thường áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi để chọn Nhà thầu. Với hình thức này, BQLDA đã tạo cho các Nhà thầu một “sân chơi” tự do để cạnh tranh với nhau. “Sân chơi” đó đã tạo ra cơ hội cho các Nhà thầu phát huy sức mạnh và có điều kiện thể hiện mình. Đồng thời sự tự do cạnh tranh này cũng buộc các Nhà thầu chưa thật sự mạnh phải tìm cách đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh thì mới có thể tồn tại được. Như vậy, để có thể thực hiện các công trình điện có qui mô ngày càng lớn và độ phức tạp cao của BQLDA thì các Nhà thầu phải không ngừng đổi mới hoàn thiện và nhanh chóng bắt kịp với xu thế của thời đại, nếu không họ sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Các biện pháp mà BQLDA đã thực hiện để có một môi trường cạnh tranh giữa các Nhà thầu là:
- Các yêu cầu trong hồ sơ mời thầu phải được qui định rõ, không đưa ra các yêu cầu chi tiết mang tính định hướng. Nếu yêu cầu chi tiết đến mức chỉ có một số Nhà thầu cụ thể mới đủ khả năng tham gia hay yêu cầu cố định một thông số trong hồ sơ mời thầu thì đã thực sự làm mất đi tính cạnh tranh.
- Sự cạnh tranh một cách tự do là cần thiết song trong một vi phạm nào đó thì cần có sự điều chỉnh. Có một số gói thầu nên hạn chế lượng Nhà thầu tham dự để có thể tránh hiện tượng “quân xanh, quân đỏ”, làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
- Việc xác định các yêu cầu tối thiểu về kinh nghiệm cũng như về năng lực của các Nhà thầu phải được qui định rõ và hợp lý, phù hợp với yêu cầu của độ phức tạp mà gói thầu yêu câu.
- Nếu phát hiện Nhà thầu nào có hiện tượng tiêu cực trong quá trình tham dự thì Ban có biện pháp xử lý kịp thời.
BQLDA tạo được một môi trường cạnh tranh lành mạnh chính là tiền đề cho quá trình thực hiện dự án có hiệu quả cao về mọi mặt.
2. Một số hạn chế trong công tác đấu thầu tại BQLDA.
Bên cạnh những thành công mà công tác tổ chức đấu thầu mang lại thì vẫn còn những tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả đấu thầu chưa thể giải quyết một sớm một chiều. Sau đây là sẽ đánh giá những hạn chế đó để có thể tìm ra giải pháp để khắc phục và hoàn thiện công tác đấu thầu.
ơ
Trong nội bộ BQLDA cũng gặp phải một số khó khăn tồn tại làm hiệu quả công tác đấu thầu không phải lúc nào cũng như mong muốn.
Tiến độ công tác tổ chức đấu thầu:
Đôi khi tiến độ này bị chậm lại so với kế hoạch đấu thầu, do chậm trễ ở một số khâu trung gian:
Chậm trễ trong quá trình lập hồ sơ mời thầu
Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu về các yêu cầu cho một gói thầu do bên mời thầu lập, được làm căn cứ pháp lý cho Nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Nếu công tác lập hồ sơ mời thầu bị chậm thì sẽ kéo dài thời gian do phải gia hạn thời gian phát hành hồ sơ mời thầu và thời gian thi công không đúng kế hoạch, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Nguyên nhân của sự chậm trễ trên gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:
Nguyên nhân chủ quan: có thể do những sai sót, nhầm lẫn, bất cẩn của cán bộ được phân công nhiệm vụ lập hồ sơ mời thầu, do yêu cầu gấp rút trong thời gian ngắn giữa khoảng thời gian phát hành hồ sơ mời thầu đã định trước với thời gian được phê duyệt hồ sơ mời thầu của BQLDA.
Nguyên nhân khách quan:
Công tác tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật - Tổng dự toán:
Theo qui định trong qui chế đấu thầu, lập hồ sơ mời thầu phải căn cứ vào các tài liệu như: báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật thi công hoặc tổng dự toán. BQLDA thường thuê các đơn vị tư vấn lập các tài liệu trên.
Nhu cầu xây dựng mới và cải tạo lưới điện ngày một tăng, các công trình điện ngày càng nhiều, khối lượng công việc lớn trong khi đó các đơn vị tư vấn chuyên ngành không nhiều nên sản phẩm tư vấn chưa đạt yêu cầu về tiến độ thời gian.
Tư vấn nội bộ (thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Công ty Điện lực Hà Nội) thì không nhiều. Họ có trình độ cao để thực hiện dự án song các công việc nhiều nên việc giải quyết công việc không đáp ứng yêu cầu đảm bảo về mặt thời gian.
Các đơn vị tư vấn ngoài mới thành lập do cơ chế mở cửa, nhân lực còn hạn chế, chưa thích ứng với công việc mang tính đặc thù của ngành điện. Do vậy, chất lượng sản phẩm tư vấn chưa thực sự tốt, phải làm lại nhiều lần, gây chậm trễ tiến độ ngay khâu lập và trình duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi.
Mặt khác, các đơn vị ngoài do chưa có kinh nghiệm thực hiện dự án, chưa có mối quan hệ với các cơ quan địa phương nên công tác thoả thuận tuyến bản chất mất nhiều thời gian nay lại càng chậm.
Ví dụ, tư vấn nội bộ thực hiện công trình” Nâng điện áp lộ 671 E9 và lộ 672 E20”. Bản vẽ hướng tuyến được Sở Qui hoạch - Kiến trúc phê duyệt trên bản đồ tỷ lệ 1/2000 ngày 9/1/2000, 1/500 ngày 7/6/2002 nhưng đến 23/5/2003 mới được duyệt.
Tư vấn ngoài (Trung tâm tư vấn thiết kế điện) thực hiện dự án “Tạo thêm nguồn trung thế hỗ trợ 3 lộ 974, 975, 984 E11”. Hợp đồng lập 30/5/2003 và quyết định thời gian hoàn thành là 30 ngày sau khi hợp đồng có hiệu lực nhưng tư vấn nộp báo cáo nghiên cứu khả thi lần 1 ngày 6/2/2004 nhưng đến thời điểm hiện nay, sản phẩm tư vấn vẫn phải làm lại.
Các dự án mà BQLDA thực hiện đa số phải thông qua công tác tư vấn, Vì vậy để hoàn thành công việc một cách tốt nhất thì BQLDA phải củng cố mối quan hệ với các đơn vị tư vấn nội bộ lẫn tư vấn ngoài.
Đối với các gói thầu có qui mô lớn hoặc trung bình, BQLDA phải thuê tư vấn lập hồ sơ mời thầu.
Trong quá trình tư vấn lập hồ sơ mời thầu, họ yêu cầu BQLDA cấp bản vẽ thi công, chi tiết vật tư thiết bị nhưng trong thực tế, công việc mua sắm nhiều khi bị chậm tiến độ do ngân hàng yêu cầu nhiều thủ tục hành chính và do sai lệch trong thiết kế ban đầu. Do vậy, BQLDA chưa thể cung cấp catalogue vật tư thiết bị cho bên tư vấn gây chậm công tác lập hồ sơ mời thầu.
Công tác thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi và thiết kế kỹ thuật của phòng Quản lý đấu thầu.
Ở Công ty có rất nhiều dự án được thực hiện cùng thời điểm nên chất lượng thẩm định không cao, còn nhiều sai sót, dẫn đến việc phê duyệt bổ sung, điều chỉnh và khối lượng công việc quá nhiều trong khi đó cán bộ làm công tác thẩm định còn thiếu nên làm chậm lại các khâu tiếp theo.
Các dự án đều gặp khó khăn trong công tác xin cấp đất, giải phóng mặt bằng thi công, xin phép đào hè đường và thoả thuận tuyến để phục vụ cho công tác tổ chức đấu thầu.
Hà Nội là thủ đô, là khu vực có mật độ dân cư đông, có nhiều hoạt động chính trị - xã hội -kinh tế, văn hoá, nhiều hội nghị, hội thao diễn ra trong năm, vì thế hầu hết các dự án xây dựng đều gặp khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng thi công, đào hè đường.
Các dự án mà BQLDA thực hiện thì việc xin thoả thuận tuyến là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ. Nguyên nhân: lập báo cáo không sát với thực tế, năng lực tư vấn còn kém, việc xin thoả thuận tuyến mất quá nhiều thời gian do thủ tục hành chính rườm rà. Các tuyến đường dây thoả thuận phần lớn được cấp theo qui hoạch trong tương lai, một số tuyến không có tính khả thi, dẫn đến việc phải xin thoả thuận lại gây chậm trễ. Ví dụ, dự án “Cấp điện cho khu công nghiệp Vĩnh Tuy”, Sở Qui hoạch - Kiến trúc thoả thuận hướng tuyến là tuyến cáp ngầm trung tuyến chạy dọc theo đường qui hoạch chưa hình thành trong khi đó yêu cầu cấp bách nên việc xin thoả thuận lại bằng đường dây nổi làm chậm tiến độ.
Trình tự hoàn thiện một bộ hồ sơ xin cấp đất phải trải qua nhiều giai đoạn (thoả thuận địa điểm, lập bản đồ 1/500, xin chỉ giới đỏ,…), qua nhiều Ban ngành và các cấp chính quyền làm cho dự án bị kéo dài và những khoảng thời gian bị gián đoạn.
Công tác đền bù giải phóng mặt bằng hiện nay nhìn chung hết sức khó khăn, và càng khó khăn hơn đối với các dự án lưới điện do dự án trải dài trên diện rộng, tuyến dây thường đi qua nhiều địa bàn. Một vấn đề nổi cộm là đơn giá đền bù về đất của thành phố áp dụng cho dự án chênh lệch rất nhiều so với đơn giá thực tế trên thị trường, nên dân không nhận tiền đền bù, ngoài ra sự chênh lệch trong việc hỗ trợ dân của các dự án liền kề cũng làm khó khăn cho việc đền bù, ví dụ gói thầu tuyến 110kV Chèm - Nhật Tân”: đơn giá bồi thường, hỗ trợ đất tại phương Phú Thượng được duyệt là 837.000đ/m2 nhưng dân không nhận tiền, sau đó duyệt lên 1.770.000đ/m2 nhưng dân vẫn không nhận. Việc giải quyết cưỡng chế khi dân không chấp hành quyết định đền bù của Thành phố lại càng khó khi các chế tài không đầy đủ và cụ thể.
Việc xin phép đào hè đường gặp khó khăn do các quy định ngặt nghèo của cơ quan quản lý hè đường. Hè phố Hà Nội có nhiều công trình ngầm (bưu điện, bưu chính), không được qui hoạch, các đoạn đường mới xây dựng không được đào (tối thiểu là sau 3 năm) nếu có cấp bách thì xin ý kiến và xem xét và ở đây thường xuyên có các đại hội kéo dài nên cấm đào đường.
Việc khó khăn trong các công tác trên chậm được giải quyết, không thể chủ động được thời gian trong việc xin các văn bản thoả thuận, nhiều địa điểm xây dựng trạm biến áp không được giải quyết là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ công tác tổ chức đấu thầu so với kế hoạch được duyệt.
Trình tự trình duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, kế hoạch, hồ sơ mời thầu, báo cáo kết quả đấu thầu phải qua nhiều bước, nhiều thủ tục kéo dài.
Việc trình duyệt tại BQLDA và Công ty là một trong những nguyên nhân gây chậm tiến độ của các nghiệp vụ tiền đấu thầu, dù thời gian chậm trễ không lớn song phải nhận ra rằng: cơ cấu tổ chức, nhân sự của BQLDA và Phòng ban có chức năng trong Công ty (đặc biệt là Phòng Quản lý đấu thầu) còn chồng chéo nhân sự còn thiếu. Thêm vào đó, việc thực hiện n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112402.doc