Chuyên đề Thực trạng hoạt động bảo hiểm y tế cho người nghèo ở bảo hiểm xã hội Hải Dương và một số kiến nghị

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BHYT 3

I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BHYT 3

1. Khái niệm và bản chất của BHYT 3

1.1. Khái niệm về BHYT 3

1.2. Bản chất của BHYT 4

2. Vai trò của BHYT 11

3. Mối quan hệ giữa BHYT và chế độ chăm sóc y tế 12

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BHYT 14

1. Đối tượng, đối tượng tham gia và phạm vi BHYT 14

1.1. Đối tượng BHYT 14

1.2. Đối tượng tham gia BHYT 14

1.3. Phạm vi bảo hiểm 15

2. Phương thức BHYT 16

3. Quỹ BHYT 17

3.1. Nguồn hình thành quỹ BHYT 17

3.2. Các khoản chi 18

III. KHÁI QUÁT VỀ BHYT VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH CHĂM SÓC SỨC KHOẺ Ở VIỆT NAM. 19

1. Khái quát về BHYT ở Việt Nam 19

1.1. Đối tượng tham gia BHYT 20

1.2. Phạm vi KCB 21

1.3. Quỹ BHYT 21

1.4. Quy định thanh toán chi phí KCB 22

2. Các chương trình chăm sóc sức khoẻ (CSSK) ở Việt Nam. 23

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO

Ở BHXH HẢI DƯƠNG 1999 -2005 25

I. VÀI NÉT VỀ BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM 25

1. Quy định KCB cho người nghèo ở Việt Nam 25

1.1. Chuẩn nghèo 25

1.2. Các chủ trương, Nghị định của Đảng hướng dẫn thực hiện BHYT cho người nghèo 27

2. BHYT cho người nghèo ở Việt Nam. 29

2.1. Sự cần thiết BHYT cho người nghèo. 29

2.2. Thực trạng BHYT cho người nghèo ở Việt Nam. 30

2.3. Kinh nghiệm BHYT cho người nghèo từ tỉnh Hà Tây và Bình Định. 33

II. GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG 37

1. Sự hình thành và phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương 37

1.1. Quá trình hình thành của BHXH tỉnh Hải Dương 37

1.2. Quá trình phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương 38

2. Kết quả hoạt động vài năm qua của BHXH tỉnh Hải Dương 41

2.1. Kết quả đạt được 41

2.2. Những hạn chế 52

III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở BHXH HẢI DƯƠNG, 1999-2005 53

1. Tình hình triển khai BHYT cho người nghèo 53

2. Đánh giá chung về công tác KCB cho người nghèo theo chế độ BHYT 61

2.1.Những ưu điểm 61

2.2. Những khó khăn trong quá trình thực hiện BHYT cho người nghèo. 63

CHƯƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT BHYT CHO NGƯỜI NGHÈO Ở BHXH HẢI DƯƠNG 65

1. XÁC ĐỊNH ĐÚNG ĐỐI TƯỢNG LÀ NGƯỜI NGHÈO ĐƯỢC HƯỞNG CHÍNH SÁCH KCB 65

2. THỰC HIỆN MUA THẺ BHYT CHO 100% NGƯỜI NGHÈO 66

3. MỞ RỘNG QUỸ KCB 67

4. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KCB 68

5. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN 69

6. TẬP TRUNG XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 70

7. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC 72

KẾT LUẬN 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75

 

 

doc79 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2823 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng hoạt động bảo hiểm y tế cho người nghèo ở bảo hiểm xã hội Hải Dương và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phú Yên, Bắc Giang, Nam Định, Hà Nam, Quảng Bình, Bình Định, Bình Dương. Ngoài ra có 1 số tỉnh, thành phố trước khi có Thông tư số 05 đã dùng một phần kinh phí xoá đói, giảm nghèo để mua thẻ BHYT cấp cho người nghèo như Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình. Đến tháng 12/2000 có 44/61 tỉnh, thành phố thực hiện việc cấp thẻ BHYT cho người nghèo với số lượng là: 1.120.237 thẻ (khoảng 130 ngàn người nghèo), tăng 61% so với năm 1999, nâng tỉ lệ số người được cấp thẻ BHYT lên 13,8%; trong đó có 4 tỉnh, thành phố cấp thẻ BHYT cho người nghèo theo phương thức thực thanh thực chi là: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh và Thái Nguyên. Tỉnh có tỉ lệ phát hành thẻ BHYT trên tổng số nghèo cao nhất trong cả nước là Ninh Thuận: 57.48%. Một số tỉnh, thành phố thực hiện cấp thẻ BHYT cho người nghèo mang ý nghĩa tượng trưng, số lượng rất ít, không đúng với thực trạng về số lượng của người nghèo hiện có tại mỗi địa phương. Tháng 9/2001 đã có 48 tỉnh, thành phố đã hoàn thành thủ tục cần thiết để có thể cấp thẻ cho khoảng 1.750.000 người nghèo, tăng 57% so với năm 2000, nhưng mới đạt 13% người nghèo được cấp thẻ BHYT so với tổng số người nghèo theo chuẩn hộ nghèo công bố ngày 1/11/2000 của Bộ LĐ-TB&XH. Năm 2001 nhiều tỉnh, thành phố đã mở rộng diện người nghèo được cấp thẻ BHYT như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh thực hiện 100%; Phú Yên, Đà Nẵng; Ninh Thuận, Nghệ An 50%; Hà Tây 40%; Bình Thuận, Lâm Đồng 36%, nhiều địa phương đã tích cực triển khai KCB BHYT tại trạm y tế xã. Sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 139/2002/QĐ-CP thì số thẻ BHYT cấp cho người nghèo trong tổng số thẻ BHYT đã tăng lên từ đó đến nay. 2.2.2. Về công tác KCB cho người nghèo Từ năm 2003-2005 nhà nước đã dành trên 2.000 tỷ đồng để KCB cho hơn 14 triệu người nghèo, thành lập quỹ KCB cho người nghèo ở 64 tỉnh, thành phố. Đến nay 29 tỉnh thực hiện thực thanh, thực chi, 24 tỉnh mua thẻ BHYT, 11 tỉnh thực hiện cả 2 hình thức trên. Như vậy cả nước đã có khoảng 4 triệu người được cấp thẻ BHYT. Ngoài ra các bệnh viện còn miễn giảm viện phí cho 3,78 triệu người với số tiền là 234 tỷ đồng trong năm 2004. Bên cạnh đó việc mở rộng KCB về tuyến cơ sở cũng ngày càng được quan tâm và coi trọng; số trạm y tế xã, phường qua các năm ngày càng tăng. Đồ thị 1: Số trạm y tế xã, phường cả nước từ năm 2000 đến năm 2004 (Nguồn: Niên giám thống kê 2004) Do đó số lượt người đi KCB hàng năm cũng vì thế mà tăng lên (bảng 3) Bảng 3: Tình hình KCB cho người nghèo có thẻ BHYT Năm Số lượt KCB (lượt) Tỷ lệ (%) Nội trú Ngoại trú Nội trú Ngoại trú 1999 18.200 207.157 0.036 0,415 2000 55.446 660.379 0,047 0,547 2001 67.835 782.029 0,046 0,526 2002 90.556 1.225.390 0,054 0,736 (Nguồn: BHXH Việt Nam) Năm 2000 có khoảng 600.000 lượt người nghèo đi KCB ngoại trú, bằng 59% số thẻ đã phát hành, với chi phí trên 10,7 tỷ đồng; bình quân một lần KCB ngoại trú khoảng 18.000 đồng. Đã có trên 55.000 lượt người nghèo điều trị nội trú tại các tuyến, bằng khoảng 5 % số người nghèo có thẻ BHYT, tổng chi phí thanh toán cho các cơ sở KCB là 13,8 tỷ đồng, bình quân chi phí một đợt điều trị nội trú là 250.000 đồng. Như vậy có thể thấy rằng chi phí cho một lần KCB ngoại trú và một đợt điều trị nội trú của người nghèo tương đương và có phần cao hơn một chút so với chi phí bình quân của thẻ BHYT bắt buộc, song tỷ lệ đi KCB của người nghèo lại thấp hơn nhiều so với tỷ lệ đi KCB của thẻ BHYT bắt buộc. Tuy nhiên có thể thấy rằng số lượt người nghèo đi KCB ngày càng đông, kể cả nội trú và ngoại trú, mặt khác tỷ lệ KCB của người nghèo so với các đối tượng khác tăng dần qua các năm, KCB bằng thẻ BHYT ngày một tăng. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện BHYT cho người nghèo trong thời gian qua đã khằng định một điều: giải pháp để người nghèo được chăm sóc sức khoẻ bình đẳng và đạt hiệu quả cao nhất là mua thẻ BHYT cho họ. Số thẻ BHYT cấp cho người nghèo trên tổng số thẻ BHYT không ngừng tăng lên qua từng năm, điều này chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và nhà nước tới công tác chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo, tới mục tiêu công bằng xã hội. Tuy nhiên, công tác cấp thẻ BHYT cho người nghèo hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, nổi cộm nhất là việc điều tra, lập danh sách những hộ thuộc diện nghèo theo quy định hiện nay, số thẻ BHYT cấp cho người nghèo vẫn còn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của họ. 2.3. Kinh nghiệm BHYT cho người nghèo từ tỉnh Hà Tây và Bình Định. 2.3.1. Tỉnh Hà Tây Theo chuẩn mực xác định đói nghèo, số hộ nghèo của tỉnh Hà Tây vẫn còn khá nhiều. Do đó về công tác KCB, bộ phận dân cư nghèo đói này đã được sự hỗ trợ của chính quyền và xã hội như sau: * Phát hành thẻ BHYT nhân đạo (T8) Từ năm 1993, ngay khi vừa thành lập BHYT Hà Tây đã làm thí điểm BHYT nhân đạo cho người nghèo, trẻ mồ côi, nạn nhân trong chiến tranh, con em cựu chiến binh ở một số cơ sở như xã Nam Triều, Huyện Phú Xuyên ; xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ; Minh Khai, huyện Hoài Đức... Từ năm 1993-1997 phát hành thí điểm 2749 thẻ. Mệnh giá xây dựng từ 30.000đồng; 43.000đồng; 100.000đồng/người/năm. Nguồn kinh phí mua thẻ BHYT nhân đạo là do sự tự nguyện đóng góp của cá nhân, tổ chức đoàn thể, các cơ quan, hội chữ thập đỏ, hội cựu chiến binh... Quyền lợi được hưởng đầy đủ 100% không cùng chi trả như đối tượng ưu đãi của BHYT bắt buộc. Từ năm 1999 vì điều kiện tài chính không cho phép nên BHYT Hà Tây đã không thể tiếp tục phát hành thẻ BHYT nhân đạo nữa. * Cấp thẻ BHYT cho người nghèo theo phương thức thực thanh thực chi. Từ năm 2000, theo Quyết định số 137/QĐ-UB ngày 17/2/2000 của UBND tỉnh về việc tận dụng Thông tư liên tịch số 05 của liên Bộ Y Tế- Bộ Tài Chính- Bộ LĐ-TB&XH, cấp thẻ BHYT cho người thuộc diện quá nghèo theo hình thức thực thanh, thực chi trong đó quy định: - Đối tượng được cấp thẻ là 100% số khẩu của hộ đói, 30% số khẩu của hộ nghèo không tính trẻ em dưới 6 tuổi. Danh sách người được cấp thẻ được bình xét từ cơ sở xã, phường; ngành LĐ-TB&XH có trách nhiệm tổ chức triển khai việc bình xét, giám sát và tổng hợp danh sách trình lên UBND tỉnh phê duyệt. - Hình thức phát hành: Mỗi khẩu sẽ có một thẻ theo mẫu thống nhất trong toàn quốc, kí hiệu mã thẻ A7, giá trị sử dụng trong 2 năm 2000 và 2001. - Quyền lợi: Như đối tượng BHYT bắt buộc, không thực hiện cùng chi trả; - Phương thức thanh toán: Thực thanh thực chi theo số chi phí KCB thực tế của người có thẻ BHYT mã số A7 đến KCB ở tất cả các tuyến bệnh viện theo đúng quy định đã hướng dẫn. Nguồn kinh phí thanh toán hàng quý cho các cơ sở KCB thông qua BHYT Hà Tây do Sở Tài Chính cung cấp bằng nguồn chi đảm bảo xã hội của ngân sách tỉnh hàng năm. Tuy nhiên khi KCB theo phương thức này Sở Tài Chính quản lý quỹ BHYT cho người nghèo thì không hợp lý vì Sở Tài Chính là đơn vị thu phí mà lại tự thanh toán chi phí KCB cho người nghèo là không hợp lý hơn nữa mỗi hộ chỉ được 1 người được cấp thẻ như vậy là không hợp lý, làm giảm hiệu quả của việc sử dụng của tổng số thẻ người nghèo được lưu hành vì khi đó xác suất ngẫu nhiên của người cần phải đi KCB thực sự trong cộng đồng người nghèo sẽ không trùng khít với xác suất của người được cấp thẻ trong gia đình. 2.3.2. Tỉnh Bình Định Từ năm 1998 trở về trước, việc KCB cho người nghèo được thực hiện chủ yếu qua phương thức miễn giảm một phần viện phí khi người nghèo KCB tại các cơ sở y tế của Nhà nước. Người nghèo được Sở LĐ-TB&XH cấp giấy chứng nhận KCB miễn nộp một phần viện phí (G1, G2) hoặc xác nhận vào đơn xin miễn giảm viện phí. Chi phí KCB của đối tượng được các cơ sở KCB báo cáo tập trung về Sở Y Tế và Sở Y Tế quyết toán với Sở LĐ-TB&XH. Từ năm 1999 đến nay,việc KCB cho người nghèo được thực hiện chủ yếu qua hình thức cấp thẻ BHYT. Bảng 4: Kết quả thực hiện KCB theo chế độ BHYT cho người nghèo ở tỉnh Bình Định từ năm 1999-2002 Năm Số thẻ BHYT (thẻ) Số lượt KCB (lượt) Chi KCB (trđ) 1999 21.565 2.431 80 2000 36.472 8.320 286 2001 51.294 24.681 786 2002 59.203 54.000 1.770 (Nguồn: Tạp chí BHYT số 20/2002) Số liệu trên cho thấy số người nghèo đi KCB tăng nhanh qua các năm và tăng nhiều so với khi chưa triển khai BHYT cho người nghèo; người nghèo có thẻ BHYT được chăm sóc bình đẳng như các đối tượng có thẻ BHYT khác, người nghèo không còn tự ti, mặc cảm khi đi KCB; không còn phải làm đơn xin miễn giảm viện phí đi nhiều nơi, chờ sự phê duyệt của nhiều cấp vừa phiền hà, vừa mất thời gian. Có được kết quả trên là do: - Sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chuyên trách: UBND tỉnh, Sở LĐ-TB&XH, ngành y tế, cơ quan BHYT - Trong dự toán kế hoạch kinh phí hàng năm của mình, Sở LĐ-TB&XH đều dành một khoản kinh phí phù hợp để mua BHYT cho người nghèo. - Cơ chế quản lý vận hành hợp lý, chặt chẽ, đồng bộ. - Đưa KCB BHYT về tuyến cơ sở và thực hiện cải cách hành chính trong KCB. Tại Bình Định trong năm đầu tiên triển khai đưa KCB về tuyến cơ sở đã có 35/152 xã triển khai, đạt tỷ lệ 23% trong đó có 3 huyện núi Vĩnh Thạch, Vân Canh, An Lão có 6 xã triển khai. Đồng thời, BHYT Bình Định phối hợp với ngành y tế chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện cải cách hành chính trong KCB, giảm thiểu thời gian làm các thủ tục hành chính, hơn nữa, Bình Định còn ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý công tác KCB, đặt các bảng hướng dẫn bệnh nhân đi KCB tại các nơi thuận tiện trong bệnh viện... Những năm qua người nghèo ở Bình Định đã dần quen với tấm thẻ BHYT và cũng quen KCB bằng thẻ này. Do vậy sẽ có tác dụng tích cực về mặt xã hội nếu tiếp tục tổ chức thực hiện BHYT cho người nghèo. 2.3.3. Bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Hải Dương Việc mua thẻ BHYT cho người nghèo là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, hợp lòng dân để người nghèo chẳng may bị ốm đau được KCB ở các tuyến dễ dàng nhất là các trường hợp bệnh nặng rất tốn kém nhưng cũng được BHYT lo đầy đủ. Đối với bệnh viện cũng đỡ khó khăn vì có BHYT người nghèo đỡ một phần kinh phí cho bệnh viện, không phải trích quĩ Viện phí của bệnh viện ra trợ cấp. BHYT cho người nghèo chỉ thực hiện tốt khi có sự chỉ đạo kịp thời của các cấp chính quyền địa phương; có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các ngành liên quan, trong đó vai trò của ngành LĐ-TB&XH tại tỉnh là quan trọng nhất. Người nghèo chưa tiếp cận với các dịch vụ y tế do nhiều nguyên nhân như: do điều kiện kinh tế, thu nhập; do định cư ở những vùng xa bệnh viện; do mạng lưới y tế tại địa phương chưa phát triển... từ đó hạn chế phần nào quyền lợi KCB cho người nghèo, làm sai lệch nhận thức về ý nghĩa của BHYT dành cho người nghèo. Vì vậy cần tạo môi trường thuận lợi hơn để người nghèo được tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế, góp phần làm cho chính sách BHYT cho người nghèo phát huy hết ý nghĩa. II. GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG 1. Sự hình thành và phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương 1.1. Quá trình hình thành của BHXH tỉnh Hải Dương Cùng với hệ thống BHXH của cả nước, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau, BHXH tỉnh Hải Dương đã từng bước trưởng thành và phát triển vững mạnh về mọi mặt, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao đảm bảo quyền lợi cho người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội tại địa phương. Trước năm 1995 BHXH nước ta thực hiện theo cơ chế bao cấp, nguồn kinh phí do Nhà nước đảm bảo, tất cả cán bộ, công nhân viên chức trong cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang đều được hưởng chế độ BHXH. Sau năm 1995 thể chế hoá Bộ Luật lao động ban hành năm 1994, ngày 16/2/1995 Chính phủ có Nghị định số 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH thuộc hệ thống Công đoàn và Lao động-Thương binh & Xã hội (LĐ-TB&XH) với chức năng tổ chức thực hiện các chế độ BHXH và để thống nhất tổ chức thu, chi BHXH, quản lý quỹ BHXH theo quy định của Nhà nước. Do đó, ngày 15/6/1995 BHXH tỉnh Hải Hưng được thành lập. Sau 2 năm hoạt động BHXH tỉnh Hải Hưng được chia tách thành BHXH tỉnh Hải Dương và BHXH tỉnh Hưng Yên từ ngày 1/10/1997, thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh Hải Dương đã tiếp nhận BHYT tỉnh Hải Dương và bắt đầu hoạt động theo mô hình mới, thêm nhiệm vụ quản lý quỹ và chi trả chế độ BHYT cho người tham gia BHYT từ ngày 01/01/2003. 1.2. Quá trình phát triển của BHXH tỉnh Hải Dương 1.2.1. Về tổ chức bộ máy BHXH tỉnh do Giám đốc quản lý điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp Giám đốc có 3 Phó giám đốc. Giám đốc và Phó giám đốc BHXH tỉnh do Tổng giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, khen thưởng, kỷ luật. Hiện nay BHXH tỉnh có 12 BHXH huyện, thành phố và có 8 phòng nghiệp vụ, đó là: Phòng Chế độ chính sách, phòng Kế hoạch tài chính, phòng Thu, phòng Giám định chi, phòng Bảo hiểm tự nguyện, phòng Công nghệ thông tin, phòng Tổ chức hành chính, phòng Kiểm tra. Các phòng trực thuộc BHXH tỉnh Hải Dương có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm được giao theo từng lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Tổng giám đốc. Phòng chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của Giám đốc BHXH tỉnh và sự chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam. Phòng không có tư cách pháp nhân đầy đủ, không có dấu và tài khoản riêng. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của BHXH Hải Dương BHXH Tỉnh Hải Dương Phó Giám đốc PhòngChế độ, chính sách Phòng kế hoạch tài chính Phòng thu PhòngGiám định chi Phòng Bảo hiểm tự nguyện PhòngCông nghệ thông tin Phòng tổ chức hành chính Phòng kiểm tra Phó Giám đốc Phó Giám đốc Giám đốc BHXH Tỉnh Hải Dương BHXH Việt Nam (Nguồn: BHXH Hải Dương) 1.2.2. Về cán bộ Khi mới thành lập đội ngũ cán bộ của BHXH tỉnh Hải Dương do các cán bộ viên chức từ Liên đoàn lao động tỉnh, Sở LĐ-TB&XH và một số ngành khác chuyển sang. Được sự quan tâm của BHXH Việt Nam, của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự phối hợp của các huyện thành phố, BHXH tỉnh đã được bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Sau khi BHYT chuyển sang BHXH đội ngũ cán bộ đã được bố trí, phân công, sắp xếp hợp lý để kiện toàn bộ máy tổ chức. Do vậy đến nay đã có đủ số lượng cán bộ theo biên chế được giao và đã bổ nhiệm đủ Trưởng phó phòng, Giám đốc, Phó giám đốc BHXH 12 huyện, thành phố. Đội ngũ cán bộ, nhân viên của đơn vị đã được đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và ngày càng trưởng thành. Bảng 5: Số cán bộ, nhân viên trong biên chế và làm việc theo hợp đồng tại BHXH Hải Dương Đơn vị: Người Thời gian Tổng số cán bộ-nhân viên Trong đó Biên chế HĐ dài hạn HĐ có thời hạn 7/1995 124 124 - - 9/1997 113 102 - 11 12/2004 196 143 49 4 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương) Bảng 6: Cán bộ, nhân viên được phân chia theo trình độ chuyên môn tại BHXH Hải Dương Đơn vị: Người Thời gian Tổng số cán bộ-nhân viên Chia theo trình độ chuyên môn Đại học Trung cấp Sơ cấp nhân viên 7/1995 124 31 90 4 9/1997 113 45 63 5 12/2004 196 129 61 6 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương) 1.2.3 Về xây dựng cơ sở vật chất Công tác đầu tư xây dựng cơ sở vật chất về cơ bản đã hoàn thành. Đã xây dựng được trụ sở làm việc của BHXH tỉnh, 11 trụ sở BHXH cấp huyện, chuẩn bị xây dựng trụ sở BHXH thành phố Hải dương và xây dựng mới trụ sở BHXH tỉnh. 2. Kết quả hoạt động vài năm qua của BHXH tỉnh Hải Dương 2.1. Kết quả đạt được 2.1.1. Thực hiện thu BHXH, cấp sổ BHXH Từ chỗ người lao động được hưởng các chế độ BHXH được Nhà nước bao cấp, chưa thực hiện nghĩa vụ đóng nộp BHXH, thói quen này đã đi vào tiềm thức của từng người, nay phải thay đổi hoàn toàn theo cơ chế người lao động, người sử dụng lao động phải đóng nộp BHXH sau đó mới được hưởng BHXH. Đây là một sự thay đổi hết sức khó khăn cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Công tác tuyên truyền chế độ chính sách BHXH và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia BHXH theo quy định mới đã tác động tích cực làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động, đến nay hầu hết ngươì lao động và sử dụng lao động đã hiểu và quan tâm thực hiện chế độ BHXH. Trong thời gian qua, BHXH tỉnh Hải Dương không ngừng tìm biện pháp khắc phục đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ, sự lãnh đạo của BHXH Việt Nam, của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các ngành như Báo Hải dương, Đài phát thanh truyền hình, Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, Thanh tra Nhà nước tỉnh, Sở LĐ-TB&XH, Liên đoàn lao động tỉnh trong việc tuyên truyền chính sách BHXH và thanh tra việc thực hiện chế độ BHXH ở các doanh nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức tính thu theo tháng với các đơn vị làm cơ sở để đôn đốc thu, hàng năm đều tổ chức khảo sát nắm số lao động trong các đơn vị, doanh nghiệp mới hoạt động để đôn đốc vận động tham gia BHXH. Thực hiện hướng dẫn triển khai kịp thời, đầy đủ các văn bản quy định về chế độ BHXH, tiền lương đến các đơn vị sử dụng lao động. Công tác đôn đốc thu đã bám sát đơn vị, nắm rõ khó khăn, vướng mắc về đóng nộp BHXH của từng đơn vị, kịp thơì bàn biệp pháp tháo gỡ, đến nay đã thực hiện thu hết số nợ tiền BHXH trên 8 tỷ đồng do ngành Thuế bàn giao sang tháng 7/1995 và không còn đơn vị nợ đọng tiền BHXH kéo dài. Trong 10 năm, từ năm 1995 đến 2005 BHXH tỉnh Hải Dương đã thu vào quỹ BHXH được 754 tỷ đồng so với tổng kế hoạch được giao là 705 tỷ đồng, đạt 107%. Công tác cấp sổ BHXH được triển khai từ năm 1996, quá trình triển khai đã có sự phối hợp của các đơn vị sử dụng lao động trong việc tháo gỡ thiếu mất hồ sơ, BHXH đã chủ động tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh có văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành chỉ đạo các đơn vị bổ sung hồ sơ, những đơn vị có vướng mắc nhất là đối với cán bộ xã, phường, thị trấn lãnh đạo BHXH tỉnh đã trực tiếp làm việc với lãnh đạo huyện để bàn cách tháo gỡ. Đến nay đã cơ bản cấp kịp thời và xác nhận bổ sung sổ BHXH cho người lao động. Thực hiện ghi và xác nhận thời gian tham gia BHXH cho trên 5.200 người của 42 doanh nghiệp sắp xếp lại theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP và trên 700 người về theo Nghị quyết 09 của ngành giáo dục, tạo cho người lao động yên tâm, góp phần đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp của tỉnh. Bảng 7: Kết quả thu BHXH từ năm 1995 đến 2004 Năm Số đơn vị Trong đó có Số lao động (người) Trong đó có Số thu (tỷ đồng) NQD VĐTNN NCL NQD VĐTNN NCL Kế hoạch Đã thu 1995 401 - - - 69.688 - - - 15 25 1996 485 - - - 71.571 - - - 36,5 45 1997 437 4 8 - 52.604 71 407 - 42 51 1998 1.239 5 10 - 57.669 85 636 - 48 50 1999 1.248 7 14 - 59.979 305 1.176 - 50 52 2000 1.273 18 17 - 62.431 808 1.389 - 62 67 2001 1.299 28 15 - 64.910 2.705 1.270 59 76 83 2002 1.325 43 18 -- 67.029 3.218 1.504 95 85 85 2003 1.451 118 22 - 69.873 3.975 3.129 1.786 142 ,5 144 2004 1.654 254 38 - 78.961 5.162 7.874 2.389 148 151,8 Cộng 705 753,8 (Nguồn: BHXH Hải Dương) NQD: ngoài quốc doanh VĐTNN: vốn đầu tư nước ngoài NCL: ngoài công lập 2.1.2. Về thực hiện chế độ chính sách BHXH Công tác giải quyết chế độ BHXH là một trong những công tác quan trọng của BHXH, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các đối tượng tham gia BHXH, căn cứ chế độ chính sách hiện hành, BHXH đã làm tốt nhiệm vụ giải quyết các chế độ BHXH theo quy định của pháp luật, đúng chế độ chính sách đối với đối tượng tham gia BHXH. Tổng kết từ tháng 9/1995 đến hết năm 2004 BHXH tỉnh Hải Dương đã xét duyệt, giải quyết chế độ thường xuyên cho 15.776 người lao động, trong đó chế độ hưu trí 7.579 người; cán bộ xã hưởng trợ cấp hàng tháng 119 người; trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng 286 người; trợ cấp tuất định suất cơ bản 7.774 định suất; tuất nuôi dưỡng 18 định suất. Đã giải quyết chế độ BHXH một lần cho 6.906 người, trong đó hưu trí 1 lần theo điều 28- Điều lệ BHXH cho 4.470 người; trợ cấp tuất 1 lần cho 1.934 người; trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp 1 lần cho 307 người; trợ cấp 1 lần cho cán bộ xã 195 người. Điều chỉnh kịp thời chế độ tiền lương theo Chính sách của Nhà nước cho đối tượng, trong đó chế độ lương hưu cho 2.860 cán bộ quân đội khi nghỉ hưu có giữ chức vụ lãnh đạo theo Nghị định số 31/CP của Chính phủ. Thực hiện Chỉ thị số 15 CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 09 CT/TW của Tỉnh uỷ và chỉ đạo của BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh đã rà soát đối chiếu hồ sơ với chế độ đang hưởng thực hiện điều chỉnh lại các trường hợp có sai lệch theo đúng chế độ chính sách, pháp luật của Nhà nước đảm bảo công bằng, được sự đồng tình ủng hộ cao của đông đảo đối tượng. Giải quyết chế độ cho trên 400.000 lượt người hưởng trợ cấp ốm đau, trên 16.000 người hưởng trợ cấp thai sản và gần 10.000 hưởng trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khoẻ. Công tác giải quyết các chế độ BHXH đã thực hiện theo đúng hướng cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các loại giấy tờ, thủ tục không càn thiết cho người lao động và đơn vị trên cơ sở sử dụng cơ chế "Một cửa” việc giải quyết chế độ đảm bảo kịp thời, chính xác, đúng chế độ BHXH tạo cho đơn vị sử dụng lao động và người lao động không mất nhiều thời gian khi giải quyết chính sách góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành và ổn định tình hình kinh tế - chính trị, xã hội tại địa phương. 2.1.3. Về BHYT 2.1.3.1. Thực hiện BHYT cho đối tượng thuộc diện bắt buộc BHYT được thực hiện từ năm 1993, tuy những năm đầu thực hiện thí điểm còn nhiều khó khăn, với kết quả thực hiện trên 10 năm qua cho thấy số người tham gia BHYT ngày càng tăng, năm 1993 mới chỉ có 121.000 người tham gia và được đảm bảo chế độ BHYT theo loại hình BHYT bắt buộc, năm 2002 có trên 220.000 người, đến tháng 12/2004 toàn tỉnh đã có 321.000 người, tăng so với năm 1993 gần 3 lần, so vơí năm 2002 tăng gần 1,5 lần. Người lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước, người hưởng các chế độ hưu trí hàng tháng, người có công với nước, người nghèo, thân nhân sĩ quan quân đội tại ngũ, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp và nhiều người lao động trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân đã được tham gia và hưởng chế độ BHYT bắt buộc theo quy định. 2.1.3.2. Thực hiện BHYT tự nguyện BHYT tự nguyện là một công tác mới của ngành BHXH sau khi có sự chuyển giao BHYT Việt Nam về BHXH Việt Nam. Từ năm 1992 căn cứ vào Điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 và văn bản số 509/CV-UB ngày 17/7/1995 của UBND tỉnh Hải Hưng về việc chỉ đạo thực hiện BHYT tự nguyện, BHYT tỉnh Hải Hưng đã thực hiện BHYT tự nguyện cho đối tượng là học sinh phổ thông ở các cấp và các trường chuyên nghiệp song chưa thực hiện được loại hình BHYT tự nguyện nhân dân. Đến năm 1998, thực hiện Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ đã thực hiện BHYT tự nguyện với đối tượng là học sinh, năm 2002 được UBND tỉnh đồng ý thực hiện thí điểm BHYT tự nguyện với đối tượng là Hội viên hội cựu chiến binh và thân nhân ở huyện Nam Sách và Thanh Miện, tháng 8/2002 được nhân rộng mô hình này lên 12 huyện, thành phố. Năm 2003 thực hiện Thông tư liên tịch số 77/2003/TTLT-BTC-BYT ngày7/8/2003 của liên bộ Tài chính-Bộ y tế về việc hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện, BHXH tỉnh Hải dương đã tham mưu để UBND tỉnh có văn bản chỉ đạo triển khai công tác BHYT tự nguyện toàn tỉnh,Tỉnh uỷ Hải Dương ban hành Chỉ thị số CT-TU ngày 18/3/2004 về việc tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH - BHYT, BHXH tỉnh đã phối hợp với Sở Giáo dục & Đào tạo triển khai BHYT tự nguyện trong học sinh, sinh viên. Thực hiện văn bản số 2343/BHXH - TN ngày 9/7/2004 của BHXH Việt Nam về chương trình điểm BHYT cộng đồng. BHXH tỉnh đã phối hợp với UBND huyện Cẩm Giàng thực hiện tại xã Tân Trường, Cẩm Hoàng, Cẩm Đông huyện Cẩm Giàng. Kết quả triển khai vận động nhân dân thực hiện BHYT tự nguyện trong 10 năm qua đã khẳng định được sự phát triển khả quan của công tác BHYT tự nguyện của tỉnh Hải Dương. Năm 2004 đã thu BHYT tự nguyện được trên 2,6 tỷ đồng đạt 228% kế hoạch được giao. Bảng 8: Số người tham gia BHYT tự nguyện từ năm 1995 đến năm 2004 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Số người tham gia 10.571 25.340 16.946 5.055 6.927 5.307 25.000 13.855 13.553 63.495 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Hải Dương) 2.1.4. Công tác kế hoạch-tài chính-chi trả các chế độ BHXH Ngay từ những năm đầu thành lập ngành, cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương luôn quản lý được nguồn kinh phí và phân bổ nguồn kinh phí cho chi hoạt động, chi các chế độ BHXH cho BHXH huyện, thành phố đảm bảo đúng nguyên tắc, đủ nguồn chi, đúng chế độ, công khai tài chính. Chuyển tiền thu về BHXH Việt Nam luôn kịp thời đúng quy định. Công tác thẩm định quyết toán cho BHXH các huyện, thành phố luôn đảm bảo đúng nguyên tắc tài chính. Thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra giúp BHXH các huyện- thành phố thực hiện đúng các nghiệp vụ quản lý tài chính, hạch toán, kế toán theo chế độ hiện hành. Công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH những năm qua luôn đảm bảo chi trước ngày 15 hàng tháng và thực hiện theo phương châm đúng kì, đủ số an toàn, từng bước đến tay đối tượng, không để xảy ra nhầm lẫn, mất mát, tạo cho đối tượng yên tâm, phấn khởi tin tưởng vào ngành BHXH, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn. Kết quả qua những năm thực hiện công tác kế hoạch- tài chính cho thấy sự tăng trưởng lớn mạnh của ngành BHXH. Nếu năm 1996 BHXH tỉnh Hải Hưng có tổng chi lương hưu và trợ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng hoạt động BHYT cho người nghèo ở bảo hiểm xã hội Hải Dương và một số kiến nghị.doc
Tài liệu liên quan