Chuyên đề Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Sở giao dịch - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Trong nỗ lực nhằm cải thiện tình hình thanh toán, VCB đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm tăng số lượng ĐVCNT của mình thông qua việc giảm đáng kể tỉ lệ phí đối với ĐVCNT này. Nếu như năm 2001, tổng số ĐVCNT 312, thì cho tới năm 2005 là 1211 và năm 2006 là 1430, tăng 18% so với năm 2005. Đặc biệt, trong năm 2005, doanh số thanh toán của cả 5 loại thẻ đều tăng cao. Bên cạnh đó doanh số thanh toán thẻ Amex từ năm 1996 đến năm 2000 liên tục giảm, từ năm 2001 trở đi lại duy trì mức tăng lên 15%/năm. Điều này nói lên chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ mà VCB mang đến cho khách hàng đã được cải thiện, đã có sức cạnh tranh và dần đáp ứng được công tác thanh toán của khách hàng.

docx78 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3527 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Sở giao dịch - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có nhiều khu công nghiệp đã làm rất tốt công tác phát hành thẻ, nhóm đối tượng ở đây được tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp, công ty, đơn vị làm thẻ trả lương cho cán bộ công nhân viên.Việc các chi nhánh khác như Sở giao dịch, Hà nội, TP Hồ Chí Minh có tỷ trọng phát hành và tốc độ tăng trưởng khá hoàn toàn là điều đễ hiểu, bởi vì ở các thành phố này, mật độ dân cư rất lớn, trình độ dân trí và thu nhập dân cư lại rất cao.Đặc biệt là TP Hồ Chí Minh, thói quen tiêu dùng thẻ của người dân đã được hình thành từ lâu, do đó khả năng xâm nhập thị trường của Connect24 cũng trở nên dễ dàng hơn. Cùng với hoạt động phát hành thẻ Connect 24, hoạt động của hệ thống giao dịch tự đông ATM của Vietcombank cũng không ngừng tăng trưởng.Đến nay trên toàn hệ thống đã có khoảng gần 750 máy ATM. Trong đó, số lượng máy của Sở giao dịch chiếm 25% số lượng máy trên toàn quốc.Trung bình mỗi máy một tháng có 2300 giao dịch rút tiền mặt và chuyển khoản (không kể giao dịch vấn tin tài khoản). Doanh số giao dịch qua thẻ ATM. Trong các năm số lượng giao dịch qua thẻ ATM ngày cang tăng.Năm 2006 tổng giá trị các giao dịch thực hiện qua hệ thống ATM đạt gần 17 nghìn tỷ đồng, bằng 122% so với năm 2005.Trong đó, có 14.920 tỷ là giao dịch rút tiền mặt, 1.925 tỷ chuyển khoản, 37 tỷ giao dịch thanh toán hàng hóa dịch vụ qua hệ thống ATM. Có thể thấy số giao dịch rut tiền mặt vẫn chiếm đại đa số nhưng mức tăng trưởng cao của doanh số thanh toán hàng hóa dịch vụ thể hiện triển vọng của hệ thống ATM như một kênh thanh toán hữu hiệu cho các tầng lớp dân cư, làm cầu nối giữa nhà tiêu dùng và nhà cung ứng dịch vụ. Bảng 3 : Hoạt động của hệ thống ATM Nội dung 2004 2005 2006 Số lượng máy ATM đã triển khai 160 400 565 Tổng số giao dịch tin vắn 3.958.000 10.000.000 11.970.000 Tổng số giao dịch TM, CK, TT 2.892.000 7.900.000 16.485.000 Tổng giá trị giao dịch(tỷ VND) 3.047 7.593 16.882 Doanh số rút tiền mặt( tỷ VND) 2.907 7.622 14.920 Doanh số chuyển khoản(tỷ VND) 138 588 1.925 Doanh số thanh toán (tỷ VND) 2 8 37 (Nguồn báo cáo hoạt động kinh doanh thẻ NHNTVN năm 2004-2006) Thời gian gần đây, số lượng khách hàng sử dụng hệ thống ATM của Vietcombank hàng ngày là rất lớn, gây sức ép lên việc phục vụ hệ thống.Một số điểm đặt máy ATM tại các khu vực trọng điểm tại Hà nội, TP Hồ Chí Minh đôi lúc rơi vào tình trạng quá tải, khách hàng phải xếp hàng chờ khá đông.Một mặt đây là dấu hiệu đáng mừng thể hiện sự phát triển của dịch vụ, mặt khác lại là thách thức để làm sao Vietcombank duy trì được dịch vụ với chất lượng cao., liên tục và giảm thiểu sai sót.Để thực hiện các dịch vụ qua hệ thống ATM như nạp tiền, thay hóa đơn, nhật ký giao dịch..mô hình trung tâm dịch vụ đang được xây dựng và sẽ được đưa vào hoạt động thí điểm tại Hà nội và TP Hồ Chí Minh trong năm 2008. Hơn thế nữa, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhất là trong tình trạng số thẻ Connect 24 phát hành luôn tăng với tốc độ cao, Vietcombank cũng sẽ triển khai thêm nhiều máy ATM phân bổ trên toàn hệ thống. Các tiện ích và dịch vụ phát triển trên ATM cũng sẽ được tập trung phát triển đáp ứng nhu cầu khách hàng. Rủi ro trong phát hành thẻ Đơn xin phát hành với các thông tin giả ( Fraudulent Application) Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho những khách hàng có đơn xin phát hành thẻ với các thông tin giả mạo do không thẩm định kĩ. Trường hợp này có thể dẫn đến những rủi ro về tín dụng cho NHPHT khi chủ thẻ sử dụng mà không có khả năng thanh toán. Thẻ giả ( Frauded Card ) Thẻ do các tổ chức tội phạm hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào thông tin có được từ các chứng từ giao dich thẻ hoặc từ thẻ mất cắp, thất lạc. Theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế, NHPHT phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch sử dụng thẻ giả có mã số( số PIN ) của mình. Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPHT gửi ( Never Received issue ) Thẻ đang được sử dụng trong khi chu thẻ chính thức không hay biết rằng thẻ đã gửi cho mình, và NHPHT sẽ phải chịu rủi ro đối với các giao dịch được thực hiện. Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng ( Account take over ) Tài khoản của chủ thẻ đã bị người khác lợi dụng, được phát hiện khi chủ thẻ đích thực không nhận được thẻ và liên lạc với NHPHT, hoặc khi chủ thẻ nhận được bảng thông báo giao dịch của NHPHT gửi, yêu cầu chủ thẻ thanh toán những khoản tiền chủ thẻ không chi tiêu. Tạo băng từ giả mạo ( skimming ) Trên cơ sở thu thập các thông tin trên băng từ của thẻ thật đã dùng để thanh toán tại các ĐVCNT, các tổ chức tội phạm làm thẻ giả đã sử dụng các phần mềm riêng để mã hoá và in tạo các băng từ trên thẻ giả. Sau đó chúng thực hiện các giao dich giả mạo, trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho NHPHT, NHTTT hoặc cho chủ thẻ. 2. Hoạt động thanh toán thẻ tại Sở Giao Dịch- Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 2.1 Các loại thẻ mà VCB chấp nhận thanh toán Năm 1990, khi hoạt động thanh toán thẻ mới chập chững những bước đi đầu tiên tại thị trường Việt nam, VCB đi tiên phong bằng việc chấp nhận thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Visa và Master Card. Thời gian này VCB mới chỉ đóng vai trò là ngân hàng đại lý cho hai loại thẻ trên. Sang năm 1991, VCB chấp nhận thanh toán thêm thẻ JCB và năm 1994 VCB chấp nhận thanh toán thêm thẻ Amex. Bước sang năm 1995, VCB đánh dấu cột mốc của mình bằng việc trở thành thành viên chính thức của MasterCard quốc tế. Đến năm 2001, thẻ Diners cũng bắt đầu được chấp nhận thanh toán tại VCB. Như vậy là các loại thẻ phổ biến nhất trên thế giới hiện nay đã được VCB chấp nhận thanh toán. Năm 2002, VCB đã kí hợp đồng với Amex trở thành nhà phát hành và thanh toán độc quyền của Amex tại Việt Nam. 2.2 Qui trình nghiệp vụ thanh toán thẻ Bước 1: Chủ thẻ dùng thẻ thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt tại ĐVCNT Bước 2: Khi giao dịch phát sinh, trước tiên ĐVCNT lập hoá đơn về nội dung giao dịch, hoá đơn sẽ được gửi đến NHTTT. Bước 3: NHTTT sẽ ghi Có cho tài khoản của ĐVCNT tại ngân hàng đồng thời lưu hoá đơn làm chứng từ gốc để tra soát và khiếu nại khi cần thiết. Bước 4: NHTTT sau đó sẽ lập bộ chứng từ nhờ thu gửi trung tâm thanh toán của tổ chức thẻ quốc tế để thanh toán với ngân hàng phát hành. Sơ đồ 1: Qui trình thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ĐVCNT NHTTT Chủ thẻ NHPHT Tổ chức thẻ quốc tế (1) (2) (3) (7) (6) (4) (5) Bước 5: Khi nhận được báo có từ trung tâm, NHTTT và NHPHT đối chiếu hồ sơ với hồ sơ gốc làm thủ tục tất toán tài khoản nhờ thu. Bước 6: NHPHT căn cứ vào bảng kê do tổ chức thẻ quốc tế gửi đến tiến hành làm thủ tục thanh toán với tổ chức thẻ quốc tế. Bước 7: NHTTT tiến hành quyết toán với chủ thẻ những khoản chi tiêu, lãi phí phát sinh trong kỳ 2.3 Thực trạng hoạt động thanh toán thẻ tại Sở Giao dịch-VCB VCB bắt đầu thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ từ năm 1990. Ban đầu, VCB nhận làm đại lí thanh toán thẻ Visa cho BFCE của Singapore năm 1990 và thẻ MasterCard cho tổ chức tài chình MBFCS của Malaysia vào năm 1991. Tới tháng 4/1996, VCB trở thành thành viên chính thức của Visa và MasterCard và chấm dứt làm đại lí thanh toán thẻ, chuyển sang thanh toán trực tiếp với các tổ chức quốc tế này. Do số lượngvà loại hình ĐVCNT trong nước còn hạn chế nên thẻ do VCB phát hành chủ yếu được sử dụng ở nước ngoài. Trong tổng doanh số sử dụng thẻ thì doanh số sử dụng thẻ ở nước ngoài chiếm 75% và ở trong nước chỉ chiếm 25%. Mặc dù VCB áp dụng mức phí rút tiền mặt cao (4% trên số tiền rút ra) nhưng khách hàng vẫn sử dụng thẻ để rút tiền mặt với một doanh số đáng kể, chiếm khoảng 13% doanh số sử dụng thẻ. Còn về thanh toán dịch vụ, chiếm khoảng 87% và được sử dụng chủ yếu để thanh toán tiền khách sạn, học phí, vé máy bay và tiền ăn. Cho tới nay, sau hơn 15 năm kinh doanh thẻ thanh toán và các dịch vụ có liên quan đến thẻ, VCB đã thu được những lợi thế không nhỏ với tư cách là người tạo lập thị trường thẻ thanh toán ở Việt nam. VCB có mức tăng trưởng doanh số thanh toán thẻ trung bình là 250%/năm trong suốt thời kì 1991-1996 so với mức tăng trưởng bình quân 200%/năm của thị trường thẻ Việt nam. Triển vọng của thị trường thẻ đã lôi kéo hàng loạt các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Từ năm 1996, VCB đã phải chia sẻ thị phần với các đối tác là chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại việt nam như: UOB, ANZ, Hongkong Bank. Năm 1996, VCB chiếm 75% thị phần, năm 1997, tỷ lệ đó giảm xuống còn 62% , vào cuối năm 1998 còn 50% và doanh số thanh toán thẻ tiếp tục giảm trong năm 2000, tuy vậy từ năm 2001 đã tăng lên. Cho tới nay, VCB đang chiếm lĩnh khoảng 55% thị phần thanh toán thẻ và là ngân hàng đại lí duy nhất ở Việt nam chấp nhận thanh toán cả 5 loại thẻ tín dụng quốc tế phổ cập hiện nay là MasterCard, Visa, Amex, JCB. Diner Club. Do gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng khác và nền kinh tế có nhiều biến động không tốt. Tuy nhiên,trong những năm vừa qua doanh số thanh toán thẻ luôn tăng trưởng và duy trì 15%/năm Doanh số thanh toán thẻ tại Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) Ta có thể điểm qua tình hình thanh toán thẻ của VCB. Năm 1998 là một năm khó khăn đối với công tác phát hành cũng như thanh toán thẻ ở các ngân hàng Việt nam nói chung cũng như VCB nói riêng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đang tiếp tục lan rộng, lượng khách nước ngoài vào Việt nam sụt giảm làm cho doanh số thanh toán cũng không cao, chỉ đạt 76.3 triệu USD. Trong đó, doanh số thanh toán thẻ Visa vẫn chiếm một tỉ trọng đáng kể (32.8 triệu USD, chiếm hơn 40% so với tổng số thanh toán thẻ tại VCB). Bảng 4: Tổng kết doanh số thanh toán thẻ tại VCB (đơn vị: triệu USD ) Tổ chức thẻ QT 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 VISA 32.8 32.48 36.74 45.6 54.52 62.37 67.76 75.29 85.81 MASTER 14.5 14.31 15.53 18.96 25.90 32.80 35.86 38.90 48.12 AMEX 27.2 23.23 17.03 19.68 21.19 23.50 30.10 33.15 40.71 JCB 1.8 0.98 1.76 2.28 3.90 5.15 7.27 8.65 12.50 Tổng cộng 76.3 71 71.06 86.52 105.51 126.82 139.99 155.99 186.14 ( Phòng quản lý thẻ VCB - Báo cáo tháng 1 năm 2007 ) Việc sụt giảm trong hoạt động thanh toán thẻ tiếp tục diễn ra trong năm 1999. Cả năm 1999, tổng doanh số thanh toán thẻ chỉ đạt 71 triệu USD, còn thấp hơn doanh số thanh toán của năm 1994. Ngoài nguyên nhân như số khách nước ngoài vào Việt nam giảm, tình hình kinh doanh trong các lĩnh vực như nhà hàng, khách sạn có chững lại, giá cả hàng hoá trong nước nói chung có xu hướng giảm, còn có một nguyên nhân quan trọng khác nữa là sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác làm cho thị phần thanh toán thẻ của VCB giảm đáng kể. Đặc biệt trong năm 1999, JCB vốn chỉ do VCB làm đại lí độc quyền tại Việt nam, nay đã kí hợp đồng thanh toán với ngân hàng khác nên doanh số thanh toán JCB giảm đáng kể, từ 1.8 triệu USD xuống còn 0.98 triệu USD. Năm 2000, doanh số thanh toán thẻ của VCB giảm 5.3 triệuUSD so với năm 1998. Năm 2000, doanh số thanh toán thẻ của VCB đã tăng lên chút ít do có sự tăng lên trong doanh số thanh toán thẻ của Visa, JCB, MasterCard, song doanh số thanh toán thẻ Amex lại giảm mạnh. Nguyên nhân của việc hầu hết doanh số thanh toán các loại thẻ đều tăng là do chất lượng phục vụ đựoc cải thiện, lượng khách du lịch tăng khi bước sang thế kỉ mới. Riêng thẻ Amex bị giảm vì tổ chức thẻ Amex đã kí thêm hợp đồng thanh toán với các ngân hàng khác nên VCB bị chia sẻ thị phần thanh toán. Số lượng Đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ của Sở Giao Dịch Nguyên nhân cơ bản làm VCB suy yếu trên thị trường thanh toán thẻ tín dụng vẫn là thiết bị công nghệ. Ngay giữa năm 1996, UOB đã trang bị máy EDC cho các ĐVCNT trước VCB và do đó họ có lợi thế kéo các ĐVCNT của VCB về làm với họ. Đến khi VCB có trang bị máy EDC cho ĐVCNT thì các ngân hàng khác như ACB, HKB, ANZ cũng đã tiến hành lắp máy EDC cho các ĐVCNT mới và cũ của VCB để cạnh tranh. Vì số lượng máy EDC của VCB không đủ để trang bị đồng loạt cho các ĐVCNT nên buộc VCB chỉ ưu tiên trang bị cho những ĐVCNT có doanh số lớn. Do vậy, ngân hàng khác có điều kiện thâm nhập vào các ĐVCNT chưa được trang bị của VCB.Bắt đầu từ năm 2001 trở đI , VCB đã đầu tư vào công nghệ và nhập thêm các loại EDC tiên tiến để trang bị cho ĐVCNT .Do vậy, thị phần thanh toán thẻ đã tăng lên và doanh số thanh toán luôn đảm bảo mức tăng 15%.Đặc biệt là khi Việt nam gia nhập tổ chức thương mại WTO vào cuối năm 2006. Bảng 5: Tổng kết mạng lưới thanh toán thẻ tín dụng quốc tế tại Sở Giao dịch-VCB ( Đơn vị tính: điểm chấp nhận thanh toán ) Tổ chức thẻ QT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 VISA 312 525 720 1092 1211 1430 MASTER 312 525 720 1092 1211 1430 AMEX 156 360 625 956 1125 1365 JCB 140 275 625 903 1125 1365 DINER CLUB 50 95 120 150 193 235 ( Nguồn: Sở Giao dịch - VCB - Báo cáo tháng 1 năm 2007) Việc giảm sút trong công tác thanh toán thẻ của VCB trong những năm qua một lần nữa cho thấy hậu quả của việc phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài trong công tác thanh toán thẻ tại Việt nam nói chung và tại VCB nói riêng. Vì thế, giải pháp tốt nhất cho sự phát triển của hoạt động thanh toán thẻ là ngân hàng phải tìm cách để thúc đẩy việc tiêu dùng trong nước cũng như cần có sự quan tâm hơn nữa tới khách hàng tiềm năng và hệ thống mạng lưới thanh toán ở thị trường này. Trong nỗ lực nhằm cải thiện tình hình thanh toán, VCB đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm tăng số lượng ĐVCNT của mình thông qua việc giảm đáng kể tỉ lệ phí đối với ĐVCNT này. Nếu như năm 2001, tổng số ĐVCNT 312, thì cho tới năm 2005 là 1211 và năm 2006 là 1430, tăng 18% so với năm 2005. Đặc biệt, trong năm 2005, doanh số thanh toán của cả 5 loại thẻ đều tăng cao. Bên cạnh đó doanh số thanh toán thẻ Amex từ năm 1996 đến năm 2000 liên tục giảm, từ năm 2001 trở đi lại duy trì mức tăng lên 15%/năm. Điều này nói lên chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ mà VCB mang đến cho khách hàng đã được cải thiện, đã có sức cạnh tranh và dần đáp ứng được công tác thanh toán của khách hàng. Bên cạnh đó, hoà nhịp chung với chủ trương tái cơ cấu các NHTM của NHNN và nhằm đa dạng hoá các sản phẩm điện tử, cuối năm 2001, Ban lãnh đạo VCB đã phân công phòng quản lý thẻ soạn thảo đề án lắp máy ATM trong toàn hệ thống. Đến đầu năm 2002, Sở Giao Dịch-VCB đã triển khai 30 máy rút tiền tự động ATM và tính đến hết năm 2006 Sở Giao dịch đã lắp đặt trên 300 máy tại khu vực Hà nội và các khu công nghiệp. Dịch vụ ngân hàng hiện đại này sẽ thay đổi cách trữ tiền mặt trong nhân dân, đảm bảo an toàn và tăng thời gian giao dịch. Khách hàng gửi tiền ở một nơi có thể rút tiền mặt ở bất cứ đâu có máy ATM, trong tương lai máy ATM sẽ mở rộng các dịch vụ mới như chuyển tiền cá nhân, nộp tiền vào tài khoản , thanh toán hóa đơn, nộp séc, mua chứng khoán, mua các dịch vụ nhỏ, quảng cáo, thông tin thương mại.Với những tính năng này, hệ thống rút tiền tự động ATM trở thành một điểm giao dịch tự phục vụ. Với việc nâng cấp, đổi mới trang bị thêm các trang thiết bị kĩ thuật, nâng cao nghiệp vụ cùng với chính sách khách hàng hấp dẫn hơn trứơc, doanh số thanh toán và phát hành thẻ của VCB tăng lên rõ rệt và đặc biệt sẽ tăng trưởng nhanh hơn so với năm 2006 khi Việt nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Rủi ro trong sử dụng và thanh toán thẻ: Thẻ mất cắp thất lạc ( Lost-stolen Card ) Chủ thẻ bị mất cắp hoặc thất lạc thẻ và thẻ bị một người khác sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho NHPHT. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ hoặc NHPHT. Rủi ro khi thanh toán hàng hoá dịch vụ bằng thẻ qua thư, qua điện thoại, hay qua Internet. ĐVCNT cung cấp hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư, điện thoại hay qua mạng trên cơ sở các thông tin về thẻ. Trong trường hợp chủ thẻ chính thức không phải là khách đặt mua hàng thì giao dich đó bị NHPHT từ chối thanh toán. Trường hợp này dễ gây rủi ro cho ĐVCNT và NHTTT. Rủi ro do in ra nhiều hóa đơn thanh toán của cùng một thẻ (Multiple imprints) Khi thực hiện giao dịch, nhân viên của ĐVCNT đã cố tình in ra nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó nhân viên của ĐVCNT giả mạo chữ ký của chủ thẻ để nộp hóa đơn thanh toán cho NHTTT, gây rủi ro cho NHTTT. III. Đánh giá hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Sở Giao Dịch-Ngân hàng ngoại thương Việt Nam 1.Những kết quả đạt được và nguyên nhân 1.1 Những kết quả Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Sở Giao Dịch là một nghiệp vụ nhỏ trong hoạt động của toàn bộ ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ dịch vụ này tuy chưa Bảng 6: Phí dịch vụ thu được từ hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế tại Sở Giao Dịch-VCB qua các năm ( Đơn vị tính : 1000 USD) Tên tổ chức thẻ QT 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Visa 722 803.3 989 1052 1253 1350 Master 300 437 550 635 827 980.6 JCB 44 59.8 63.9 70 90.5 120 Amex 117 135 170 195.3 230 290.7 Tổng cộng 1183 1435 1772 1952.3 2400.5 2741.3 ( Nguồn: Báo cáo thường niên tình hình hoạt động nghiệp vụ thẻ thanh toán VCB các năm 2001-2006) được thống kê một cách chính xác bởi một số chi phí của nó vẫn chưa được hạch toán riêng, vẫn còn nằm trong chi phí của hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, hiện nay, chỉ có thể đánh giá chính xác hiệu quả của hoạt động này thông qua số phí thu được từ hoạt động thanh toán và phát hành của ngân hàng. Như vậy, tổng số phí thu được và doanh số thanh toán thẻ qua các năm, có thể thấy được phần nào hiệu quả của hoạt động kinh doanh thẻ của Vietcombank. Tuy vậy, hiện nay hầu hết số phí thu được từ hoạt động phát hành và thanh toán thẻ đều sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động thẻ, có thể tạm thời coi như chưa đóng góp nhiều vào tổng lợi nhuận của ngân hàng. Song hoạt động này đem lại nhiều lợi ích cho hoạt động kinh doanh khác của VCB. Những lợi ich này hoàn toàn chưa thể đo đếm bằng những con số cụ thể mà mới chỉ được đánh giá một cách định tính. Trước hết, khi triển khai thêm hoạt động thanh toán thẻ, ngân hàng đa dạng hoá được hoạt động kinh doanh của mình, nhờ đó ngân hàng nâng cao được uy tín của mình trong lòng khách hàng. Thứ hai, qua việc phát hành và thanh toán thẻ, VCB đã gia nhập những tổ chức thẻ lớn trên thế giới như VISA, MASTER CARD tạo điều kiện cho ngân hàng đặt quan hệ kinh doanh với nhiều nước khác nhau trên thế giới. Thứ ba, thanh toán thẻ cũng là một phương thức mua ngoại tệ của ngân hàng. Nguồn này chiếm khoản 7% tổng doanh số mua vào hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Vietcombank. Tóm lại, hoạt động phát hành và kinh doanh thẻ thanh toán tại Vietcombank hiện nay còn chưa thực sự hoàn thiện nên những lợi ích mà nó đem lại là chưa rõ rệt. Tuy nhiên trong một tương lai gần, có thể khẳng định nếu phát triển nghiệp vụ này thì chắc chắn nó sẽ đem lại nhiều lợi ich thiết thực hơn cho ngân hàng. 1.2 Nguyên nhân 1.2.1 Sự phục hồi của nền kinh tế Việt nam và khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Giai đoạn năm 1996-1997 được xem như là một thời kì hoàng kim của thị trường thẻ Việt nam với doanh số ước tính 200 triệu USD/năm; tốc độ phát triển thanh toán thẻ trung bình 200%/năm. Sang năm 1998, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã khiến cho tốc độ phát triển này chững lại và có xu hướng giảm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam năm 1998 tụt xuống còn 5.8%; so với năm 1996 là 9.3% và năm 1997 là 8.2%. Khủng hoảng kinh tế đã làm giảm số lượng khách nước ngoài vào Việt nam, đặc biệt là khách du lịch, kéo theo doanh thu thẻ từ mọi loại hình ĐVCNT đều giảm. Bước sang năm 1998 và năm 1999 tiếp tục đánh dấu sự sụt giảm chưa từng thấy của doanh số thanh toán thẻ tại Việt nam, kéo theo sự sụt giảm về doanh thu và lợi nhuận thanh toán thẻ của các ngân hàng. Tuy vậy, đến giai đoạn năm 2000-2001, nền kinh tế Việt nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình vào khoảng 6.8%/năm (so với năm 1999 là 4.8%). Năm 2006, lượng du khách quốc tế đến Việt nam là 4.14 triệu lượt khách, tăng 20% so với năm 2004 và năm 2005, tăng 80% so với năm 2000. Lượng kiều hối chuyển về nước đạt mức 1.82 tỷ USD, tăng 3.6% so với năm 2000 và 51.7% so với năm 1999. Vốn đầu tư nước ngoài FDI thực hiện ước đạt 2.3 tỷ USD, tăng 9.5%; vốn ODA giải ngân ước đạt 1.7 tỷ USD, tăng 4%; vốn đầu tư trong nước tăng 20.5%. Sự phục hồi của nền kinh tế đã kéo theo sự phục hồi của thị trường thẻ thanh toán với doanh số thanh toán ước tính tăng 30% so với giai đoạn 2004-2005, và sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Đây là một dấu hiệu lạc quan cho các ngân hàng tham gia trên thị trường thẻ nói chung và cho VCB nói riêng. 1.2.2 Sự quan tâm của Nhà nước đối với việc phát triển dịch vụ thẻ thanh toán của các NHTM tại Việt nam Ý thức rõ được tầm quan trọng của thanh toán thẻ đối với phát triển kinh tế, ngay từ năm 1990, NHNN đã cho phép Ngân hàng ngoại thương Việt nam triển khai thí điểm hoạt động thanh toán thẻ. Sau một thời gian thực hiện, cùng với sự ra đời của quyết định số 74/QĐ-NH1 ngày 10/1/1993 về việc phát hành và sử dụng thẻ thanh toán của thống đốc NHNN, VCB đã thí điểm phát hành thẻ thanh toán đầu tiên tại Việt nam. Tháng 8/1996, hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt nam được thành lập. Tháng 6/1998, một cuộc hội thảo về triển vọng mở rộng phạm vi sử dụng và phát hành thẻ ngân hàng tại Việt nam được tổ chức. Hội thảo này đã thảo luận về khả năng ứng dụng thẻ thanh toán tại Việt nam cũng như đề ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh việc phát hành , sử dụng và thanh toán thẻ. Ngày 19/10/1999, quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN về việc ban hành qui chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng đã chính thức đưa ra môi trường hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của các NHTM tại Việt nam hiện nay. 1.2.3 Công nghệ thông tin cũng như hệ thống thông tin liên lạc ở Việt nam đang đạt được những bước tiến vượt bậc Công nghệ thông tin ở Việt nam đang có những tiến bộ vượt bậc. Bên cạnh việc tự tạo ra nhiều mạng nội địa với chất lượng cao, những năm vừa qua đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin của Việt nam khi Việt nam chính thức hoà mạng Internet toàn cầu. Máy tính và mạng máy tính trở thành một công cụ đắc lực giúp cho các ngân hàng nói chung và ngân hàng VCB nói riêng hoàn thành tốt nhiệm vụ làm trung gian thanh toán của mình. 1.2.4 Thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt nam đang có những bước tiến mới Trong số những mô hình ứng dụng thương mại trên Internet, mô hình kinh doanh bán hàng trên mạng của các doanh nghiệp cho người tiêu dùng là phổ biến nhất mà người ta quen gọi là e-commerce hay thương mại điện tử. Nhưng để hoàn thành giao dịch mua bán hàng qua mạng, hiện nay hầu hết các địa chỉ bán hàng đều yêu cầu khách hàng phải có thẻ tín dụng quốc tế để thực hiện việc thanh toán. Hiện nay đã có một số đơn vị cung ứng dịch vụ Internet phối hợp với ngân hàng đi những bước đầu tiên để triển khai thanh toán thẻ và phổ biến thương mại điện tử tại Việt nam. Triển khai việc thanh toán thẻ cho các giao dịch TMĐT sẽ mang lại nguồn thu đáng kể không chỉ cho các doanh nghiệp mà còn cho cả các ngân hàng. 1.2.5 Nhu cầu du học nước ngoài cũng như du lịch nước ngoài của người Việt nam gia tăng Sự kiện các nước ASEAN phối hợp với nhau trong việc giảm giá vé và thủ tục để thăm quan, đi lại trong khu vực, cùng với nhu cầu du lịch nước ngoài của người dân Việt nam có xu hướng gia tăng, kết quả tất yếu là thanh toán thẻ cũng tăng lên vì tính tiện lợi, an toàn của nó trong quá trình sử dụng. Ngoài ra, sự phát triển của thị trường du học cũng góp phần nâng cao nhu cầu sử dụng thẻ tín dụng của ngươì Việt nam. Đây là những nhóm khách hàng rất có tiềm năng và cũng là cơ hội đòi hỏi VCB phải có chiến lược quảng bá tiếp thị rộng rãi để thu hút được nhóm khách hàng này. 1.2.6 VCB là một ngân hàng lớn có uy tín và nhiều kinh nghiệm trong công tác thanh toán VCB là một ngân hàng lớn có nhiều kinh nghiệm trong công tác thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. Qua thực tế kinh doanh trong lĩnh vực này, VCB đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm cũng như tạo được nhiều mối quan hệ làm ăn với các ngân hàng và tổ chức lớn trong nước cũng như quốc tế. Thanh toán thẻ tín dụng quốc tế thực chất là một phương thức thanh toán qua ngân hàng, bởi thế kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế và mối quan hệ rộng là một ưu thế to lớn của VCB khi bước vào kinh doanh trong lĩnh vực thanh toán thẻ. Đặc biệt trong giai đoạn đầu xuất hiện tại Việt nam, thanh toán thẻ chủ yếu mang tính chất thanh toán quốc tế. 1.2.7 VCB là ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực thanh toán và phát hành thẻ tại Việt nam Là ngân hàng đầu tiên thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ và là một trong hai ngân hàng thực hiện phát hành thẻ tại Việt nam, NHNT đã không gặp phải sự cạnh tranh từ phía các ngân hàng khác. Chính những điều này tạo điều kiện cho VCB có thời gian để củng cố và hoàn thiện mọi mặt hoạt động thanh toán thẻ của ngân hàng, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cần thiết, xây dựng uy tín trên thị trường,tạo được thế đứng vững chắc để đối đầu với sự cạnh tranh từ phía các ngân hàng khác, đặc biết là các ngân hàng nước ngoài. 1.2.8 Chiến lược đổi mới công nghệ ngân hàng của VCB VCB là một trong những ngân hàng đầu tiên tại Việt nam coi việc đổi mới công nghệ ngân hàng là một vấn đề chiến lượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐịnh hướng phát triển phát triển thẻ thanh toán của Vietcombank trong thời gian tới.docx
Tài liệu liên quan