Hiện nay, cả nước có khoảng 30% số doanh nghiệp thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo quy định tại Nghị định 130. Đây là con số còn rất khiêm tốn. Trong khi theo số liệu thống kê, từ năm 2002 đến năm 2006, toàn quốc đã xảy ra 11.795 vụ cháy, nổ; thiệt hại ước tính là 1.710 tỷ đồng. Tuy nhiên đây mới chỉ là số thiệt hại đã thống kê được và trên thực tế nếu được thống kê đầy đủ, thì số thiệt hại có thể còn lớn hơn rất nhiều.
Việc Nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc sẽ là một tín hiệu khả quan cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm cháy, nổ Việt Nam, là cơ hội tăng trưởng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian tới.
Các cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc sẽ tăng lên rất nhiều. Cả nước hiện có khoảng 40 nghìn cơ sở buộc phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Nếu tất cả các cơ sở này đều đóng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo đúng quy định thì doanh thu bảo hiểm cháy nổ của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tăng thêm 500 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn doanh thu này không đơn giản chút nào.
Có ba lý do khiến cho việc khai thác tại các đơn vị bắt buộc phải mua bảo hiểm cháy nổ gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới:
Thứ nhất, danh sách các đơn vị phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại từng địa phương do cơ quan cảnh sát Phòng cháy chữa cháy ở địa phương đó giữ. Vấn đề là cần phải công khai danh sách này để bản thân đơn vị phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc được rõ và cả các công ty bảo hiểm biết về đối tượng mình sẽ bán.
60 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3370 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy chứng nhận bảo hiểm cháy nổ bao gồm:
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó:
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản: Một bản trao cho khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công ty.Hiện nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng công ty. Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì công ty chỉ cần gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp, trước khi cấp giấy chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần xem xét kỹ yêu cầu thay đổi như: giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích hợp. Bản bổ sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối tượng bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường công tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng. Đây là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo hiểm. Khoản hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham gia bảo hiểm hoặc trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình công tác, thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là một hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm 1995, để tạo tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa hồng được tính vào chi quản lý nghiệp vụ.
Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty bảo hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi thường. Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định: nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao nhiêu...
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra tai nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu hỏi: tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá trình điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại thông tin: các tang vật và lời khai của nhân chứng.
- Tang vật: Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những sự việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện trường hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng: Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan đến tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những lời khai xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi mâu thuẫn với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám định viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC. Qua đó, nguyên nhân cháy nổ, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp cháy nổ, người được bảo hiểm rất hoang mang và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện trường và song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải góp ý kiến với người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản để tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên nhân gây cháy nổ. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến hoả hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt hại và lập biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên công ty một bản và Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được thể hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ số một của người làm công tác bồi thường và là một trong những biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường, cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau:
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể: khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm không; có điểm loại trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không; có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc: phải xác định ngay tại thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau:
- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường)
- Mức miễn thường: sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi mức miễn thường (trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ t).
Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả lời ngay cho khách hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể:
* Đối với bảo hiểm cháy nổ:
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại ´ ____________________
Giá trị bảo hiểm
3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét duyệt bồi thường. Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho phòng kế toán - tài vụ.
Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp, khiếu nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vậy, cần xem xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan. Cũng cần lưu ý là trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông tin nhận được và đánh giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền bồi thường và thông báo cho khách hàng biết trước để cho họ không bị bất ngờ khi công bố số tiền chính thức. Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải thích kỹ những thắc mắc của họ ngay cả khi từ chối bồi thường.
4. Các biện pháp đề phòng cháy nổ
Mục tiêu của công tác phòng chống cháy nổ là đề phòng hoả hoạn phát sinh và không cho đám cháy lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp phòng cháy nổ là phòng cháy nổ bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý.
+ Phòng cháy nổ bằng thiết kế xây dựng: nhằm cách ly các vật dễ cháy nổ với nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp, lò sấy, lò sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn cao.
+ Các biện pháp quản lý: Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng cháy nổ và chữa cháy nổ của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện pháp đó. Các cán bộ, công nhân phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC cũng như các tiêu chuẩn về an toàn trong hoạt động công tác, sản xuất.. Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các khu vực dễ xảy ra rủi ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý.
5. Công tác chữa cháy nổ
Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác định vùng xảy ra cháy nổ nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành lập các đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa thì mới đảm bảo chữa cháy nổ có hiệu quả và kịp thời. Các công ty bảo hiểm qua việc tham quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực hiện các nội quy PCCC mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa cháy cần thiết.
Vài nét về thị trường bảo hiểm cháy nổ và thì trường bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở Việt Nam:
Đánh giá chung về thị trường bảo hiểm cháy nổ và bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở Việt Nam trong thời gian qua
Mỗi năm nước ta xảy ra hàng nghìn vụ làm chết, bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Đặc biệt số vụ cháy lớn ngày càng gia tăng, điển hình như:
- Cháy chợ Đồng Xuân (14/7/1994) gây thiệt hại gần 140 tỷ đồng. Có 2364 hộ kinh doanh và hàng chục nghìn đại lý, khung chợ bị thiệt hại người kinh doanh lâm vào hoàn cảnh khó khăn do mất hết hàng hóa, tiền của không còn nơi làm việc.
- Vụ cháy xí nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu Sông Bé (1995) thiệt hại gần 18 tỷ đồng.
- Vụ cháy xí nghiệp giày An Đình - Hải Phòng (1996) thiệt hại khoảng 1 triệu đô la.
- Vụ cháy kho xăng dầu 131 Thủy Nguyên - Hải Phòng ngày 26/6/1997 gây thiệt hại 31 tỷ đồng.
- Năm 1997 còn một số vụ cháy lớn như là: Vụ cháy Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình (sản xuất giày Sông Bé) là 6, 03 tỷ đồng; vụ cháy tại xí nghiệp dược Trà Vinh gần 2 tỷ đồng.
- Những vụ cháy lớn trong năm 2000 có thể kể đến là vụ cháy Công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7, 5 tỷ đồng; vụ cháy Công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại là 6, 25 tỷ đồng; vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị giá 6, 2 tỷ đồng.
Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành được hơn một năm, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, số lượng tổ chức, doanh nghiệp và tư nhân tham gia BHCNBB còn rất hạn chế, nhiều doanh nghiệp né tránh hoặc tham gia mang tính chất đối phó. Việc mua bảo hiểm cháy, nổ sẽ giúp doanh nghiệp bảo toàn được vốn và tái sản xuất kinh doanh trong trường hợp không may xảy ra sự cố cháy, nổ. Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đều phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật về BHCNBB. Trong thực tế các doanh nghiệp bảo hiểm gặp nhiều khó khăn trong quá trình vận động thuyết phục khách hàng tham gia BHCNBB. Bên cạnh đó, cơ chế thông tin, phối hợp kiểm tra giữa doanh nghiệp bảo hiểm với Cơ quan Cảnh sát PCCC và cơ quan chức năng chưa rõ ràng cụ thể nên việc triển khai BHCNBB chưa triệt để và quyết liệt.
Hiện nay, cả nước có khoảng 30% số doanh nghiệp thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo quy định tại Nghị định 130. Đây là con số còn rất khiêm tốn. Trong khi theo số liệu thống kê, từ năm 2002 đến năm 2006, toàn quốc đã xảy ra 11.795 vụ cháy, nổ; thiệt hại ước tính là 1.710 tỷ đồng. Tuy nhiên đây mới chỉ là số thiệt hại đã thống kê được và trên thực tế nếu được thống kê đầy đủ, thì số thiệt hại có thể còn lớn hơn rất nhiều.
Việc Nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc sẽ là một tín hiệu khả quan cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm cháy, nổ Việt Nam, là cơ hội tăng trưởng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian tới.
Các cơ sở có nguy hiểm về cháy, nổ phải tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc sẽ tăng lên rất nhiều. Cả nước hiện có khoảng 40 nghìn cơ sở buộc phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Nếu tất cả các cơ sở này đều đóng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo đúng quy định thì doanh thu bảo hiểm cháy nổ của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tăng thêm 500 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn doanh thu này không đơn giản chút nào.
Có ba lý do khiến cho việc khai thác tại các đơn vị bắt buộc phải mua bảo hiểm cháy nổ gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới: Thứ nhất, danh sách các đơn vị phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc tại từng địa phương do cơ quan cảnh sát Phòng cháy chữa cháy ở địa phương đó giữ. Vấn đề là cần phải công khai danh sách này để bản thân đơn vị phải mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc được rõ và cả các công ty bảo hiểm biết về đối tượng mình sẽ bán.
Thứ hai, nếu các đơn vị chưa có đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận của cảnh sát Phòng cháy chữa cháy hoặc có đủ điều kiện rồi mà cơ quan cảnh sát Phòng cháy chữa cháy chưa cấp giấy chứng nhận thì công ty cũng không thể bán bảo hiểm cho các doanh nghiệp này. Thứ ba, có rất nhiều đơn vị thuộc diện có nguy cơ cháy nổ cao và bắt buộc phải mua bảo hiểm nhưng lại hoạt động dựa trên ngân sách Nhà nước. Trong kinh phí hoạt động của các đơn vị này, kinh phí dành cho việc mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc chưa có hướng dẫn và chưa được phân bổ nên ít nhất trong 6 tháng cuối năm 2007 các đơn vị này không lấy đâu ra nguồn tiền để mua
Ngoài ra, có một thực trạng cạnh tranh phi kỹ thuật ở nghiệp vụ bảo hiểm cháy, nổ. Đó là mặc dù biểu phí và hoa hồng bảo hiểm cháy, nổ tự nguyện, BHCNBB được Bộ Tài chính quy định thống nhất, nhưng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm vẫn cố tình hạ phí trái với quy định, đồng thời mở rộng điều kiện bảo hiểm, tăng hoa hồng dành cho khách hàng. Điều này khiến nhiều khách hàng so sánh và gây sức ép đối với doanh nghiệp bảo hiểm, gây tình trạng lộn xộn trong hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm cháy, nổ trên thị trường.
Chương II: Thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội
2.1 Giới thiệu chung về công ty Bảo Việt Hà Nội
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty bảo hiểm Hà Nội (Bảo Việt Hà Nội) thành lập năm 1980 theo quyết định số 1125/QĐ- BTC ngày 11/11/1980 của Bộ tài chính. Ban đầu Công ty có tên là “ Chi nhánh Bảo hiểm Hà Nội”, trực thuộc tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, với nhiệm vụ là tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội, trụ sở đặt tại số 7 Lý Thường Kiệt - Hà Nội.
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp, doanh thu phí bảo hiểm chỉ có một nguồn thu duy nhất là từ Ngân sách Nhà Nước, thực chất chỉ là hình thức rút từ túi nọ bỏ vào túi kia. Vì vậy dịch vụ bảo hiểm không có vai trò lớn trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển thông qua thị trường vốn, với chức năng dàn xếp, phân tán rủi ro, mà chủ chỉ thông qua hình thức tái bảo hiểm. Vai trò của bảo hiểm thương mại trong nước mờ nhạt ít được mọi người biết đến.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước có những chuyển mình căn bản, từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế cơ bản, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Thị trường hàng hoá cũng như thị trường vốn trong nước sôi động đặt nghành bảo hiểm trước những yêu cầu mới trong sự nghiệp thúc đẩy phát triển đất nước. Đáp ứng nhu cầu đó, ngày 17/02/1989, Bộ tài chính đã ra quyết định 27/TCQĐ-TCCB chuyển “chi nhánh Bảo hiểm Hà Nội” thành “công ty Bảo Việt Hà Nội” gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội (BVHN). Ngày 4/3/1989, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam ra quyết định 230/TCCB -BH phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Bảo Việt Hà Nội, đặt trụ sở chính tại 15C Trần Khánh Dư - Hà Nội.
Trải qua hơn 25 năm, Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ lúc thành lập chi nhánh chỉ có 10 người với một phòng nhỏ làm trụ sở đến nay Bảo Việt Hà Nội đã có trụ sở khang trang với gần 150 cán bộ và 14 văn phòng đại diện ở tất cả các quận huyện, cùng mạng lưới đại lý, cộng tác viên phủ kín các địa bàn dân cư trên thành phố Hà Nội, sẵn sàng phục vụ nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các cá nhân và tổ chức kinh tế, các nhà đầu tư cũng như mọi thành phần kinh tế khác. Doanh thu hằng năm từ chỗ 30 triệu đồng đến nay đã đạt hơn 280 tỷ đồng, trở thành 1 đơn vị chủ lực của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
Ngày 28/11/2005 thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 310/2005/QĐ-TTg phê duyệt đề án cổ phần hoá tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam ( Bảo Việt) và thí điểm thành lập tập đoàn tài chính bảo hiểm Bảo Việt. Quyết định của thủ tướng chính phủ là một quyết định có ý nghĩa đặc biệt vì nó hàm chứa bên trong 3 vấn đề lớn:
Một là, cổ phần hoá tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
Hai là, chuyển đổi mô hình tổ chức của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam từ mô hình tổng công ty Nhà Nước sang mô hình công ty Mẹ - công ty Con.
Ba là, hình thành tập đoàn kinh tế mới - tập đoàn tài chính - Bảo Hiểm Bảo Việt.
Quyết định của chính phủ đã có hiệu lực, việc thực hiện cổ phần hoá tổng công ty bảo hiểm Việt Nam và thí điểm tập đoàn tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt đã được tiến hành. Đây là một sứ mệnh cao cả nhưng trách nhiệm cũng rất lớn của những người thực hiện quyết định sự thành công trong thực hiện một số chủ trương mới có tính thí điểm của Nhà Nước trong quyết định 310/2005/QĐ-TTg sẽ có ý nghĩa lớn trong điều chỉnh chính sách của Nhà Nước ta về đổi mới trong doanh nghiệp Nhà Nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tổ chức bộ máy hoạt động
Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm Hà Nội nói riêng đã có nhiều biến động đáng kể. Nghị định 100/CP ban hành ngày 18/12/1993 và nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997 của Chính Phủ về việc cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ( Nhà Nước, cổ phần, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và các văn phòng đại diện nước ngoài) tham gia kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Sự xuất hiện của các công ty này buộc Bảo Việt Hà Nội phải không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ của mình thì mới đảm bảo khả năng đứng vững trong cạnh tranh. Một trong những biện pháp quan trọng đó là thay đổi cơ cấu tổ chức văn phòng công ty. Theo cơ cấu tổ chức mới, song song với nhiệm vụ khai thác khách hàng, văn phòng công ty còn có chức năng quản lý và giám sát hoạt động các văn phòng địa phương trực thuộc. Bởi vật ngoài các phòng ban phụ trách các vấn đề tổ chức nhân sự, hành chính, kế toán… những phòng nghiệp vụ ngoài nhiệm vụ trực tiếp tiến hành kinh doanh còn có chức năng quản lý giúp đỡ các văn phòng tại các quận huyện trong việc quan hệ với khách hàng, đánh giá rủi ro, xử lý giám định và bồi thường khiếu nại.
Với phương châm “ phục vụ khách hàng một cách tốt nhất để phát triển” Bảo Việt Hà Nội không ngừng đổi mới phong cách làm việc, nâng cao trình độ nghiệp vụ để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Đặc biệt Bảo Việt Hà Nội đã liên tục củng cố kiện toàn bộ máy, tổ chức sắp xếp và đào tạo cán bộ cho phù hợp với nhiệm vụ và chức năng của mình. Cụ thể cơ cấu tổ chức của Bảo Việt Hà Nội hiện nay bao gồm:
Ban giám đốc : 1 giám đốc và 3 phó giám đốc
27 phòng : trong đó có 5 phòng gián tiếp và 22 phòng trực tiếp kinh doanh có ở 14 quận huyện, với mạng lưới đại lý cộng tác viên trên địa bàn thành phố.
Các phòng nghiệp vụ và văn phòng đại diện không thực hiện hạch toán độc lập nhưng có toàn quyền quyết định các hoạt động của mình ở mức phân cấp cho phép, kết hợp với các phòng chức năng nhằm đưa ra các biện pháp giải quyết. Với cơ cấu tổ chức như vậy, việc quản lý chung của Bảo Việt Hà Nội khá chặt chẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo sự thông suốt từ ban giám đốc tới các đại lý, cộng tác viên, đảm bảo đưa ra một dịch vụ bảo hiểm hoàn thiện cho khách hàng. Các phòng ban trong công ty hoạt động vừa độc lập vừa có sự liên hệ qua lại mật thiết với nhau do sự phân công, phân cấp quản lý của ban giám đốc.
Sơ đồ cơ cấu công ty
Giám Đốc
Phó Giám Đốc
Phó Giám Đốc
Phó Giám Đốc
P.
Tài chính kế toán
P.
Phi
Hàng hải
P. Marketting
P. Hành chính QT
P. QL đại lý
P. Tin học
P.
Q
Phòng
P.
Rủi ro KT
P.
Cháy RRHH
P.
Hàng Hải
P. Giám định BT
P.
Tổng hợp
P Thanh Xuân
P Đống Đa
P
Ba Đình
P
Hoàn Kiếm
P Cầu Giấy
P
Gia Lâm
P Đông Anh
P
Hai
Bà Trưng
P
Sóc Sơn
P
Thanh Trì
P
Từ
Liêm
P
Hoàng
Mai
P
Long
Biên
P
Số
7
P Tây Hồ
P
Đông Anh
P
Gia Lâm
P
Cầu Giấy
2.1.3 Lĩnh vực kinh doanh:
Công ty bảo hiểm Hà Nội với hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm, hiện nay công ty đang tiến hành triển khao khoảng hơn 60 nghiệp vụ bảo hiểm cụ thể:
BH hàng hóa nhập khẩu.
BH hàng hóa xuất khẩu.
BH hàng hóa vận chuyển nội địa.
BH than tàu biển.
BH trách nhiệm tàu biển.
BH thân tàu song.
BH trách nhiệm tàu sông.
BH trách nhiệm chủ đóng tàu.
BH dầu khí.
BH tài sản trong khai thác dầu khí.
BH hàng không.
BH trách nhiệm chủ sân bay.
BH hàng không khác.
BH rủi ro xây dựng (CAR)
BH rủi ro lắp đặt ( EAR)
BH máy móc ( MB)
BH thiết bị điện tử.
BH máy móc thiết bị xây dựng.
BH gián đoạn kinh doanh kỹ thuật.
BH cháy và các rủi ro hỗn hợp.
BH rủi ro trong công nghiệp.
BH tổn thất vật chất bất ngờ.
BH tiền.
BH trộm cắp.
BH nhà tư nhân.
BH hỗn hợp văn phòng.
BH gián đoạn kinh doanh sau cháy và tổn thất.
BH trách nhiệm công cộng.
BH trách nhiệm công cộng và sản phẩm mới.
BH lòng trung thực.
BH trách nhiệm Hole in one.
BH trách nhiệm nghề nghiệp với bệnh viện và bác sỹ.
BH trách nhiệm nghề nghiệp kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn.
BH trách nhiệm môi giới bảo hiểm.
BH trách nhiệm khác.
BH vật chất ôtô.
BH vật chất môtô.
BH TNDS của chủ xe ôtô đối với người thứ 3.
BH TNDS của chủ xe môtô đối với người thứ 3.
BH trách nhiệm của chủ xe đối với hành khách.
BH TN của chủ xe đối với hàng hóa vận chuyển trên xe.
BH tai bạn con người 24/24.
BH sức khỏe và tai nạn con người.
BH kết hợp con người.
BH tại nạn con người theo mẫu đơn Colognre.
BH sức khỏe con người mức cao.
BH trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
BH sinh mạng cá nhân.
BH tai nạn hành khách.
BH toàn diện học sinh.
BH tai nạn thủy thủ thuyền viên.
BH tai nạn người lao động.
BH tai bạn lái phụ xe và người ngồi trên xe.
BH tai nạn người ngồi trên xe mô tô.
BH khách du lịch.
BH cho người Việt Nam du lịch nước ngoài ngắn hạn,
BH chi phí y tế và vận chuyển y tế cấp cứu.
BH thành viên hộ gia đình.
BH chăm sóc sức khỏe cho người sinh sản.
BH cứu trợ y tế cho người sử dụng thẻ ACB.
2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doanh:
I. Đánh giá chung:
1. Tình hình chung:
- Sự suy thoái kinh tế thế giới ảnh hưởng tới nền kinh tế trong nước, cả nước và thủ đô Hà Nội tiếp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng khai thác bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ở công ty Bảo Việt Hà Nội.doc