Chuyên đề Thực trạng khai thác bảo hiểm ô tô qua liên kết ngân hàng và bảo hiểm tại Văn phòng 7- Hà nội của Công ty bảo hiểm PJICO

Mục lục

Lời mở đầu

Chương I : Lý luận chung về bảo hiểm ô tô và công tác khai tác bảo hiểm . 6

I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm ô tô. 6

1. Sự cần thiết. 6

1. Tác dụng . 7

II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm xe ô tô . 8

1. Bảo hiểm vật chất xe . 8

1.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. 8

1.1.1. Đối tượng bảo hiểm . 8

1.1.2. Phạm vi bảo hiểm . 8

1.2. Giá trị bảo hiểm , số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm . 10

1.2.1. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm . 10

1.2.2. Phí bảo hiểm . 10

1.3. Giám định và bồi thường. 10

1.3.1. Giám định . 10

1.3.2. Bồi thường . 11

2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba . 12

2.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm . 12

2.1.1. Đối tượng bảo hiểm . 12

2.1.2. Phạm vi bảo hiểm . 13

2.2. Phí bảo hiểm . 14

2.3. Giám định và bồi thường . 18

2.3.1. Giám định . 18

2.3.2. Bồi thường . 19

3. Bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe. 20

3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm . 20

3.2. Phí bảo hiểm . 21

3.3. Giám định và bồi thường . 21

III. Công tác khai thác bảo hiểm . 22

1. Vai trò của công tác khai thác bảo hiểm . 22

2. Nội dung khai thác và các kênh khai thác chính. 22

Chương II: Lý thuyết căn bản về Bancassurance . 24

I. Mối quan hệ của ngân hàng và bảo hiểm . 24

1. Mối quan hệ hợp tác . 24

2. Mối quan hệ cạnh tranh . 27

II. Lý thuyết căn bản về Bancassurance . 29

1. Bancassurance và quá trình hình thành . 29

2. Sự cần thiết của Bancassurance . 30

3. Lợi ích mang lại từ Bancassurance . 31

4. Các mô hình Bancassurance . 33

4.1. Mô hình công ty bảo hiểm trong các ngân hàng . 33

4.2. Mô hình ngân hàng trong các công ty bảo hiểm . 36

4.3. Ngân hàng và bảo hiểm hợp tác thành lập công ty liên doanh . 37

4.4. Ngân hàng và bảo hiểm hợp tác phát triển các sản phẩm và dịch vụ liên kết . 37

5. Sản phẩm Bancassurance . 38

5.1. Vài nét về sản phẩm Bancassurance . 38

5.2, Một số yêu cầu về sản phẩm Bancassurance . 39

III. Đánh giá chung về Bancassurance tại Việt Nam. 40

1. Tình hình chung . 40

2. Bancassurance tiêu biểu tại Việt Nam . 41

3. Các hướng hoạt động của Bancassurance tại Việt Nam trong thời gian tới. 44

ChươngIII:Đánh giá tình hình khai thác bảo hiểm ô tô qua liên kết ngân hàng và bảo hiểm tại Văn phòng 7- PJICO Hà nội . 45

I. Giới thiệu chung về Công ty PJICO và Văn phòng 7 tại Hà Nội. 45

1. Giới thiệu chung về Công ty PJICO. 45

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty . 45

1.2. Các ngành nghề kinh doanh . 49

1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty . 50

1.4. Tình hình kinh doanh của Công ty PJICO trong 2007. 52

2. Giới thiệu chung về Văn phòng 7 tại Hà Nội . 54

II. Thực trạng khai thác bảo hiểm ô tô qua ngân hàng tại Văn phòng 7 . 54

III. Những khó khăn và thuận lợi trong công tác khai thác . 57

1. Những thuân lợi. 57

1.1. Nguồn nhân lực . 57

1.2. Khách hàng . 57

1.3. Những thuận lợi khác . 58

2. Những khó khăn . 58

2.1. Nguồn nhân lực . 58

2.2. Khách hàng . 58

2.3. Năng lực . 58

2.4. Sự cạnh tranh gay gắt của thị trường bảo hiểm. 59

2.5. Cơ chế hoạt động. 60

IV. Những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm. 60

Kết luận

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1949 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng khai thác bảo hiểm ô tô qua liên kết ngân hàng và bảo hiểm tại Văn phòng 7- Hà nội của Công ty bảo hiểm PJICO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho hoạt động phát triển kinh tế. Mối liên hệ hợp tác hình thành do lĩnh vực này có thể sử dụng những ưu việt của các dịch vụ của lĩnh vực kia. 1. Mối quan hệ hợp tác Mối quan hệ hợp tác được thể hiện trong việc cung ứng các dịch vụ lẫn nhau giữa ngân hàng và bảo hiểm, trong mối quan hệ với khách hàng của cả hai bên, và quan trọng nhất là trong hoạt động đầu tư vốn của các bên. ─ Trước hết trong hoạt động đầu tư, ngân hàng luôn là nơi đầu tư ổn định và an toàn nhất cho các nhà bảo hiểm.Yêu cầu đối với hoạt động đầu tư của nhà bảo hiểm luôn phải đảm bảo các yêu cầu: an toàn, sinh lời và đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm. Có những yếu tố bên trong của doanh nghiệp như các nghĩa vụ tài chính ( nghĩa vụ đối với khách hàng, nghĩa vụ đối với người được bảo hiểm, nghĩa vụ đối với cổ đông của công ty), yếu tố quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm, chính sách phân phối lợi nhuận. các quan điểm của người quản lý đầu tư. Các nhân tố bên ngoài như: chế độ thuế, các điều kiện của thị trường vốn ( cung cấp các tài sản tài chính để doanh nghiệp bảo hiểm có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình), các công cụ quản lý nhà nước. Các phương thức chủ yếu mà các nhà bảo hiểm hiện nay thường hay đầu tư là gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản. Trong đó gửi tiền tại các tổ chức tín dụng mà phần lớn là các ngân hàng thương mại luôn là lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy hoạt động này an toàn gấp nhiều lần so với đầu tư bất động sản hay đầu tư chứng khoán, nhưng nó vẫn có hạn chế như tỷ suất lợi nhuận thấp,... ─ Một nhà đầu tư lớn muốn vay vốn thì trước hết ngân hàng phải tiến hành đánh giá rủi ro xem cho vay hay không cho vay. Tiếp đến là bảo hiểm, trước khi ký hợp đồng cho dự án đó nhà bảo hiểm cũng phải đánh giá rủi ro. Hai công tác đánh giá rủi ro này liên quan mật thiết, do đó có thể phối hợp để việc đánh giá rủi ro thêm chính xác và hoàn chỉnh về mọi mặt. Công tác đánh giá rủi ro của ngân hàng thường là những rủi ro tín dụng , rủi ro lãi xuất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản,... Công tác này sẽ hạn chế được những trường hợp cho vay yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo ngân hàng... Còn với doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro liên quan đến việc ký hợp đồng và quản lý hợp đồng bảo hiểm qua đó hạn chế được các trường hợp trục lợi bảo hiểm, xác định được số tiền bảo hiểm phù hợp với đối tượng bảo hiểm, giảm chi phí cho hoạt động quản lý hợp đồng,... Nhìn chung cả hai lĩnh vực đều phải làm rõ các yếu tố như tình trạng hiện tại , các rủi ro có thể phải đối mặt của nhà đẩu tư, khả năng tài chính của chủ hợp đồng, mục đích tham gia bảo hiểm,...Qua đó ngân hàng có thể hoàn toàn tận dụng những đánh giá điều tra của nhà bảo hiểm và ngược lại nhà bảo hiểm có thể tận dụng những đánh giá của ngân hàng để rút ngắn việc đánh giá rủi ro của khách hàng. ─ Thông qua hệ thống thanh toán qua ngân hàng nhà bảo hiểm có thể tiết kiệm rất nhiều chi phí cho công tác thu phí, chi trả bồi thường bảo hiểm,... Do chức năng quan trọng của ngân hàng là trung gian thanh toán, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng các dịch vụ đó để tiến hành giao dịch với khách hàng mà không chỉ dựa vào hệ thống các đại lý hay chi nhánh. Qua đó có thể tiết kiệm được nhiều chi phí, thời gian của khách hàng, cắt giảm một khối lượng lớn công việc của các đại ly, chi nhánh,... Các dịch vụ bao gồm thanh toán thể qua thiết bị chấp nhận thanh toán thẻ POS, dịch vụ thanh toán tự động và cho trả phí bảo hiểm, dịch vụ quản lý tiền mặt tập trung, hoặc dịch vụ chi trả lương cho nhân viên qua hệ thổng thẻ,... Vậy tận dụng dịch vụ của ngân hàng mà các doanh nghiệp có thể thanh toán nhanh gợn, an toàn hơn. ─ Đặc tính của sản phẩm bảo hiểm là quá trình đảo ngược, tức là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thu phí bảo hiểm trước và sẽ tiến hành chi trả nếu tổn thất xảy ra sau đó. Do đó tại các doanh nghiệp bảo hiểm luôn tồn tại một lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ. Đặc biệt là tại các công ty bảo hiểm nhân thọ. Nguồn vốn này sẽ tồn tại một phần dưới dạng quỹ dự phòng nghiệp vụ. Mà quỹ này yêu cầu cao nhất là phải có tính thanh khoản cao. Do đó công ty bảo hiểm không thể chọn hình thức đầu tư bất động sản hay đầu tư chứng khoán do khó có thể thu hồi được vốn một cách nhanh chóng. Do đó lựa chọn gửi tại các ngân hàng là lựa chọn phù hợp nhất. Trong khi đó các ngân hàng luôn tìm cách huy động vốn, một hoạt động sinh lời cao. Với lượng vốn khổng lồ từ các quỹ dự phòng, các ngân hàng sẽ giải quyết được vấn đề huy động vốn của mình. ─ Hiện nay dựa vào các hợp đồng bảo hiểm, ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn bằng cách thế chấp chính hợp đồng bảo hiểm đó của họ. Thực chất của hoạt động cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Vì những rủi ro mà người đi vay có thể gặp phải trong quá trình sử dụng vốn nên các ngân hàng buộc phải thực hiện các hình thức đảm bảo trong tín dụng như cầm cố, thế chấp. Việc cho vay thế chấp mà chủ yếu thế chấp tải sản, gây nên những cản trở trong việc tiếp cận nguồn vốn của họ. Bởi lẽ hoạt động kinh doanh luôn luôn chứa đựng những rủi ro khó lường, nên trong trường hợp mất khả năng thanh toán, họ thường phải đối mặt với nguy cơ mất đi tài sản đảm bảo. Có những khách hàng mong muốn được vay vốn nhưng lại không có tài sản để thế chấp. Họ có thể chọn giải pháp là tham gia bảo hiểm cho chính các hợp đồng vay vốn, khách hàng chuyển giao rủi ro cho nhà bảo hiểm qua việc đóng một khoản phí nhất định. Trường hợp xấu nhất là khách hàng mất khả năng thanh toán thì công ty bảo hiểm sẽ đứng ra chi trả khoản vay này cho ngân hàng. ─ Nhà bảo hiểm sẽ bảo hiểm cho chính các tổ chức ngân hàng, tín dụng, từ đó giúp hoạt động của ngân hàng an toàn và ổn định hơn. Đó là bảo hiểm cho những tài sản của chính ngân hàng và bảo hiểm con người cho nhân viên, lãnh đạo của công ty. ─ Hiện nay, có nhiều ngân hàng và công ty bảo hiểm liên kết với nhau để cung cấp cho khách hàng các dịch vụ một cách đồng bộ. Một trong sự liên kết đó là hoạt động khai thác bảo hiểm ô tô của các công ty bảo hiểm qua hệ thống ngân hàng. Nhu cầu ô tô để đi lại hiện nay là rất lớn, đặc biệt là tại các công ty, công sở. Có thể do nhiều nguyên nhân dẫn đến họ phải vay vốn của ngân hàng. Mà ngân hàng lại có quyền chỉ định nhà bảo hiểm cho những chiếc ô tô đó. Thông qua quan hệ ngân hàng và bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ ký được hợp đồng bảo hiểm cho những chiếc ô tô mua bằng cách trả góp tại ngân hàng. 2. Mối quan hệ cạnh tranh Ngân hàng và bảo hiểm luôn luôn cạnh tranh với nhau để thu hút tiền nhàn rỗi ở các tầng lớp nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội, đặc biệt là trong bảo hiểm nhân thọ. Ngân hàng thu hút nguồn vốn bằng cách tăng lãi suất tiền gửi, có những dịch vụ kèm theo hấp dẫn để thu hút khách hàng. Còn tại các công ty bảo hiểm thì bằng cách giảm phí bảo hiểm, hoàn thành và phát triển các sản phẩm mới hấp dẫn, phát triển mạnh dịch vụ hậu khách hàng để thu hút người dân tham gia. Đứng trên khía cạnh thu hút nguồn vốn thì việc tham gia các sản phẩm của công ty bảo hiểm là cách tốt hơn cho mọi người dân. Việc có thể đóng phí bảo hiểm định kỳ giúp cho họ tích luỹ được một lượng tiền rất lớn sau một thời gian tham gia ( số tiền bảo hiểm). Ngoài ra họ còn được nhà bảo hiểm bồi thường cho họ khi không may gặp phải sự kiện bảo hiểm. Còn gửi tiền tại các ngân hàng thì người đi gửi tiền sẽ chỉ có thể nhận được một lượng tiền lãi nhất định dựa vào lãi suất, và loại hình này có tính thanh khoản cao chứ không như tham gia bảo hiểm. Việc tăng lãi suất tiền gửi cố định của các ngân hàng để thu hút người đến gửi tiền cũng có những hạn chế của nó. Sự chạy đua tăng lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng đôi khi lại là con dao hai lưỡi phản tác dụng đối với chính họ. Điều này gây hậu quả rất lớn đến nguồn vốn của ngân hàng, Ngoài ra còn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, các ngành khác trong nền kinh tế, kết quả là làm chậm lại sự phát triển của quốc gia. Trước những biện pháp tăng lãi suất tiền gửi và hàng loạt các biện pháp khác. Như phát hành kỳ phiếu, khuyến mãi, xây dựng các chương trình tiết kiệm dự thường, cho rút tiền trước kỳ hạn, ... Tạo tâm lý so sánh lợi ích trước mắt giữa hai hình thức giữ tiền, tạo khó khăn cho các công ty bảo hiểm. Đứng trước những khó khăn này, các doanh nghiệp bảo hiểm phải giảm phí và làm tốt hơn công tác chăm sóc khách hàng. Kéo theo là tại các doanh nghiệp bảo hiểm cũng xảy ra cuộc chạy đua giảm phí. Hậu quả của cuộc chạy đua này là rất lớn đối với các công ty bảo hiểm. Với mức phí thu quá thấp các công ty bảo hiểm sẽ không đủ tiền để chi trả bồi thường cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nếu số hợp đồng xảy ra bồi thường quá nhiều sẽ dẫn đến thu không đủ chi, dẫn đến thu lỗ cho công ty bảo hiểm. Để giải quyết vấn đề này các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải triển sản phẩm có khả năng thu hút khách hàng cao, dịch vụ hậu mãi lên hàng đầu. Có các biện pháp hạn chế đề phòng tổn thất phù hợp để giảm thiểu xảy ra tổn thất của các hợp đồng. Trước những cạnh tranh gây thiệt hại cho cả hai bên, các ngân hàng và các công ty bảo hiểm nên kết hợp với nhau để tạo được dịch vụ tốt nhất cho khách hàng đồng thời bảo vệ cho chính mình. II. Lý thuyết căn bản về Bancassurance 1. Bancassurance và quá trình hình thành. Bancassurance bắt đầu xuất hiện và được sử dụng chính thức vào những năm 70 của thế kỷ 20 tại Pháp. Bancassurance được hiểu một cách đơn giản là sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm do ngân hàng cung ứng, hoặc được cung ứng qua ngân hàng. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, tình hình kinh tế ở các nước phát triển có những thay đổi rất lớn, rõ ràng nhất của hiện tượng này là thông qua lãi suất. Điển hình là Mỹ, từ sau những năm 70, lãi suất của nên kinh tế Mỹ có những biến động lớn, thậm chí biến động nhiều lần trong một năm. Trước những thay đổi liên tục của lãi suất, các sản phẩm bảo hiểm truyền thống tính phí theo lãi suất cố định không còn phù hợp với tình hình lúc đó. Cả công ty bảo hiểm cũng như khách hàng đều có thể bị tổn thất do sự thay đổi của lãi suất. Bởi xét về phía công ty bảo hiểm khi lãi suất liên tục thay đổi, để đảm bảo khả năng thu lợi nhuận, cũng như chi trả cho khách hàng tham gia, các công ty thường sử dụng lãi suất kỹ thuật để tính phí bảo hiểm một cách thận trọng, phí bảo hiểm của các sản phẩm bảo hiểm luôn có xu thế tăng lên. Và việc sử dụng lãi suất kỹ thuật cao, sẽ làm cho các công ty bảo hiểm gặp phải những khó khăn khi lãi suất trên thị trường hạ xuống quá thấp. Đứng trên địa vị khách hàng mua bảo hiểm , họ không còn ưu thích các sản phẩm truyền thống với lãi suất cố định. Họ muốn nhận được nhiều hơn từ các hợp đồng bảo hiểm này khi lãi suất tăng. Những lý do trên đã thúc đẩy hình thành liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng để hạn chế và san sẻ những rủi ro do việc lãi suất biến động mang lại. Có rất nhiều định nghĩa về Bancassurance, sau đây là một số định nghĩa thường được sử dụng: ─ Bancassurance là việc ngân hàng và công ty bảo hiểm hợp tác với nhau để phát triển và phân phối một cách hiệu quả các sản phẩn cho cùng một cơ sở khách hàng. Tuy nhiên, đây không phải là đặc điểm duy nhất trong mối liên kết bảo hiểm và ngân hàng. Cần phải phân biệt rõ ràng được việc phân phối các sản phẩm bảo hiểm (Bancassurance) với việc các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp và phân phối các dịch vụ tài chính ngân hàng ( Assurbanking). ─ Bancassurance là việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm và ngân hàng thông qua một kênh phân phối chung hoặc cùng cơ cở khách hàng. ─ Bancassurance là một chiến lược được các ngân hàng và công ty bảo hiểm sử dụng nhằm nâng cao hoạt động của mình trong thị trường tài chính theo cách thức hợp nhất dịch vụ ở mức độ nào đó. Qua các định nghĩa trên hiểu một cách đơn giản nhất là sự phân phối các sản phẩm bảo hiểm của các ngân hàng và sự phân phồi các dịch vụ tài chính ngân hàng của các công ty bảo hiểm. 2. Sự cần thiết của Bancassurance Bancassurance ra đời sẽ giải quyết được một số vần đề sau đây: ─ Do nhu cầu về dịch vụ tài chính “một nửa”. Bancassurance có thể đáp ứng những khách hàng có nhiều nhu cầu về dịch vụ tài chính chỉ qua “một nửa”. Ví dụ khách có nhu cầu vay tiền, có tài khoản hoặc sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng, có thể tham gia bảo hiểm ngay tại ngân hàng, nộp phí cũng thuận tiện hơn cho khách hàng vì có thể nộp tiền qua chuyển khoản, thẻ ATM,... Ngoài ra, khách hàng có thể tham gia bảo hiểm tại ngân hàng để đảm bảo kế hoạch khả năng trả nợ cho ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Khách hàng có thể được hưởng những quyền lợi và dịch vụ giá trị gia tăng do sử dụng đồng thời nhiều dịch vụ. ─ Sụ ra đời của Bancassurance làm thay đổi thói quen của khách hàng có nhu cầu đầu tư đang chuyển từ sản phẩm tiết kiệm đơn giản sang các sản phẩm phức tạp, do vậy ngân hàng cần phải cung cấp nhiều dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng ─Việc sử dụng hệ thống dịch vụ của ngân hàng giúp Công ty bảo hiểm có thể tiết kiệm được chi phí hoạt động, qua đó tăng khả năng cạnh tranh và lợi nhuận. Tiết kiệm được chi phí đào tạo cán bộ khai thác, có thể sử dụng cơ sở dữ liệu khách hàng, quan hệ của ngân hàng để bán bảo hiểm. ─ Thông qua Bancassurance các công ty bảo hiểm có thể sử dụng uy tín, thương hiệu và nguồn lực của ngân hàng vào việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Bancassurance giúp các công ty bảo hiểm thâm nhập vào các thị trường chưa được khai thác, nhất là các thị trường chỉ có thể khai thác qua ngân hàng. ─ Do tác động của cạnh tranh làm giảm biên lợi tức của ngân hàng cũng như công ty bảo hiểm, đòi hỏi ngân hàng cũng như công ty bảo hiểm phải đa dạng hoá kênh phân phối, đa dạng hoá sản phẩm để tạo thêm lợi nhuận, tăng năng suất tạo ưu thế cạnh tranh ─ Sự phát triển của công nghệ thông tin giúp cho việc lưu trữ, khai thác cơ sở dữ liệu khách hàng, cung cấp dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm được nhanh chóng thuận tiện. ─ Xu hướng phi trung gian hoá trong hoạt động ngân hàng và bảo hiểm cũng là một trong những lý do dẫn đến sự ra đời của Bancassurance. Nó làm giảm sự phụ thuộc của Công ty bảo hiểm đối với lực lượng đại lý môi giới, tạo ra đối tượng cần thiết cho sự phát triển bền vững. ─ Chính sách tự do hoá hoạt động tài chính cho phép sự thâm nhập lẫn nhau giữa hoạt động ngân hàng và bảo hiểm. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa cũng thúc đẩy sự hoạt động của Bancassurance. 3. Lợi ích mang lại từ Bancassurance Bancassurance ra đời sẽ mang lại lợi ích cho cả ba bên bao gồm: khách hàng, ngân hàng và công ty bảo hiểm. Lợi ích mang lại còn tuỳ thuộc vào mức độ hợp tác giữa ngân hàng và bảo hiểm. ─ Đối với công ty bảo hiểm: Bancassurance tạo ra nguồn khách hàng mới, cơ hội cho các sản phẩm mới và tiết kiệm chi phí nhờ quy mô lớn. Công ty bảo hiểm có thể sử dụng nguồn dữ liệu rất lớn về khách hàng của ngân hàng qua đó giảm chi phí phân phối sản phẩm. Ngoài ta khách hàng của ngân hàng cũng là những khách hàng có tiềm năng lớn đối với công ty bảo hiểm vì họ thường có thu nhập trung bình khác trở lên vì ít nhiều có thói quen sử dụng các dịch vụ tài chính Thông qua ngân hàng, các công ty bảo hiểm sẽ đa dạng hoá được kênh phân phối của chính mình, làm tăng khả năng cạnh tranh Bán các sản phẩm ngân hàng cho khách hàng tham gia bảo hiểm, qua đó giúp giảm thiểu nhiều rủi ro phát sinh từ việc giao dịch bằng tiền mặt, giải quyết tốt bài toán thu phi, thanh toán quyền lợi bảo hiểm bằng tiền mặt. Thực tế cho thấy các công ty bảo hiểm Việt Nam, chịu rủi ro lớn trong việc quản lý tiền mặt trong quá trình thu phí, giải quyết quyền lợi bảo hiểm và giải quyết bài toán về tố chức lực lượng thu phí bảo hiểm Ngoài ra còn tăng cường thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường thông qua việc sử dụng uy tín và thương hiệu của ngân hàng vì trên thực tế hệ thống ngân hàng có uy tín rất lớn. ─ Đối với ngân hàng: Có thêm dịch vụ cung cấp cho ngân hàng, qua đó tăng khả năng cạnh tranh của mình, tăng khả năng duy trì khách hàng và thu hút thêm khách hàng mới sử dụng dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng có thể tăng doanh thu hoạt động ngân hàng thông qua việc cung cấp cho khách hàng mua bảo hiểm. Tăng thu nhập không phải từ lãi thông qua việc thu phí các dịch vụ ngân hàng, cho thuê mặt bằng giao dịch, hoa hồng từ bán bảo hiểm, ... Ngân hàng có thể tận dụng cơ sở khách hàng, mối quan hệ dài hạn với khách hàng, hệ thống phân phối hiện thời... nhằm tạo ra lợi thế so với các kênh phân phối khác trong việc phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhằm tạo ra thu nhập ổn định. Tăng năng suất hoạt động của các nhân viên ngân hàng thông qua việc cung cấp thêm các sản phẩm bảo hiểm, do vậy giúp giảm chi phí cố định một cách tương đối cho ngân hàng Tăng cường thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường. Đồng thời tạo thêm năng lực đổi mới, giảm bớt sự biến động của lợi nhuận theo thời gian do khả năng sinh lời của ngành ngân hàng và bảo hiểm thường biến động không theo cùng một chu kỳ. Thêm vào đó, Bancassurance giúp giảm vốn theo rủi ro của ngân hàng. Việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm giúp giảm thiểu rủi ro không thu hồi được nợ của ngân hàng khi khách vay vồn gặp rủi ro. Giúp tăng cường nguồn vồn huy động của ngân hàng từ phí bảo hiểm ─ Đối với khách hàng: khác được sử dụng dịch vụ tài chính trọn gói qua một cửa với chi phí thấp hơn và thuận tiện hơn. Khách hàng có thể quản lý rủi ro tốt hơn và hoạch định tài sản hiệu quả hơn. Khi mua bảo hiểm tại ngân hàng khách có thể có thêm niềm tin vào “ bảo lãnh uy tín” của bảo hiểm. 4. Các mô hình Bancassurance Theo xu thế tất yếu các ngân hàng và các công ty bảo hiểm ngày càng có mối liên hệ mật thiết với nhau hơn. Thông qua các dịch vụ mới tạo nên nhiều lợi ích hơn cho khách hàng khi sử dụng các dịch vụ này. Ngoài ra nó còn mang lại lợi ích nhiều hơn cho công ty bảo hiểm và các ngân hàng. Thông thường có 4 loại liên kết chính giữa ngân hàng và bảo hiểm mà chúng ta thường biết đến. 4.1. Mô hình công ty bảo hiểm trong các ngân hàng Công ty bảo hiểm trực thuộc ngân hàng đầu tiên ra đới tại Pháp vào những năm 80 của thế kỷ 20, công ty này kinh doanh về bảo hiểm nhân thọ. Đến đầu năm 1990 cũng tại Pháp, chúng ta chứng kiến thêm các công ty bảo hiểm của ngân hàng tham gia vào thị trường phi nhân thọ. Theo thống kê đến năm 2000 tại Pháp, các công ty bảo hiểm thuộc ngân hàng đã chiếm 61% thị phần phí thu. Sau đây là bảng các công ty bảo hiểm thành lập bới ngân hàng tại Pháp STT Năm thành lập công ty bảo hiểm Tên ngân hàng Tên công ty bảo hiểm trực thuộc 1 1971 Credit Mutuel ACM 2 1976 Paribas Cardif 3 1980 BNP Natio Vie 4 1982 Banque Populaire Fructive 5 1984 Bred Prevar Vie 6 1985 CIC Socapi 7 1985 Crédit Mutuel de Bretagane Suravenir 8 1986 CCF Erisa 9 1986 Crédit Predica 10 1986 Soiety General Sogacap 11 1988 Caises d’ Epargne Ecureuil Vie 12 1989 Cre’dit AFV 13 1990 Cre’dit Ảgicole Pacifia 14 1992 Barclay Bank Barclay Vie Ở Việt Nam cũng đã có nhiều ngân hàng thành lập công ty bảo hiểm riêng của mình như: ─ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam thành lập công ty bảo hiểm BIC. Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (tên viết tắt BIC) ra đời trên cơ sở chiến lược thành lập Tập đoàn tài chính mang thương hiệu BIDV thông qua việc BIDV mua lại phần vốn góp của Tập đoàn Bảo hiểm và Tái bảo hiểm QBE (Australia) trong Liên doanh Bảo hiểm Việt - Úc (là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, được thành lập và hoạt động tại Việt Nam từ năm 1999) và chính thức đi vào hoạt động với tên gọi mới kể từ ngày 01/01/2006. ─ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành lập Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp vào ngày 18/06/2006 với số vốn điều lệ là 160 tỷ đồng. ─ Ngân hàng Quân đội thành lập công ty bảo hiểm MIC. Công ty MIC chính thức đi vào hoạt động vào 12/2007 với số vốn điều lệ 300 tỷ đồng. Lợi thế của các ngân hàng khi thành lập các công ty bảo hiểm là trước đó họ đã tham gia phan phối sản phẩm bảo hiểm cho một số công ty bảo hiểm khác trên thị trường. Khi thành lập các công ty này kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm có kèm tính đầu tư, hoặc mang những đặc tính có thể khắc phục được tình trạng lãi suất thay đổi liên tục trên thị trường nhiều hơn. Lợi dụng hệ thống chi nhánh rộng khắp sẵn có, không cần thông qua kênh phân phối truyền thồng như các công ty bảo hiểm khác. Họ không vấp phải những hạn chế do ngân hàng tìm cách bảo vệ quyền lợi, do cơ sở dữ liệu mà các ngân hàng lưu trữ về khách hàng của họ luôn luôn rất lớn, và đây đều là những khách hàng có năng lực tài chính mạnh, ... Ngoài ra, với các thương vụ sẵn có, các công ty bảo hiểm trực thuộc ngân hàng rất dễ tạo ra các mối thiện cảm đối với sản phẩm bảo hiểm. Với uy tín sẵn có của mình, việc chiếm được lòng tin của khách hàng là việc không hề khó khăn. Hơn nữa họ có khả năng kết hợp các hình thức bảo hiểm vào các sản phẩm của ngân hàng, ví như kết hợp bảo hiểm tài sản vào cho vay thế chấp, hoặc bảo hiểm tín dụng vào cho vay tiền mua ô tô, nhà mới. Đặc biệt tại ngân hàng như Ngân hàng Quân đội, việc thành lập công ty bảo hiểm giúp họ giữa lại những hợp đồng xây dựng do chính các đơn vị quân đội thành viên nhận xây dựng. Mô hình này, ở hầu hết các quốc gia đều đã triển khai và đã chứng minh sự thành công với những ưu điểm của nó 4.2. Mô hình ngân hàng trong các công ty bảo hiểm Các công ty bảo hiểm lớn, có tiềm lực tài chiínhmạnh hạot động trên một phạm vi rộng, có nhiều chi nhánh, mạng lưới rộng khắp thường có xu hướng thành lậo các ngân hàng trực thuộc, và ngân hàng là một trong nhữn công ty thành viên của công ty bảo hiểm. Trong quy mô một tập đoàn tài chính, các ngân hàng sẽ hạch toán độc lập như các công ty con khác. Hoạt động của các ngân hàng này cũng hoàn toàn như các ngân hàng thương mại thông thường, nhưng trước hết nó ưu tiên phục vụ nhu cầu tín dụng, các dịch vụ thanh toán, ... cho bản thân tập đoàn bảo hiểm, sau đó hướng đến các khách hàng ngoài hệ thống. Mô hình này giúp tập trung các nguồn thanh toán nội bộ, với bên ngoài la tối ưu hoá kinh doanh và khả năng thanh khoản. Ngân hàng này sẽ giúp cho việc lưu thông tiền tệ trong các công ty thành viên diễn ra dễ dàng hơn. Ngoải ra, thông qua các tài khoản và các vụ thanh toán qua ngân hàn, tập đoàn sẽ có cái nhìn bao quát về các luồn thanh toán, họ có thể huy động tiền dễ dàng hơn chứ không để nằm chết tại bất kỳ một công ty con nào. Các sản phẩm bảo hiểm khai thác qua ngân hàng thành viên cũng có những lợi thế hơn hẳn. Việc tập huấn, nâng cao khả năng về khai thác bảo hiểm cho nhân viên trong ngân hàng được thực hiện thuận lợi hơn. việc thiết kế các sản phẩm Bancassurance cũng đảm bảo được lợi ích cao nhất cho các bên một cách nhanh chóng nhất. Tại Việt Nam có Tập đoàn Bảo Việt đã được Bộ tài chính ký xác nhận thành lập Ngân hàng Bảo Việt. Ngân hàng đang trong quá trình tuyển nhân sự và hoàn thiện bộ máy, dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong quý 2/2008. 4.3. Ngân hàng và bảo hiểm hợp tác thành lập công ty liên doanh Công ty liên doanh là công ty mà cả ngân hàng và bảo hiểm đều phải góp vốn và chia sẻ trách nhiệm quản lý. Mô hình này chiếm 17% trong các loại hinh liên kết ngân hàng và bảo hiểm. Với hình thức liên doanh này, các ngân hàng và các công ty bảo hiểm ngoài các điều khoản ràng buộc về vốn góp, còn cần những thoả thuận cụ thể hơn trong việc cung cấp các thông tin có lợi cho liên doanh, như thông tin về khách hàng của ngân hàng, về các mạng lưới phân phối của ngân hàng, hoặc những thông tin về sản phẩm bảo hiểm, thị trường bảo hiểm mà công ty bảo hiểm nắm rõ... Mô hình này xuất hiện đầu tiên tại châu Mỹ La Tinh. 4.4. Ngân hàng và bảo hiểm hợp tác phát triển các sản phẩm và dịch vụ liên kết Đây là hình thức sơ khai nhất trong mối quan hệ giữa ngân hàng và bảo hiểm. Mô hình này hiện nay vẫn chiếm 69% tổng các hình thức liên kết. Mô hình này, như tên gọi của nó phần lớn tập trung vào thiết kế sản phẩm, mở rộng, cải thiện các kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm. Đây được coi là kênh phân phối hiện đại và hiệu quả hơn so với kênh phân phối truyền thống là đại lý bảo hiểm. Theo đây, ngân hàng sẽ ký một thoả thuận với công ty bảo hiểm, theo đó sẽ cam kết các điều khoản liên quan đến công ty bảo hiểm có quyền sử dụng các mạng lưới của ngân hàng như thế nào, các hệ thống máy phục vụ giao dich ra sao... hợp tác ở mức độ nào để đưa ra các sản phẩm bảo hiểm mang đặc trưng của cả hai lĩnh vực. Trên đây là những mô hình hợp tác phổ biến nhất hiện nay. Việc áp dụng từng loại mô hình phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Như tình hình kinh tế mỗi nước, phong tục, phong cách làm ăn, môi trường văn hoá và pháp luật của mỗi nước. Mô hình phù hợp sẽ tạo điều kiện hợp lý hoá chi phí và cải thiện hiệu quả hoạt động. 5. Sản phẩm Bancassurance 5.1. Vài nét về sản phẩm Bancassurance Sản phẩm của Bancassurance được đề cập ở đây là các sản phẩm do công ty bảo hiểm thiết kế, hoặc là các sản phẩm do bảo hiểm kết hợp với ngân hàng thiết kế trên cơ sở hợp tác giữa ngân hàng và công ty bảo hiẻm. Và đặc biệt tất cả đều được bán qua mạng lưới các chi nhánh của ngâ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12777.doc
Tài liệu liên quan