Chuyên đề Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và giải pháp hoàn thiện

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU

CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Quá trình triển khai Luật Thuế GTGT với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. 3

1.2. Thực trạng công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp theo quy trình quản lý thuế. 10

1.2.1 - Tác động của Quy trình quản lý thuế đối với Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 10

1.2.2 - Những mặt tồn tại của Luật Thuế GTGT và quy trình kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. 15

1.3. Công tác tổ chức Bộ máy quản lý Thuế đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 19

1.4. Công tác kiểm tra việc chấp hành luật thuế của các doanh nghiệp thông qua quyết toán thuế. 20

1.5. Đánh giá công tác thanh tra thuế GTGT. 24

1.6. Về công tác kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp. 27

1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. 30

1.7.1 - Tác động của việc ban hành các văn bản pháp quy. 30

1.7.2 - Tác động của ý thức xã hội đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 32

CHƯƠNG II: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NGUỒN THU THUẾ GTGT TỪ CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

2.1. Những định hướng và quan điểm cơ bản về quản lí nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 35

2.2. Những giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội 39

2.2.1 - Xác định mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới. 39

2.2.2 - Hoàn thiện Quy trình quản lý thu thuế và tổ chức bộ máy. 41

2.2.3 - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế. 46

2.2.4 - Tăng cường công tác xử lý khiếu nại về thuế: 54

2.2.5 - Xây dựng hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế. 58

2.3. Kiến nghị đối với Nhà nước. 59

2.3.1 - Về đối tượng chịu thuế: 60

2.3.2 - Về thuế suất thuế GTGT. 60

2.3.3 - Về áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hoá đơn. 61

2.3.4 - Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào. 62

2.4.5 - Xác định chính xác doanh thu, chi phí để tính thuế 63

2.4.6 - Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp. 64

2.4.7 - Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 66

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc75 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
do đó nó cũng giúp cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT ngày càng chặt chẽ. Kiểm toán viên bên ngoài quan tâm đến sự đúng đắn của báo cáo tài chính, còn Kiểm toán viên nội bộ quan tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của các nghiệp vụ và khả năng có lãi của công ty. Việc kiểm tra của Cơ quan Thuế đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng giống như là việc kiểm tra của Kiểm toán viên bên ngoài. Do vậy việc kết hợp giữa Kiểm toán nội bộ và Cơ quan Thuế nhằm đảm bảo nội dung kiểm toán được đầy đủ, giảm thiểu công việc bị trùng lặp, giúp cho việc kiểm soát chặt chẽ nguồn thu ngay tại doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường tính tự giác của doanh nghiệp đối với việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong đó có việc chấp hành các Luật thuế. Vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ có vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm soát nguồn thu NSNN, đặc biệt là nguồn thu thuế GTGT. Về nguyên tắc, Bộ phận Kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp là bộ phận có thể trợ giúp hiệu quả nhất cho công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Bởi vì thuế GTGT bao trùm lên tất cả các giao dịch kinh tế về mua, bán hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp, và do vậy khối lượng công việc kiểm soát sẽ là vô cùng lớn. Vì vậy báo cáo kế toán sau khi đã được sự kiểm soát của Kiểm toán nội bộ sẽ giúp Cơ quan Thuế nắm chính xác được nguồn thu thuế phát sinh tại doanh nghiệp, nhất là nguồn thu từ thuế GTGT. Hơn nữa, Bộ phận Kiểm toán nội bộ nếu được thực hiện tốt còn mang ý nghĩa tích cực với doanh nghiệp là kịp thời có những kiến nghị về chính sách thuế, giúp cho Nhà nước nắm được những thông tin về tác động của thuế đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, do đó có những điều chỉnh kịp thời. Trên thực tế, khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp, các Cán bộ thuế vẫn làm việc trực tiếp với Kế toán trưởng doanh nghiệp. Theo pháp lệnh Kế toán - Thống kê, Kế toán trưởng có hai chức năng: chức năng tổ chức hạch toán kế toán các thông tin kế toán của doanh nghiệp và chức năng kiểm tra kiểm soát của cấp trên đặt tại doanh nghiệp. Hai chức năng đối lập có tính chất chế ước lẫn nhau cùng được đặt vào một con người (Kế toán trưởng) đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc thao túng thông tin, phản ánh sai lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 về việc ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ để thực hiện việc kiểm tra, xác nhận và đánh giá một cách độc lập, khách quan các thông tin trong nội bộ doanh nghiệp, nhưng trên thực tế, rất ít doanh nghiệp tổ chức một cách nghiêm chỉnh Bộ phận Kiểm toán nội bộ theo đúng yêu cầu đặt ra. Trước hết phải kể đến là sự nhận thức không đầy đủ của Giám đốc, Kế toán trưởng cũng như các tổ chức Đảng, Công đoàn về vai trò của kiểm toán nội bộ, thậm chí thái độ và cung cách quản lý của Giám đốc hoặc Hội đồng quản trị có chi phối rất lớn đến việc định hình Bộ phận Kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp. Bộ máy kiểm toán nội bộ thành lập ra ở đơn vị chỉ mang tính hình thức. Nhiều người làm nhiệm vụ kiểm soát có trình độ chuyên môn thấp, thậm chí có một số người được giao nhiệm vụ dựa trên một cơ sở duy nhất là đạo đức. Trong tình hình quốc nạn tham nhũng đang gia tăng hiện nay, cá biệt có một số doanh nghiệp sử dụng Kiểm toán nội bộ làm công cụ nhằm “làm sạch” chứng từ để đối phó với Cơ quan Thuế. Tiếp theo, đó là sự quản lý và hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Hiện nay Bộ Tài chính mới ban hành Quyết định số 832/TC-QĐ/CĐKT ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng đây mới chỉ là giải pháp mang tính tình thế trước thực trạng và nhu cầu kiểm soát nội bộ của các doanh nghiệp, các Tổ chức kinh tế Nhà nước. Và vì Bộ Tài chính vừa là cơ quan quản lý, giám sát các hoạt động tài chính của doanh nghiệp nên việc Bộ Tài chính ban hành và quản lý các chuẩn mực kiểm toán nội bộ là vi phạm nguyên tắc cơ bản nhất của kiểm toán là tính độc lập. Vì những ý kiến trên, và vì sự đòi hỏi của công tác quản lý Nhà nước, hy vọng rằng trong thời gian tới các Luật Kế toán, Luật Kiểm toán ra đời sẽ đặt nền móng một cách vững chắc cho công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp được triển khai thực hiện. Những vấn đề trên hiện đã và đang ảnh hưởng rất lớn tới những chuẩn mực chuyên môn của kiểm toán nội bộ, đó là tính độc lập, phạm vi công việc cũng như khả năng chuyên môn, từ đó làm sai lệch các thông tin mà chính ra phản ánh đúng thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng đáng kể theo chiều hướng tiêu cực đến kiểm soát thu thuế GTGT. 1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. 1.7.1 - Tác động của việc ban hành các văn bản pháp quy. Để đưa Thuế GTGT trở thành một công cụ có tính khoa học, chuyên môn hoá của quản lý Nhà nước, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế GTGT. Luật Thuế GTGT từ khi mới được thực hiện đã thể hiện rõ tính ưu việt so với Luật Thuế doanh thu trước đây, tạo điều kiện thuận lợi để Thuế GTGT đi vào cuộc sống. Đây là thành công cơ bản của Luật Thuế GTGT. Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện có nhiều vướng mắc từ phía các doanh nghiệp, do vậy UBTVQH, Chính phủ và Bộ Tài chính đã phải ban hành nhiều văn bản dưới Luật để chỉnh sửa, bổ sung. Việc chỉnh sửa, bổ sung này ít nhiều đã làm xói mòn tính trung lập của Thuế GTGT và làm cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT gặp nhiều trở ngại. Trở ngại lớn nhất phải nói đến ở đây là việc ban hành quá nhiều văn bản pháp quy. Tính đến nay, UBTVQH đã thông qua 2 Nghị quyết, Chính phủ đã ban hành 3 Nghị định, Bộ Tài chính ban hành 27 Thông tư khác nhau hướng dẫn trong 2 năm triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT. Việc ban hành chỉnh sửa, bổ sung quá nhiều nội dung thực hiện Luật Thuế GTGT có thể tháo gỡ cho một bộ phận doanh nghiệp này nhưng lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp khác. Làm cho các doanh nghiệp khác không nắm bắt kịp thời để thực hiện tốt. Bên cạnh đó, các nội dung được chỉnh sửa, thay đổi lại tập trung chủ yếu vào các vấn đề là thuế suất và diện được hưởng thuế suất ưu đãi. Do vậy, ít nhiều việc ban hành các văn bản pháp quy đã làm mất tính trung lập, mất tính công bằng của Luật thuế đối với các thành phần kinh tế khác nhau, các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT, việc quy định quá nhiều mức thuế suất, nhiều tỉ lệ khấu trừ khác nhau đã làm cho việc thực hiện trở nên khó khăn hơn. Cán bộ thuế phải đối chiếu trên nhiều loại hàng hoá khác nhau để xác định đúng mức thuế suất, đúng tỉ lệ khấu trừ. Bên cạnh đó, hàng hoá với công dụng khác nhau khiến Cán bộ thuế lúng túng khi tính thuế. Trên khía cạnh pháp luật, một trở ngại nữa là cho đến nay, Cơ quan Thuế vẫn chưa được giao quyền điều tra, khởi tố các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng Luật thuế. Điều này làm giảm quyền lực của Cơ quan Thuế trong việc thực thi Pháp luật thuế, làm giảm hiệu quả của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Mặt khác, cũng làm cho người dân và giới doanh nghiệp có cảm giác bị áp đặt khi chịu sự kiểm soát của Cơ quan Thuế. Ngoài ra, như đã trình bày ở những phần trước, ở tất cả các khâu của Quy trình quản lý thu thuế, từ xác định đối tượng chịu thuế, thuế suất để tính thuế đến khấu trừ thuế, hoàn thuế và cuối cùng là thanh tra, kiểm tra thuế, các quy định của Nhà nước vừa thiếu lại vừa thừa, làm cho kiểm soát thu thuế GTGT gặp nhiều trở ngại. Tất cả những điều đó đã làm giảm hiệu quả của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT và việc thực hiện động viên nguồn thu thuế GTGT vào NSNN không đạt được mục tiêu ban đầu đã đề ra là động viên 19-20% GDP vào NSNN. 1.7.2 - Tác động của ý thức xã hội đối với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Chuyển từ thực hiện Thuế doanh thu sang Thuế GTGT là một bước tiến cơ bản của chính sách thuế, có tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Nhà nước đã có nhiều biện pháp tuyên truyền cho nhân dân và các doanh nghiệp nhưng dường như nhân dân ta vẫn chưa chuẩn bị một cách đầy đủ để đón nhận chính sách Thuế GTGT. Việc thực hiện Luật Thuế GTGT đòi hỏi nhân dân ta phải thay đổi một thói quen trong tiêu dùng từ trước tới nay là khi chi tiêu chỉ quan tâm đến số tiền phải thanh toán mà không quan tâm đến số tiền thuế phải chịu. Thực chất Thuế GTGT là loại thuế gián thu, thuế do người tiêu dùng chịu còn các doanh nghiệp chỉ thu hộ, trả hộ số thuế cho Nhà nước. Song cho đến thời điểm này, nhân dân ta đại bộ phận vẫn chưa ý thức được bản thân họ là người chịu thuế GTGT khi mua bất cứ một hàng hoá, dịch vụ nào. Do vậy, khi thực hiện triển khai Luật Thuế GTGT, nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng tăng giá hàng hoá, dịch vụ mà người dân vẫn cho là do thuế GTGT có thuế suất cao hơn thuế doanh thu khiến họ phải chịu giá bán cao hơn gây khó khăn cho kiểm soát thu thuế. Một khi người dân còn chưa ý thức được chính họ là người chịu thuế GTGT thì các mục tiêu đặt ra để quản lý thu thuế GTGT sẽ không thể thực hiện được. Đối với giới doanh nghiệp thì một trong những yêu cầu khi thực hiện Luật Thuế GTGT là phải thực hiện tốt Pháp lệnh Kế toán - Thống kê. Sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ phải được ghi chép, lưu giữ đầy đủ, hạch toán chính xác. Tuy vậy, trên thực tế các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm một cách đầy đủ vấn đề này. Một số doanh nghiệp do không cạnh tranh được với tư thương (trong ngành Thương mại) đã mua hàng ngoài thị trường, mua của người buôn chuyến, mua của người sản xuất nhỏ không có hoá đơn chứng từ nghiêm chỉnh, việc hạch toán chỉ là hình thức, các số liệu doanh thu, chi phí nhiều khi chỉ là những chứng từ viết tay, điều đó sẽ dẫn tới tình trạng phản ánh chi phí không trung thực, ảnh hưởng đến số thuế phải nộp của doanh nghiệp. Vấn đề này hiện nay vẫn đang là một trở ngại trong việc kiểm tra, thanh tra thuế tại các doanh nghiệp. Xét về gốc rễ của vấn đề, trong quản lý Nhà nước dường như trốn thuế và tránh thuế là những vấn nạn, là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế. Các doanh nghiệp luôn tìm những kẽ hở của Luật thể để lách Luật, tránh thuế. Trong quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT có sự sửa đổi thuế suất một số ngành nghề. Chẳng hạn như ngành Xây dựng cơ bản, trước tháng 9/1999 thì phải chịu thuế suất 10% nhưng sau thời điểm đó thuế suất chỉ có 5%. Một số doanh nghiệp lợi dụng điểm này, thoả thuận với bên chủ đầu tư để kéo dài thời gian quyết toán công trình nhằm giảm thuế đầu ra, từ đó giảm thuế GTGT phải nộp. Trong quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT, nhiều thủ đoạn tránh thuế ngày càng tinh vi cùng xuất hiện với sự triển khai Luật thuế của ngành Thuế. Để ngăn chặn các hiện tượng trốn thuế, tránh thuế thì chỉ có một hệ thống Luật thuế đầy đủ, chặt chẽ cùng với bộ máy thực thi đủ quyền lực, với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi mới có thể thực hiện được. Tóm lại, trong 2 năm thực hiện Luật Thuế GTGT, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đã được thực hiện tương đối tốt và thu được kết quả cao, trong đó thành công nhất là đã đưa Luật Thuế GTGT được triển khai vào đời sống kinh tế - xã hội của Thủ đô. Việc thực hiện Luật Thuế GTGT đã góp phần khuyến khích sản xuất, kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp, đặc biệt là thúc đẩy kinh ngạch xuất khẩu tăng trưởng lớn, các doanh nghiệp đã có thói quen tính toán hiệu quả kinh tế và thực hiện chế độ kế toán nghiêm túc theo Luật Thuế GTGT. Bên cạnh đó, kiểm soát thu thuế GTGT thông qua Quy trình quản lý thu thuế mới cũng đã được cải cách đáng kể, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cũng như trách nhiệm của Cơ quan Thuế. Tuy vậy, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội vẫn chưa được thực hiện tốt, chưa bao quát hết các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp nhất là các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh. Trong các khâu của Quy trình quản lý thu thuế: kê khai thuế, khấu trừ thuế, quyết toán thuế...còn nhiều vướng mắc, từ đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế cho đến thuế suất, do đó gây trở ngại cho kiểm soát thuế. Mặt khác, các quy định xử phạt các hiện tượng trốn thuế, tránh thuế, sử dụng hoá đơn chứng từ bất hợp pháp hiện nay vẫn chưa tạo điều kiện cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Ngoài ra, công tác kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp hiện nay còn rất yếu, chưa trở thành công cụ hiệu quả trợ giúp cho công tác quản lý thu thuế của Nhà nước. Tất cả những vấn đề trên cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Chương II định hướng và Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội 2.1. Những định hướng và quan điểm cơ bản về quản lí nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Thuế GTGT hiện là nguồn thu lớn của NSNN. Hơn nữa thuế GTGT còn là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, có tác dụng rộng lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vì sự kiểm soát nguồn thu thuế GTGT còn chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa bao quát hết các đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế cũng như các giao dịch kinh tế trong nền kinh tế, do vậy cần phải tăng cường kiểm soát nguồn thu từ thuế GTGT. Song kiểm soát có nhiệm vụ tuân thủ các mục tiêu của quản lý Nhà nước cũng như định hướng phát triển, nuôi dưỡng các nguồn thu, vì vậy trước hết, theo tác giả, việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải xuất phát từ những định hướng, những quan điểm cơ bản về quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp trong thời gian tới. Trong giai đoạn 2001 -2010, kinh tế trở thành lĩnh vực trung tâm, chi phối mọi hoạt động trong xã hội. Xu hướng hình thành nền kinh tế tri thức ngày càng bộc lộ rõ nét, làm thay đổi cơ bản về phương thức làm việc và quản lý truyền thống. Hội nhập quốc tế sẽ diễn ra mạnh mẽ cả về bề rộng và chiều sâu, cuộc cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ trở nên gay gắt, nhất là sau năm 2006 khi phải tuân thủ các cam kết quốc tế. Chính sách tài chính - tiền tệ trở thành công cụ chủ chốt điều tiết vĩ mô nền kinh tế, một phần do bản chất kinh tế của các công cụ của chính sách tài chính - tiền tệ như thuế, chi tiêu NSNN, lãi suất, tỉ giá...Trong nền kinh tế thị trường, một phần do xu hướng thay đổi chức năng và nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước từ sử dụng những công cụ trực tiếp sang gián tiếp, từ can thiệp sâu và rộng sang nới lỏng sự can thiệp. Trong bối cảnh đó, thuế trở thành công cụ quan trọng trong quản lý Nhà nước, khối lượng đối tượng quản lý thuế tăng, phương thức quản lý thuế cũng thay đổi cho phù hợp với sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Quan điểm cơ bản của chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2001 - 2010 là tiếp tục hoàn thiện các mục tiêu của cải cách thuế bước II. Việc động viên qua thuế và phí vào NSNN phải vừa giải quyết hài hoà về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và Xã hội, vừa bảo đảm nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ an ninh, quốc phòng. Với quan điểm cơ bản đó, mục tiêu yêu cầu của cải cách thuế trong giai đoạn 2001 - 2010 là: Thứ nhất - Thuế bảo đảm nguồn thu vững chắc cho NSNN để đáp ứng đầy đủ nhu cầu chi thường xuyên và phần cơ bản của chi đầu tư thuộc NSNN. Thuế và Phí là nguồn thu chủ yếu của NSNN, mức huy động chiếm từ 20% đến 21% GDP. Thứ hai - Thuế góp phần điều chỉnh các cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu, phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại để tăng khối lượng sản phẩm nông nghiệp, khuyến khích hoạt động chế biến nông sản để sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành có lợi thế, giải quyết nhiều lao động, các vùng trọng điểm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thứ ba - Chính sách thuế bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm tính rõ ràng, ổn định. Thứ tư - Chính sách thuế bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Thứ năm - Cải cách thuế phải nâng cao năng lực Bộ máy quản lý Thuế và hoàn thiện thủ tục hành chính thuế cho phù hợp với các yêu cầu của xã hội nhằm tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế. Quá trình thực hiện các mục tiêu này sẽ làm cơ cấu thuế nước ta thay đổi theo chiều hướng: - Thuế nhập khẩu giảm dần tỉ trọng trong tổng nguồn thu NSNN và không còn là nguồn thu lớn nhất trong NSNN. - Thuế GTGT và Thuế TNDN trở thành 2 loại thuế đóng góp nhiều nhất trong NSNN, chiếm khoảng 50% tổng thu từ thuế. - Thuế thu nhập cá nhân giữ một vị trí ngày càng quan trọng, góp phần nhiều hơn vào quá trình điều hoà thu nhập xã hội. - Tỷ trọng các sắc thuế khác biến động không đáng kể trong tổng nguồn thu NSNN. Theo tiến trình Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, đến năm 2006 Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc thực hiện cắt giảm thuế quan (CEPT) để gia nhập đầy đủ về Thương mại với các nước ASEAN. Khi đó thuế suất thuế nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu chỉ còn tối đa là 5%; Việt Nam tiếp tục mở rộng và tham gia hội nhập với khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn này, các ngành dịch vụ sẽ phát triển, đầu tư nước ngoài tăng, đặc biệt là các ngành sản xuất, chế biến, chế tạo...Tổng sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20% -25% trên tổng GDP, lao động trong ngành này chỉ chiếm 55-60% tổng lao động toàn xã hội. Vì vậy, mục tiêu cụ thể của chính sách thuế GTGT trong giai đoạn này là: * Về mặt tài chính Ngân sách. Thu về thuế GTGT là nguồn thu quan trọng của NSNN. Do đó thuế GTGT phải hình thành một nguồn thu tập trung, ổn định, đem lại số thu quan trọng cho NSNN. Số thuế GTGT thu được ngày càng tăng qua các năm cả về tỉ trọng trong tổng số thuế gián thu nói riêng và thu NSNN nói chung để bảo đảm phù hợp với tình hình cắt giảm thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập. * Về mặt kinh tế. Chính sách thuế GTGT phải bảo đảm mức động viên hợp lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, có tác dụng khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế phải tăng cường chế độ hạch toán kinh tế tại các doanh nghiệp, buộc tất cả các cơ sở kinh doanh phải tuân thủ đúng tiêu chuẩn định mức, triệt để thực hành tiết kiệm, nhằm giảm tối đa giá thành của hàng hoá tiêu thụ. Bên cạnh đó, chính sách thuế cũng hỗ trợ thiết thực hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào kinh doanh, khuyến khích sáng kiến cải tiến kỹ thuật, từng bước nâng dần chất lượng của hàng hoá sản xuất trong nước. Thuế GTGT phải phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi năng lực sản xuất, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng về động viên đóng góp thuế, thúc đẩy việc tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, chuyển mạnh các doanh nghiệp sang hạch toán kinh doanh, cổ phần hoá các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế. Việc áp dụng thuế GTGT phải gắn với cải cách hệ thống thuế hiện hành ở nước ta, tạo thành một cơ cấu thuế hợp lý có tính tương đồng với hệ thống thuế tiên tiến của thế giới tạo tiền đề thực hiện điều chỉnh thu NSNN bằng hệ thống thuế hữu hiệu phù hợp với cơ chế thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. * Về mặt xã hội. Thuế GTGT phải góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng giữa các doanh nghiệp, giữa các đối tượng nộp thuế. Mặt khác, thuế cũng phải bảo đảm tính trung lập, thực sự là một công cụ sắc bén để quản lý nền kinh tế vĩ mô. Với chính sách thuế GTGT phải tạo được lòng tin của mọi tầng lớp, mọi thành phần kinh tế trong xã hội vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. * Về mặt nghiệp vụ. Thuế GTGT phải được sửa đổi để tiến tới đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, các văn bản phải bảo đảm tính nghiêm minh, tính khách quan, tính chặt chẽ, không chồng chéo, không gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện. Chính sách thuế phải bảo đảm việc quản lý thu thuế chặt chẽ, chống trốn lậu thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế của ngành Thuế với doanh nghiệp và các đối tượng nộp thuế. 2.2. Những giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội 2.2.1 - Xác định mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới. Thực chất của kiểm soát thu thuế nói chung, thu thuế GTGT nói riêng là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế (chủ yếu là ngành Thuế) với các đối tượng nộp thuế - các doanh nghiệp nhằm đặt các mục tiêu của quản lý thu thuế. Do vậy, giải pháp trước tiên cần phải nhằm giải quyết tận gốc mối quan hệ giữa Cơ quan Thuế với các doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, phải xác định được mô hình quản lý thu thuế trong giai đoạn tới. Qua 2 năm thực hiện Luật Thuế GTGT, mô hình quản lý thu thuế theo phương thức doanh nghiệp tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp tiền thuế vào Kho bạc Nhà nước về cơ bản đã thể hiện được đặc tính ưu việt của nó. Theo mô hình này, doanh nghiệp đã tự ý thức được nghĩa vụ của mình với Nhà nước, đã nâng cao được sự tự giác, tự nguyện. Mô hình này còn thể hiện được tính pháp lý của việc nộp thuế, theo đó doanh nghiệp không kê khai và nộp thuế cũng đồng nghĩa với việc vi phạm Pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy, trong giai đoạn tới, theo tác giả vẫn thực hiện theo mô hình doanh nghiệp tự tính, tự kê khai và nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Tuy vậy, chúng ta cần hoàn thiện mô hình này để kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thực sự đạt được hiệu quả cao. Mục tiêu của nghiệp vụ quản lý thuế trong giai đoạn tới là: thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện các quy định về thuế của đối tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế và công tác thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện tự động hoá công tác xử lý thông tin thuế, phát hiện nhanh các trường hợp vi phạm về thuế nhằm hạn chế tình trạng trốn thuế, bảo đảm tăng thu cho NSNN. Với mục tiêu trên, phương hướng hoàn thiện mô hình này thể hiện chủ yếu trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện việc tự tính, tự kê khai thuế và tự nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Thứ hai, việc nộp thuế phải được xác nhận của Kho bạc Nhà nước. Đồng thời hệ thống Kho bạc phải có sự thông tin liên tục và cập nhật hàng ngày với Cơ quan Thuế để xác định số thuế phải nộp, số thuế đã nộp của các đối tượng nộp thuế. Thứ ba, Bộ phận xử lý tờ khai, chứng từ thanh toán thuế của Cơ quan Thuế, nhập tờ khai thuế và chứng từ thanh toán thuế để phát hiện các trường hợp không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát hành thông báo nhắc nhở và cung cấp thông tin cho Bộ phận Thanh tra thuế, Cưỡng chế thuế. Thứ tư là xử lý các vi phạm về thuế. Bộ phận Thanh tra thuế lựa chọn các đối tượng có hiện tượng nghi vấn để thực hiện thanh tra, kiểm tra và tiến hành xử lý các hành vi vi phạm về thuế. Bộ phận Cưỡng chế thuế sẽ thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với những doanh nghiệp cố tình không nộp thuế, trốn thuế. Mô hình này đòi hỏi phải có sự phối, kết hợp giữa 3 bộ phận cấu thành là Cơ quan Thuế, Kho bạc và Đối tượng nộp thuế. Trong đó, Cơ quan Thuế là người chịu trách nhiệm trực tiếp với Nhà nước và do vậy phải được nâng cao quyền tự chủ, tự quyết theo quy định của pháp luật. Cơ quan Thuế và Kho bạc Nhà nước qua Quy trình quản lý thu thuế sẽ phát hiện những vi phạm Luật thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra phải được tăng cường. những vi phạm của đối tượng nộp thuế sẽ được xử lý nghiêm minh bằng một hệ thống Luật và văn bản dưới Luật đầy đủ và chặt chẽ. 2.2.2 - Hoàn thiện Quy trình quản lý thu thuế và tổ chức bộ máy. 2.2.2.1- Hoàn thiện Quy trình quản lý thu thuế. Như phần trước đã trình bày, Quy trình quản lý thu thuế hiện nay có những thủ tục rườm rà, chưa loại bỏ hoàn toàn tình trạng cán bộ chuyên quản thuế và việc ra Thông báo thuế có nhiều vướng mắc. Do vậy, theo tác giả, cần hoàn thiện Quy trình quản lý thu thuế theo hướng như sau: Thứ nhất, là cần xoá bỏ triệt để chế độ chuyên quản thuế. Xoá bỏ chế độ chuyên quản thuế sẽ hạn chế thấp nhất tình trạng tiêu cực, thông đồng của Cán bộ thuế với doanh nghiệp trong việc trốn thuế, tránh thuế. Tuy vậy, khi xoá bỏ chế độ chuyên quản thuế sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Trong đó, ngành Thuế sẽ có thể không nắm được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp để khai thác triệt để các nguồn thu cũng như giải quyết không thoả đáng những thắc mắc, khiếu nại về thuế của doanh nghiệp. Do vậy, khi xoá bỏ hoàn toàn chế độ chuyên quản thuế cũng phải kết hợp với biện pháp khác là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, mặt khác trên góc độ pháp luật, ngành Thuế cần thành lập bộ phận độc lập để giải quyết những khiếu nại về thuế của đối tượng nộp thuế. Thứ hai, là xoá bỏ chế độ ra Thông báo thuế của Cơ quan Thuế. Việc xoá bỏ Thông báo thuế không có nghĩa là làm giảm tính bắt buộc, tính pháp lý của việc nộp thuế, trái lại nó khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế. Mặt khác, bãi bỏ chế độ ra Thông báo thuế còn làm giảm chi phí, nguồn lực cho Cơ quan Thuế. Thứ ba, bên cạnh việc xoá bỏ Thông báo thuế, ngành Thuế cần kết hợp cơ chế kê khai thuế đồng thời với việc thanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc18006.DOC
Tài liệu liên quan