MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 3
I. Lao động và vai trò của lao động 3
1. Khái niệm về nguồn lao động 3
2. Lao động nông nghiệp nông thôn 3
3. Vai trò của lao động trong sản xuất 4
4. Đặc điểm của lao động nông nghiệp nông thôn 4
II. Lao động nông thôn trong lĩnh vực nông nghiệp 5
1. Lao động sản xuất nông nghiệp 5
2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 5
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến lao động nông nghiệp nông thôn 7
1. Cung, cầu lao động nông nghiệp nông thôn 7
2. Các chính sách về lao động nông nghiệp nông thôn 9
3. Các yếu tố khách quan. 14
4. Tác động của CNH – HĐH đến lao động nông nghiệp nông thôn 15
IV. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu lao động nông nghiệp nông thôn 17
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN HIỆN NAY TẠI TỈNH BẮC NINH 18
I. Giới thiệu chung về tỉnh Bắc Ninh 18
1. Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng 18
2. Dân số và nguồn lao động 19
II. Các chính sách của nhà nước và lãnh đạo tỉnh về lao động nông nghiệp nông thôn 20
1. Chính sách đất đai của Bắc Ninh 20
2. Chính sách hỗ trợ vốn và công nghệ 23
3. Chính sách hỗ trợ thi trường đầu ra 25
4. Chính sách khuyến khích phát triển các loại hình ngành nghề nông nghiệp nông thôn 26
5. Chính sách đào tạo nghề 28
6. Chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp 30
III. Định hướng của nhà nước và địa phương về vấn đề lao động nông nghiệp nông thôn hiện nay 32
1. Định hướng về quy hoạch sử dụng đất đai 32
2. Định hướng về giải quyết việc làm và lao động. 33
3. Định hướng về các chương trình hỗ trợ và khuyến khích sản xuất 33
IV. Thực trạng lao động nông nghiệp nông thôn tại tỉnh từ 2000 đến nay 34
1. Thực trạng nguồn lao động của tỉnh 34
1.1. Số lượng và chất lượng của lao động nông nghiệp nông thôn từ 2000 đến nay 34
1.2 Đóng góp của lao động vào tăng trưởng và phát triển kinh tế trong tỉnh. 39
2. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn 43
3. Tình hình thu nhập và việc làm của người lao động và của các hộ sản xuất nông nghiệp 50
4. Các chương trình tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh trong tỉnh đã làm được và vẫn còn chưa hiệu quả 52
5. Bản thân người lao động nông nghiệp nông thôn cũng có trình độ ngày càng tăng lên, nhưng tốc độ và tỷ lệ lao động có trình độ tăng lên rất chậm. 53
6. Tác động của các nhân tố khách quan 54
7. Tác động của quá trình CNH – HĐH của tỉnh 54
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG TỒN TẠI 56
1. Giải pháp về chính sách của nhà nước 56
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp về xúc tiến việc làm, công tác tuyển dụng lao động nông nghiệp nông thôn vào sản xuất 58
3. Giải pháp cho bản thân người lao động 60
4. Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động 62
KẾT LUẬN 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 66
69 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3017 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng lao động nông nghiệp nông thôn hiện nay tại tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỗ trợ 50% giá giống cho một lần đầu. Cùng với việc tạo điều kiện cho vay vốn ưu đãi từ nhiều nguồn tài chính, tỉnh cấp miễn phí các loại vắc xin cho nhu cầu phòng trừ dịch bệnh. Tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí xây dựng chuồng trại chăn nuôi tập trung ngoài khu dân cư với những dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt có quy mô diện tích từ 2ha và 10 hộ chăn nuôi trở lên.
Chương trình phòng chống dịch gia súc gia cầm, ngày càng được chú trọng. Trong những năm gần đây các chương trình phòng chống dịch gia súc gia cầm chủ yếu là tập trung vào các chương trình phòng chống bệnh lở mồm long móng ở gia súc và dịch cúm ở gia cầm, bệnh rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn… Hiện nay chương trình phòng chống dịch đã ngày càng được chú trọng vì dịch bệnh nếu xảy ra sẽ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của các hộ chăn nuôi mà còn ảnh hưởng đến người tiêu dùng và nhân dân sống trong vùng dịch.
Chương trình bảo vệ thực vật, thực hiện các chương trình: Phòng trừ dịch hại tổng hợp, tập huấn dịch hại sâu bệnh, khảo sát thực nghiệm bệnh hại cây trồng, thanh tra quản lý thuốc và kiểm dịch. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ thú y… và phổ biến chế độ và các pháp lệnh về chăn nuôi cho các hộ chăn nuôi.
Về thủy sản: Đối với việc chuyển dịch vùng trũng sang nuôi trồng thủy sản, tỉnh khuyến khích các địa phương chuyển những vùng gieo cấy lúa hiệu quả thấp sang quy hoạch, phát triển các mô hình kinh tế trang trại và nếu có các dự án khả thi, các đối tượng sẽ được hưởng các mức 100% kinh phí cho điều tra, khảo sát, thiết kế, quy hoạch, hỗ trợ 100% kinh phí cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 100% kinh phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu cống, trạm bơm cục bộ, đường điện, trạm điện. Các hộ dân có diện tích sử dụng trong vùng dự án từ 2000 mét vuông trở lên được chính quyền cơ sở cho phép xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu cống, trạm bơm cục bộ. đường điện, trạm điện. Các hộ dân có diện tích sử dụng trong vùng dự án từ 2000 mét vuông trở lên được chính quyền cơ sở cho phép xây dựng nhà bảo vệ không kiên cố trên diện tích được giao và được tỉnh hỗ trợ toàn bộ lệ phí chuyển đổi ruộng đất. Khi xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh, các tổ chức và cá nhân được ngân sách tỉnh hỗ trợ giá giống với mức như hỗ trợ giá giống đối với các loại cây trồng mới, cây trồng có giá trị cao. Ngoài ra, tỉnh còn có các chính sách ưu đãi, khuyến khích các hoạt động thu mua, tiêu thụ nông sản, thực phẩm, hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng, trợ giá chênh lệch trong những thời điểm hàng hóa trên thị trường biến động mà giá mua thấp hơn với giá khi kí kết hợp đồng… để tạo điều kiện cho các đối tượng thu mua giúp dân yên tâm, phát triển sản xuất.
Tỉnh cũng có các khoản chi tiêu dành cho công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, khuyến nông, xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, kiểm soát dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, tư vấn sản xuất nông nghiệp…
Chính sách hỗ trợ thi trường đầu ra
Nhằm hỗ trợ thị trường đầu ra cho nông dân, lúc được mùa nhà nước cũng có những chương trình thu mua nông sản cho nông dân khi được mùa tránh trường hợp giá nông sản bị quá hạ thấp số nông sản này sẽ được đưa vào quỹ dự trữ lương thực quốc gia, và bán các nông sản này ra thị trường khi nông dân mất mùa. Các kho lạnh lớn được hình thành để giữ cho nông sản đảm bảo chất lượng của nông sản. Các ưu đãi và khuyến khích các hoạt động tiêu thụ nông sản thực phẩm mà tỉnh thực hiện: Các đơn vị kinh tế và cá nhân có hợp đồng tiêu thụ nông sản, thực phẩm cho các HTX nông nghiệp, các hộ nông dân theo phương hướng ứng trước vốn, nếu thực hiện đúng hợp đồng, sẽ được hỗ trợ như sau: Ngân sách tỉnh hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng cho toàn bộ số tiền vay để ứng trước theo hợp đồng ( thời gian tính bằng thời gian hợp đồng ứng trước vốn theo chu kỳ sản xuất của cây, con nhưng tối đa không quá 6 tháng cho 1 lần).
Trong trường hợp giá nông sản, thực phẩm trên thị trường tại thời điểm mua thấp hơn so với giá khi ký hợp đồng, thì ngân sách tỉnh sẽ hỗ trợ 50% phần chênh lệch giá giữa giá khi ký hợp đồng với giá thị trường tại thời điểm mua.
Tuy nhiên, thực tế thì chính sách này của tỉnh vẫn chưa được thực hiện hiệu quả. Ở các chương trình hỗ trợ tiêu thụ nông sản thì người được hưởng lợi chủ yếu lại không phải là người nông dân. Khi các doanh nghiệp phá hợp đồng hoặc thôi không ký hợp đồng thì người nông dân lại không có định hướng trong sản xuất.
Mở rộng giao lưu với khu vực khác nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm nông nghiệp. Nhờ vị trí địa lý của Bắc Ninh thuận lợi nên việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp dễ dàng hơn. Bắc Ninh là tỉnh gần thủ đô Hà Nội nhất, vì vậy các sản phẩm nông sản, thực phẩm có thể vận chuyển dễ dàng và đến tiêu thụ tại Hà Nội. Nhưng hiện nay thị trường tiêu thụ lớn này vẫn chưa được khai thác thực sự hiệu quả.Vẫn còn tình trạng khi nông dân được mùa thì rớt giá và có khi thua lỗ, còn khi mất mùa thì không đủ lượng nông sản và thực phẩm. Điều này cũng là do kế hoạch sản xuất của người nông dân không phù hợp. Khi mất mùa thì giá nông sản thực phẩm tăng cao, nên sau đó họ lại tập trung vào sản xuất cùng loại nông sản, thực phẩm đó mà chưa nghĩ đến đầu ra, chưa nghĩ đến đối tượng cạnh tranh của mình. Dẫn đến khi được thu hoạch các nông sản, thực phẩm thì số lượng nông sản lại rất nhiều mà hầu hết các nông sản đó chưa thể tiêu thụ được hết ngay, chúng lại là thực phẩm nhanh hỏng. Và khi được mùa như vậy giá nông sản lại giảm có khi người nông dân không có lãi hoặc không đủ vốn. Vì vậy trong chính sách hỗ trợ thị trường đầu ra của nhà nước và chính quyền địa phương cần gắn với các chương trình tư vấn cho bà con nông dân về sản xuất và cơ cấu cây trồng hay vật nuôi… để tránh tình trạng sản xuất không có kế hoạch dẫn đến không hiệu quả và thua lỗ.
Sở dĩ thị trường Hà nội chưa được tỉnh khai thác hiệu quả là: bên cạnh Bắc Ninh có biên giới giáp Hà Nội thì cũng có một số tỉnh khác ở gần Hà nội và cũng thuộc Đồng bằng Sông Hồng, có những đặc điểm và địa lý, khí hậu, nguồn nước, đất đai… giống với Bắc Ninh. Vì vậy sản xuất nông nghiệp của tỉnh chịu sự cạnh tranh của các tỉnh này.
Chính sách khuyến khích phát triển các loại hình ngành nghề nông nghiệp nông thôn
- Kinh tế trang trại ở tỉnh cũng được khuyến khích phát triển.
Kinh tế trang trại của tỉnh cũng có lich sử phát triển từ lâu đời, song sự phát triển đó vẫn mang tính tự phát, và mô hình kinh tế trang trại chủ yếu của tỉnh là mô hình VAC ( vườn – ao – chuồng). Mô hình kinh tế trang trại ở các vùng chủ yếu là những mô hình phát triển không có quy hoạch, mang tính tự phát và sản xuất kinh doanh ở từng trang trại vẫn còn mang nặng dấu ấn của nền kinh tế tự cung, tự cấp, chưa thể hiện được rõ nét của mô hình sản xuất nông sản hàng hóa.
Vì vậy cấp ủy, chính quyền các cấp đã có những chỉ thị để chỉ đạo việc dồn điền đổi thửa đến theo kế hoạch từ nay đến năm 2020 nhằm khắc phục tình trạng manh mún trên ruộng đất, đồng ruộng. Các ngành chức năng, các huyện và từng xã, thôn cùng phối hợp triển khai việc rà soát quy hoạch sử dụng đất đai các loại, nhất là đất nông nghiệp.
Phát triển ngành nuôi trồng thủy sản
Nuôi trồng thủy sản được phát triển ở các vùng có diện tích mặt nước hoặc ở các vùng đồng trũng trồng lúa cho năng suất thấp thì cũng có thể chuyển sang nuôi trồng thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Theo mục tiêu của quy hoạch về sử dụng đất, tỉnh dự kiến trong giai đoạn 2006 – 2010 sẽ tổ chức cho đấu thầu một phần mặt nước chưa sử dụng và chuyển dịch khoảng 4,4 ngàn ha đất trũng sang nuôi thả cá, trong đó có 2.000ha lúa – cá. Mở rộng các mô hình thâm canh cá + cây ăn quả + vịt, ngan để đạt giá trị sản xuất 100 – 150 triệu đồng/ha. Phấn đấu đưa diện tích nuôi trồng thủy sản lên 6500ha vào năm 2010. Tuy nhiên, ngành thủy sản hiện nay vẫn chủ yếu phát triển chăn nuôi thủy sản ở những ao hồ nhỏ.
Các làng nghề của tỉnh cũng được khuyến khích phát triển
Bắc Ninh là tỉnh được mệnh danh là vùng đất trăm nghề, ở đây bao gồm các làng nghề như mây tre đan, các làng nghề như nghề gốm, đúc đồng, đồ gỗ mỹ nghệ, làng làm giấy… Các làng nghề là nơi thu hút rất nhiều lao động nông nghiệp nông thôn, vì các làng nghề thường đòi hỏi về trình độ chuyên môn của người lao động không cao những lao động ở nông thôn có thể đáp ứng được. Hơn nữa những làng nghề này mang lại hiệu quả kinh tế cao, ví dụ như làng nghề Đồng Kỵ mỗi năm giải quyết việc làm cho gần 12000 lao động, và đem lại doanh thu khoảng từ 270 – 300 tỷ đồng (tương đương thu ngân sách của một tỉnh miền núi Tây Bắc). Các làng nghề đã giúp giải quyết việc làm cho số lượng lớn lao động nông thôn của tỉnh, vừa đáp ứng được yêu cầu xã hội, vừa đem lại doanh thu cho tỉnh (thực hiện cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế). Vì vậy nhà nước cũng có những chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển các làng nghề. Tuy nhiên, cuối năm 2008 đến nay các làng nghề đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (bắt đầu từ Mỹ) làm các làng nghề nước ta nói chung và làng nghề của tỉnh rơi vào cảnh chợ chiều, các làng nghề đang đứng trước nguy cơ phá sản các sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, lao động làm việc tại các làng nghề này trước đây thì hiện nay phải tạm nghỉ… Theo phân tích của các nhà kinh tế, sở dĩ có tình trạng này là do các làng nghề hiện nay thiếu mặt bằng sản xuất, thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường. Vì vậy nhà nước và chính quyền địa phương cần có những chính sách nhằm hỗ trợ sự phát triển của các làng nghề, giúp các làng nghề có thể đứng vững trên thị trường khủng hoảng hiện nay.
Chính sách đào tạo nghề
Đầu tiên về chính sách hỗ trợ việc làm: thực hiện theo các chính sách đã ban hành của nhà nước, chính phủ ta về việc làm. Chính phủ ban hành theo thẩm quyền chính sách hỗ trợ tài chính, miễn giảm thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tạo việc làm cho nhiều người lao động. Chính sách cho vay vốn để lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, tự tạo việc làm và khuyến khích thu hút nhiều lao động. Chính sách khuyến khích áp dụng và phát triển công nghệ mới, kỹ thuật mới thu hút nhiều lao động. Chính sách ưu đãi và khuyến khích sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số… Chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho các đối tượng là lao động nữ và lao động là người tàn tật. Chính sách đào tạo và đào tạo lại nghề cho người lao động và các chính sách có liên quan đến giải quyết việc làm cho người lao động khác.
Áp dụng các chính sách trên, và các chương trình đào tạo nghề cụ thể. Hiện nay tỉnh có 32 cơ sở của Trung ương, địa phương và Tổ chức kinh tế tham gia đào tạo dạy nghề cho người lao động, trong đó có sự đóng góp lớn của các cụm làng nghề. Những chương trình đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nông thôn này nhằm đưa nguồn lực ở khu vực này vào sử dụng ở các ngành nghề khác nhau ở ngay tại địa phương hoặc ở địa phương khác. Bằng nhiều hình thức đào tạo khác nhau: dài hạn, ngắn hạn, liên kết đào tạo, truyền nghề… số lao động được đào tạo nghề hàng năm đều tăng lên và vượt so với các kế hoạch được đưa ra. Năm 2007, có 119943 lao động được đào tạo nghề, đến tháng 6-2008, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đã đạt 35,1 (năm 2007 là 34,5%), còn tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề là 23,7% (năm 2007 đạt 23,5%). Số lao động được tạo việc làm mới tăng hàng năm, trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho gần 20 nghìn lao động. Riêng 6 tháng đầu năm năm 2008, đã tạo việc làm mới cho 10341 lao động, 1465 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Theo kế hoạch đến hết năm 2008 sẽ giải quyết việc làm mới cho hơn 11 600 lao động, nâng tổng số người có việc làm mới lên 22000 người. Đến nay đã có 225000 lao động được tuyển vào làm việc tại 2515 doanh nghiệp. Hiệu quả của sàn giao dịch việc làm phát huy tốt, số lượt người truy cập tra cứu thông tin và số người được tư vấn ngày một tăng cao, trong 6 tháng đầu năm 2008 đã có 97650 lượt người tham gia, 1728 lao động được giải quyết việc làm tại sàn giao dịch, hiệu quả của sàn giao dịch việc làm đã rút ngắn khoảng cách giữa người lao động và doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH của tỉnh.
Theo chương trình của chính phủ, tỉnh cũng có các trường dạy nghề cho các lao động nông nghiệp giúp họ chuyển đổi việc làm khi quỹ đất cũng như các điều kiện sản xuất nông nghiệp ngày càng bị hạn chế.
Tuy nhiên các trung tâm, trường đào tạo nghề này chủ yếu là đào tạo các ngành nghề sử dụng nhiều lao động như may mặc, số các ngành nghề được đào tạo thì hạn chế chủ yếu cũng chỉ là nghề may mặc, mà nghề này thì thu nhập thấp và phụ thuộc vào các công ty may mặc. Ngoài ra còn có thêm các ngành nghề khác nhưng hiệu quả đào tạo không cao và số lượng lao động đào tạo được ít. Sau khi được đào tạo nếu không được tuyển dụng vào các công ty hay doanh nghiệp thì những lao động này lại tiếp tục rơi vào tình trạng thất nghiệp như lúc trước khi đào tạo.
Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh chưa theo kịp yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Điểm đáng chú ý là, phần lớn lao động nông thôn hiện nay chưa đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua truyền nghề. Ở Bắc Ninh có 6 trường và trung tâm dạy nghề, mỗi năm đào tạo học sinh ra trường từ 500 - 600 người, dạy nghề theo hình thức kèm cặp 3.000 lao động/năm, dạy nghề theo hình thức bồi dưỡng 4 đến 5 nghìn người/năm. Tình trạng đó chưa đáp ứng được yêu cầu lao động phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong điều kiện hiện nay.
Chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp
Đó là các chương trình khuyến nông, hỗ trợ nông dân sản xuất, các chương trình tập huấn kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi, chương trình nông dân sản xuất giỏi để khuyến khích nông dân sản xuất… Các chương trình này khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn và năng động sáng tạo hơn trong quá trình sản xuất. Hàng năm tỉnh cũng chi các khoản vốn đầu tư cho các chương trình khuyến nông, các khoản chi này chủ yếu là do nhà nước chi cho nông nghiệp.
Chương trình khuyến nông năm 2008, dưới sự lãnh đạo của các cấp, cùng với sự nỗ lực của người nông dân, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong năm ngành đã triển khai thực hiện 22 mô hình khuyến nông thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản tại các huyện, thành phố trong tỉnh với tổng kinh phí hơn 1491 triệu đồng. Một số chương trình đặc biệt: ngày 18 – 20/2/2008 Hội chợ Nông nghiệp Xuân 2008 kết hợp với hội Lim được tổ chức đã thu hút được hàng nghìn lượt người đến thăm quan, mua bán sản phẩm và quan tâm đặc biệt tới những mặt hàng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Chương trình tổ chức diễn đàn khuyến nông @ công nghệ với chủ đề: “Công tác dồn điền đổi thửa phục vụ CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn” trong 2 ngày 19 – 20/5 tại Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc thành phố Bắc Ninh. Diễn đàn đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến quản lý, sử dụng ruộng đất, dồn điền đổi thửa từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, quy hoạch đồng ruộng, xây dựng nông thôn mới, bố trí dân cư, lao động nông nghiệp hợp lý nhằm nâng cao thu nhập cải thiện đời sống cho người nông dân.
Để khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp, Hội nông dân tỉnh đã tổ chức các cuộc thi nông dân giỏi và phát động trong cả tỉnh. Trong các chương trình có rất nhiều nông dân đạt danh hiệu nông dân giỏi. Theo thống kê, đến hết năm 2008, Hội có hơn 144000 hội viên sinh hoạt tại 674 chi hội thì có đến gần 68310 hội viên đạt danh hiệu “Hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi” các cấp, tương đương 37,5% so với số hộ sản xuất nông nghiệp. Trong đó, 800 hộ đạt danh hiệu cấp trung ương, trên 1300 hộ đạt danh hiệu cấp tỉnh. Ngoài chương trình thi đua do Hội nông dân và các cấp tổ chức còn có các chương trình hỗ trợ vốn, kỹ thuật, và giống… giúp nông dân hăng hái sản xuất.
Định hướng của nhà nước và địa phương về vấn đề lao động nông nghiệp nông thôn hiện nay
1. Định hướng về quy hoạch sử dụng đất đai
Đất nông nghiệp
Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, giá trị kinh tế và hàng hoá lớn, đạt trên 60%. Tiếp tục đầu tư thúc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng hàng hoá, nông sản có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường Hà Nội và các đô thị, các khu CN của Bắc Ninh, có tính đến thị trường quốc tế xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp giá trị cao qua cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, lao động, nguồn vốn.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa 3 khâu: sản xuất - chế biến - thị trường trong sản xuất nông nghiệp. Chuyển đổi một cách cơ bản cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, gắn quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn với công nghiệp hoá, đô thị hoá và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Theo quy hoạch đã được duyệt, thời kỳ 2000 - 2010 diện tích đất nông nghiệp phải chuyển sang sử dụng cho các mục đích khác là 6.124,19ha nhưng do điều chỉnh, bổ sung diện tích đất cho các khu công nghiệp tập trung, các khu công nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng cơ sở hạ tầng và đất ở nên diện tích đất nông nghiệp của tỉnh sẽ ngày càng giảm. Dự kiến sau điều chỉnh diện tích đất nông nghiệp sẽ phải chuyển sang sử dụng vào mục đích khác 8.438,81ha, trong đó:
Chuyển sang đất chuyên dùng 7.170,56ha
Chuyển sang đất ở 1.268,25ha:
Chu chuyển trong nội bộ đất nông nghiệp 4.383,35ha.
Quy hoạch vùng sản xuất lúa hàng hoá chất lượng cao, vùng chuyên canh màu, cây CNNN chất lượng cao, vùng cây công nghiệp ngắn ngày (lạc + đậu đỗ).
2. Định hướng về giải quyết việc làm và lao động.
Tạo việc làm phi nông nghiệp để giảm lao động trong nông nghiệp đến năm 2010 còn khoảng 290 nghìn lao động, năm 2010 còn khoảng 234 nghìn lao động và năm 2020 còn khoảng 191 nghìn lao động trong nông nghiệp, chiếm khoảng 30% trong cơ cấu lao động toàn xã hội. Đưa nhanh giá trị tổng sản phẩm thu nhập trên 1ha canh tác thông qua chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ và tăng hệ số sử dụng đất. Nhanh chóng đổi mới cơ cấu sản xuất theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản phẩm ngành nông nghiệp. Hình thành các vùng cây, con hàng hoá như: vùng lúa chất lượng cao, rau sạch, hoa cây cảnh, cây công nghiệp ngắn ngày phục vụ nhu cầu ở các đô thị lân cận trong vùng và nội tỉnh. Đưa chăn nuôi thành ngành chính, phát triển đàn lợn nạc, bò sữa, khai thác triệt để mặt nước và chuyển vùng trũng trồng lúa bấp bênh sang nuôi thuỷ sản.
Nâng cao chất lượng nguồn lao động, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị từ 4,5% hiện nay xuống còn 4 - 4,2% và tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn khoảng 88 - 90% vào năm 2020. Đến năm 2020, tỷ lệ đô thị hoá ít nhất đạt khoảng 45 - 50%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng lao động chiếm khoảng 70%. Đến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề khoảng 40%, năm 2020 khoảng 50 - 60%.
Định hướng về các chương trình hỗ trợ và khuyến khích sản xuất
Tổ chức các chương trình hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kỹ thuật chăn nuôi… tổ chức các chương trình phòng chống dịch bệnh hại ở cây trồng và ở vật nuôi. Các chương trình hỗ trợ giống cây trồng, con giống cho nông dân sản xuất phải tổ chức thường xuyên.
Chương trình khuyến nông cũng luôn luôn được quan tâm để khuyến khích người lao động sản xuất, năng động sáng tạo trong quá trình sản xuất.
Chương trình trợ cấp cho sản xuất của nông dân hoặc các chương trình trợ cấp chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp, bằng các hình thức như là trợ giúp nông dân hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang mục đích khác. Các chương trình hỗ trợ đầu tư cho người nghèo, vào những hộ gia đình khó khăn, hoặc cho các hộ nông dân ở khu vực nông thôn.
Các chương trình hỗ trợ thiên tai dịch bệnh cho các hộ nông dân trong quá trình sản xuất gặp phải cũng thường xuyên phải được triển khai. Các chương trình an toàn và bảo hiểm thu nhập cho người nông dân cũng sẽ được thực hiện và phát huy hiệu quả.
Thực trạng lao động nông nghiệp nông thôn tại tỉnh từ 2000 đến nay
Thực trạng nguồn lao động của tỉnh
Số lượng và chất lượng của lao động nông nghiệp nông thôn từ 2000 đến nay
Số lượng: - Số lượng lao động liên tục tăng lên qua các năm nhưng với tốc độ giảm dần nhờ các chính sách hạn chế tăng dân số. Ví dụ như TP Bắc Ninh, tốc độ gia tăng dân số của thành phố từ năm 2000 đến 2008 có 2 giai đoạn. Đầu tiên, từ năm 2000 có số lượng dân số trong độ tuổi lao động là 45575 người đến năm 2005 số lượng này là 48052 người (sau 5 năm tăng 2477 người) như vậy giai đoạn này tốc độ gia tăng của dân số trong độ tuổi lao động của thành phố vào khoảng: 1.09%/năm. Đến giai đoạn sau, từ năm 2005 đến năm 2008 tỷ lệ gia tăng dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh đã giảm, từ 48052 người năm 2005 lên 49603 năm 2008 (sau 3 năm tăng lên 1551 người) tương đương với tốc độ gia tăng dân số trong độ tuổi lao động ở khoảng 1.075%/năm. Điều đó thể hiện hiệu quả của các chính sách kế hoạch hóa gia đình, đời sống và nhận thức của người dân đã tăng cao. Số lượng dân số trong độ tuổi của các địa phương trong tỉnh được thể hiện qua bảng dưới đây:
Bảng: Dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh từ năm 2000 đến nay
Đơn vị: người
Năm
2000
2001
2005
2008
TP Bắc Ninh
45575
46060
48052
49603
Yên Phong
81705
82611
86337
89241
Quế Võ
89689
90585
94259
97113
Tiên Du
70996
71612
74120
76077
Từ Sơn
66563
67338
70529
73022
Thuận Thành
82002
82614
85108
87028
Lương Tài
57183
57456
58561
59404
Gia Bình
47578
48218
50865
52946
Tổng số
541291
546494
567810
584343
Nguồn: Tư liệu kinh tế xã hội 631 Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh Việt Nam
Chất lượng:
Chất lượng lao động nông thôn của tỉnh trong những năm qua tăng lên rõ rệt, số lượng lao động đã qua đào tạo tăng lên, tỷ lệ lao động làm việc trong các doanh nghiệp, cơ sở doanh… cũng tăng lên. Cùng với nó là tỷ lệ lao động thất nghiệp và tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành sản xuất nông nghiệp giảm xuống. Tỷ lệ lao động nông nghiệp cũng như tỷ lệ các hộ sản xuất nông nghiệp thuần nông ngày càng giảm. Thay vào đó là số hộ chăn nuôi, sản xuất kinh doanh theo mô hình kinh tế trang trại cũng tăng lên. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh trong những năm qua cũng ngày càng tăng cao. Điều đó được thể hiện ở bảng dưới:
Theo bảng dưới đây ta thấy, cùng với tổng lực lượng lao động của tỉnh tăng lên thì số lượng và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh cũng tăng lên qua các năm. Năm 2001 số lượng lao động trong độ tuổi là 503,300 nghìn người và có 108,754 nghìn người đã qua đào tạo nói chung chiếm 21,6% còn đến năm 2004 số lượng lao động trong độ tuổi là 526,676 nghìn người trong đó 139,569 nghìn người đã qua đào tạo nói chung và chiếm 26,5% tổng lực lượng lao động. Trong số lượng người đã qua đào tạo thì chủ yếu là thành phần lao động đã qua đào tạo nghề, và trong những năm gần đây tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề cũng tăng nhanh hơn các loại hình lao động khác. Cụ thể ở bảng dưới:
Bảng: Số lượng và tỷ lệ lao động tham gia lực lượng lao động
chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của tỉnh giai đoạn 2001-2004
Đơn vị: người và %
Tổng lực lượng lao động (người)
Lao động chưa qua đào tạo (người
Tỷ lệ
so tổng
LLLĐ
(%)
Lao động đã qua đào tạo nói chung
(người
Tỷ lệ
so tổng
LLLĐ
(%)
Lao động đã tốt nghiệp THCN, CĐ, ĐH và trên đại học (người)
Tỷ lệ
so tổng
LLLĐ
(%)
Lao động đã qua đào tạo nghề (người)
Tỷ lệ
so tổng
LLLĐ
(%)
2001
503.300
394.546
78,4
108.754
21,6
31.661
6,3
77.093
15,3
2002
514.468
395.633
77,1
118.835
22,9
36.109
7
82.726
16,1
2003
521.468
392.149
75,2
129.319
24,8
39.627
7,6
89.692
17,2
2004
526.676
387.107
73,5
139.569
26,5
40.554
7,7
99.015
18,8
Nguồn: Kết quả điều tra lao động-việc làm hàng năm 2001-2004
BẢNG: TRÌNH ĐỘ CÁN BỘ HỢP TÁC XÃ TRONG TỈNH NĂM 2007
Huyện, thị
Ban quản trị HTX
Ban kiểm soát HTX
Kế toán HTX
Văn hóa
Chuyên môn
Chưa tập huấn năm 2007
Văn hóa
Chuyên môn
Chưa tập huấn năm 2007
Văn hóa
Chuyên môn
Chưa tập huấn năm 2007
Cấp II
Cấp III
ĐH
TC
SC&CĐT
Cấp II
Cấp III
ĐH
TC
SC&CĐT
Cấp II
Cấp III
ĐH
TC
SC&CĐT
Bắc Ninh
70
50
4
8
108
67
35
25
3
7
50
34
40
20
1
11
48
0
Yên Phong
61
50
3
5
103
71
66
30
1
5
90
68
32
45
2
10
65
12
Thuận thành
80
48
6
7
115
82
40
24
4
10
50
34
25
39
4
9
51
0
Quế võ
170
159
4
8
317
259
160
59
1
7
211
179
100
10
0
2
108
25
Gia Bình
100
57
0
9
148
97
40
63
0
5
98
58
47
28
3
18
54
75
Lương Tài
170
36
8
5
193
146
50
29
1
8
70
54
27
48
3
12
60
0
Tiên Du
70
50
1
3
116
75
60
40
2
7
91
75
30
40
0
13
57
5
Từ Sơn
39
50
4
6
59
4
27
13
3
5
32
5
11
24
4
4
27
35
Tổng cộng
760
480
30
51
1159
801
478
283
15
54
692
507
212
354
17
79
470
152
Tỷ lệ %
61,3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31808.doc