Chuyên đề Thực trạng ly hôn, quá trình giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang

Mục lục

Phần 1: Lời Mở đầu

Phần 2: Nội dung

Chương I:Khái quát về quâ trình tìm hiểu thu thập thông tin và Thực trạng ly hôn tại Thị xã Hà Giang

1. Khái quát về quá trình tim hiểu và thu thập thông tin

2. Thực trạng ly hôn tại thị xã Hà Giang

Chương II: Nguyên nhân dẫn đến ly hôn và căn cứ, đường lối giải quyết ly hôn

1/ Nguyên nhân

2/ Căn cứ giải quyết cho ly hôn

3/ Đường lối giải quyết án ly hôn của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang

Chương III: Hậu quả pháp lý của ly hôn

Quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con cái sau ly hôn.

Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng

Vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

Phần 3: nhận xét và kiến nghị

Phần 4: kết luận

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6301 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng ly hôn, quá trình giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ly hôn của từng năm tại Thị xã Hà giang, chúng ta có thể nhận thấy số lượng án ly hôn tăng từng năm. Và ta cũng thấy rằng số án ly hôn của giới trẻ đặc biệt tăng nhanh chóng Trong vài năm gần đây án ly hôn tăng nhanh chóng, gây nhiều khó khăn cho xã hội và cơ quan xét xử. Cụ thể trong vòng 2 năm án hôn nhân và gia đình năm 2005: Tổng thụ lý: 115 vụ,việc (110 vụ 5 việc). Trong đó án cũ năm 2004 chuyển sang 18 vụ việc (15 vụ 3 việc), thụ lý mới 97 vụ,việc (trong đó 95 vụ 2 việc). án hôn nhân gia đình toà thụ lý tập trung chủ yếu là án ly hôn 95/115 vụ, việc chiếm tỷ lệ 82,6%. Còn lại là yêu cầu cấp dưỡng nuôi con 02/115 vụ chiếm tỷ lệ 1,7%; Thay đổi thành phần nuôi con chung 02/115 chiếm tỷ lệ 1,7%; Không công nhận quan hệ vợ chồng 05/115 vụ chiếm tỷ lệ 4,3%; Tranh chấp tài sản sau ly hôn 02/117 vụ chiêm tỷ lệ 1,7%. Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu là do mâu thuẫn vợ chồng 36 vụ chiếm tỷ lệ 31,3%; Đánh đập ngược đãi 29 vụ chiếm tỷ lệ 25,2%; Do tính tình không hợp 18 vụ chiếm tỷ lệ 15,6%; Do ngoại tình 06 vụ chiếm tỷ lệ 5,2%; không có con 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86; một bên đi vắng lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,6%; do nghiện rượu 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86%; huỷ hôn nhân trái pháp luật 05 vụ chiếm tỷ lệ 4,3%; Một bên mất tích 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86%. Tòa đã giải quyết được 95 vụ, Và trong tổng số 95 vụ Toà án đã giải quyết thì: -Hòa giải thành: 03 vụ = 3,1% -Thuận tình ly hôn: 40 vụ = 42% -Đình chỉ: 28 vụ = 29% -Xét xử: 20 vụ = 21% -Di lý: 04 vụ = 4,6% Năm 2006 án hôn nhân gia đình : Tổng thụ lý: 130 vụ. Trong đó án cũ năm 2005 chuyển sang 20 vụ, thụ lý mới 110 vụ. So với cùng kỳ năm trước, án thụ lý mới tăng 28 vụ ( năm 2005 thụ lý 105 vụ, án cũ năm 2004 chuyển sang 23 vụ, thụ lý mới 82 vụ ). Toà đã giải quyết 120/130 vụ, đạt tỷ lệ 92,30%. án hôn nhân gia đình toà thụ lý tập trung chủ yếu là án ly hôn 120/130 vụ chiếm tỷ lệ 92,30%; án xin thay đổi thành phần nuôi con chung 6/130 vụ chiếm tỷ lệ 4,61%; án tranh chấp tài sản sau ly hôn 02/130 vụ chiếm tỷ lệ 1,53%, xin cấp dưỡng nuôi con 03/130 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%, truy nhận cha cho con 01/130 vụ chiếm tỷ lệ 0,76%. Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu do mâu thuẫn gia đình, đánh đập ngược đãi 63 vụ chiếm tỷ lệ 48,4%; do tính tình không hợp 30 vụ chiếm tỷ lệ 23%; do ngoại tình 10 vụ chiếm tỷ lệ 7,69%; không có con 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một bên đi vắng lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một bên bỏ đi 02 vụ chiếm tỷ lệ 1,53%. Trong tổng số 120 vụ Toà án đã giải quyết trong đó có: -Hòa giải thành: 20 vụ = 16,% -Công nhận thuận tình ly hôn: 40 vụ = 33,% -Đình chỉ(nguyên đơn xin rút đơn, đoàn tụ): 25 vụ = 20,% -Xét xử cho ly hôn: 20 vụ = 16% -Tạm đình chỉ( không tìm được bị đơn): 15 vụ = 12% Chương II: Nguyên nhân dẫn đến ly hôn và căn cứ giải quyết ly hôn 1/ Nguyên nhân. Tôi đã đề cập đến một số nguyên nhân nho nhỏ về tình trạng ly hôn ở địa phương tôi trên đây. Nhưng trong phần này tôi muốn đề cập những nguyên nhân cụ thể và phân tích một cách rõ ràng hơn. Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn tăng một cách đáng kể và đang trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Việt nam nói chung và Hà Giang nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có một nhà nghiên cứu đã nói rằng ở Việt Nam cứ ba đôi kết hôn thì có một đôi xin ly hôn. Cụ thể trong năm 2005 Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang xét xử 115 vụ ly hôn gồm nguyên nhân sau: Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu là do mâu thuẫn vợ chồng 36 vụ chiếm tỷ lệ 31,3%; Đánh đập ngược đãi 29 vụ chiếm tỷ lệ 25,2%; Do tính tình không hợp 18 vụ chiếm tỷ lệ 15,6%; Do ngoại tình 06 vụ chiếm tỷ lệ 5,2%; không có con 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86; một bên đi vắng lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,6%; do nghiện rượu 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86%; huỷ hôn nhân trái pháp luật 05 vụ chiếm tỷ lệ 4,3%; Một bên mất tích 01 vụ chiếm tỷ lệ 0,86%. Năm 2006 trong tổng số 130 vụ ly hôn thì: Nguyên nhân xin ly hôn chủ yếu do mâu thuẫn gia đình, đánh đập ngược đãi 63 vụ chiếm tỷ lệ 48,4%; do tính tình không hợp 30 vụ chiếm tỷ lệ 23%; do ngoại tình 10 vụ chiếm tỷ lệ 7,69%; không có con 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một bên đi vắng lâu ngày không trở về 03 vụ chiếm tỷ lệ 2,3%; một bên bỏ đi 02 vụ chiếm tỷ lệ 1,53%. Nhìn vào những thông số trên đây chúng ta có thể thấy rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc ly hôn do mâu thuẫn gia đình, ngược đãi là những con số rất lớn,( năm 2005 là 36 vụ chiếm 31,3% - năm 2006 là 63 vụ chiếm 48,4% ), số vụ do tính tình không hợp nhau dẫn đến ly hôn cũng là một con số không nhỏ (năm 2005 là 25 vụ chiếm tỷ lệ 21,3%, năm 2006 là 18 vụ chiếm 13,6% , không kể tỷ lệ % ly hôn do những lý do khác mang lại nữa, từ những điển hình này cho thấy đây là thực trạng vô cùng “bức xúc” của Hà Giang hiện nay. Dựa trên kết quả này chúng ta đều nhận thấy rằng số vụ án do đánh đập ngược đãi trong gia đình lại chiếm khá lớn mặc dù xã hội hiện nay đang có chủ trương không có bạo lực trong gia đình .Vậy vì sao có tình trạng số vụ án ly hôn do ngược đãi và do tính tình không hợp nhau cũng như do những nguyên nhân khác lại có tỷ lệ cao như thế khi mà trong xã hội nay những người tri thức của ta rất nhiều, tầm nhận thức về quan hệ gia đình của họ rất lớn? Phải chăng là do ngày nay, khi quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như con cái với bố mẹ, vợ chồng với nhau có phần xuống cấp trong một bộ phận không nhỏ của dân cư, bởi xã hội này mọi người chủ yếu quan tâm tới yếu tố kinh tế và quên đi việc chăm lo tới gia đình mình. Sự quan tâm chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình giờ đây được thay thế bằng việc tính toán làm ăn kinh tế , đôi khi là chơi bời trụy lạc ... đã làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không còn chặt chẽ. Sự cách biệt giữa thu nhập của vợ chồng, sự ảnh hưởng của yếu tố văn hóa ngoại lai, sự xâm nhập của những quan hệ không đúng đắn sự nhận thức không đầy đủ và không thấu đáo về hậu quả ly hôn giữa các cặp vợ chồng... Đó là một số các nguyên nhân trong rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng ly hôn ở Việt Nam nói chung và ở Hà Giang nói riêng gia tăng đáng kể? Còn với lý do ly hôn ta có thể thấy nó là cái cớ mà đương sự dựa vào đó để yêu cầu tòa án cho ly hôn (thường do lỗi của bị đơn). Như vậy lý do ly hôn thường trùng với nguyên nhân gây mâu thuẫn vợ chồng, mà thực tế cho thấy người đứng đơn cho mỗi vụ ly hôn thường là người phụ nữ, với các lý do như: chồng ngoại tình, chồng cờ bạc rượu chè… Những nguyên nhân, lý do dẫn tới ly hôn rất đa dạng và khá phức tạp. Vì vậy muốn giải quyết ly hôn chính xác, để vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa đảm bảo lợi ích của gia đình và xã hội, cán bộ thẩm phán cần nắm rõ quy định của pháp luật, tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn vợ chồng. Đồng thời lưu ý đặc điểm kinh tế - chính trị, xã hội tác động vào quan hệ ly hôn trong thời điểm giải quyết vụ án để quyết định đúng đắn đường lối chính sách của Đảng & nhà nước đối với việc giải quyết từng án kiện ly hôn, bởi quyết định này có ảnh hưởng sâu sắc đến thành viên trong gia đình cũng như xã hội. Ví dụ: Ngày 12 tháng 09 năm 2005 Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang đã thụ lí đơn xin ly hôn của chị Bàng Thị Sơn, sinh năm 1986, dân tộc Cao Lan, thường trú tại tổ 12 phường Minh Khai thị xã Hà Giang yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn giữa chị và anh Nguyễn Văn Nam, trong khi hai anh chị mới chung sống cùng nhau được một thời gian ngắn chưa đầy 6 tháng vì anh chị đăng kí kết hôn vào tháng 4 năm 2005. Nguyên nhân dẫn tới việc Chị Sơn xin yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn của chị và anh Nam là do anh Nam nghiện ma túy, bản thân anh Nam không có công ăn việc làm ổn định để lo cho gia đình lại còn có quan hệ bất chính với người đàn bà khác đã bị chị Sơn phát giác, khuyên ngăn anh nhiều lần nhưng anh không chịu nghe còn chung sống bất hợp pháp cùng với người phụ nữ đó. Qua nghiên cứu hồ sơ và điều tra vụ án, Tòa án nhân dân Thị xã đã chấp nhận đơn yêu cầu của chị Sơn và giải quyết đúng theo nguyện vọng của chị . 2/ Căn cứ giải quyết cho ly hôn. Trước hết cũng như theo quy định của pháp luật thì thủ tục hòa giải được áp dụng đối với các vụ kiện ly hôn do TAND tiến hành là thủ tục pháp lý bắt buộc, bởi vậy Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang rất coi trọng công tác điều tra và hòa giải. Mục đích cuối cùng và quan trọng nhất mà cán bộ hòa giải hướng tới giúp cho cuộc hôn nhân có nguy cơ tan vỡ tránh được đổ vỡ, vợ chồng đoàn tụ. Sau mỗi lần hòa giải, tòa án sẽ lập ra biên bản hòa giải, hòa giải thành gia đình trở về đoàn tụ, hòa giải không thành tòa án lập biên bản hòa giải không thành và đưa ra xét xử vụ kiện ly hôn, chỉ khi nào thấy quan hệ vợ chồng thực sự đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” thì Tòa án giải quyết cho ly hôn; Theo Đ89 - LHN & GĐ năm 2000 quy định. Và khi xem xét giải quyết ly hôn Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thực hiện triệt để theo các quy định về điều kiện hạn chế ly hôn. LHN & GĐ năm 2000 ghi nhận “ vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn” Quyền này gắn liền với quyền nhân thân của vợ, chồng, không thể chuyển giao, không ai có thể đệ đơn xin ly hôn thay vợ, chồng. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi bà mẹ và trẻ em, khoản 2 điều 85 LHN & GĐ năm 2000 đã quy định điều kiện hạn chế ly hôn đối với người chồng “ Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn” Người chồng bị hạn chế quyền ly hôn không phân biệt người vợ có thai với ai. Trong trường hợp vợ có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng, nếu duy trì quan hệ hôn nhân sẽ không có lợi cho sức khỏe của mình, của thai nhi hoặc đứa bé mới sinh mà người vợ có yêu cầu ly hôn thì tòa án vẫn thụ lý đơn yêu cầu xin ly hôn của người vợ và giải quyết vụ án theo thủ tục chung. 3/ Đường lối giải quyết án ly hôn của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang. Luật LHN & GĐ năm 2000 quy định rõ: Cơ quan có thẩm quyền xét xử ly hôn là Tòa án nhân dân. Cũng như tòa án nhân dân ở các địa phương khác, Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn theo đúng trình tự pháp luật. Khi nhận được yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng, hay cả hai vợ chồng tòa án xem xét thấy hợp lý sẽ thụ lý và giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định. Theo nguyên tắc chung, tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn căn cứ quy định của bộ luật tố tụng dân sự, trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng ( khoản 1 điều 11 LHN & GĐ năm 2000 ). Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang trong những năm qua đã có cố gắng rất nhiều trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án ly hôn theo đúng trình tự pháp luật. Theo luật định có 2 trường hợp ly hôn. -Trường hợp cả 2 vợ chồng đều thuận tình ly hôn. -Trường hợp do 1 bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn. Như vậy trong số 40 hồ sơ ly hôn mới thụ lý trong quý I/2007 có tới 22 đơn vợ đứng tên (chiếm 48%), có 10 đơn do chồng đứng tên (chiếm 22%) và 14 đơn chung (chiếm 30%). Sau đây tôi xin trích dẫn 1 số vụ ly hôn tiêu biểu do Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thụ lý và giải quyết vào năm 2006 a/ Trường hợp ly hôn do một bên vợ hoặc chồng yêu cầu. Điều 91 LHN & GĐ năm 2000 quy định “ khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại tòa án không thành thì tòa án xem xét, giải quyết vụ việc ly hôn”. *Trường hợp vợ có yêu cầu ly hôn, Tôi xin được trích tóm lược một bản án mà tòa án nhân dân thị xã Hà Giang đã xét xử như sau: Ngày 17/07/2005, Tòa án nhân dân thị xã đã thụ lý và giải quyết vụ án xin ly hôn giữa nguyên đơn là chị Ngô Thị Dự sinh năm 1975, dân tộc H’Mông và bị đơn là anh Trần Văn Hiển sinh năm 1971, dân tộc Kinh , cùng trú tại tổ 01 phường Ngọc Hà- Thị xã Hà Giang- Tỉnh Hà Giang. Nhận thấy Chị Ngô Thị Dự và anh Trần Văn Hiển kết hôn năm 2003 có đăng kí kết hôn do hai bên tự nguyện sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị Dự cho rằng: Anh Hiển thường xuyên đánh bạc, chửi bới và đánh đập chị mặc dù chị đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh Hiển không thay đổi, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Về phía anh Hiển cho rằng: Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, thường xuyên cãi vã lẫn nhau và sống ly thân từ năm 2004 đến nay. Về con chung: Hai đương sự cùng xác nhận có một con chung là cháu Trần Tuấn Anh sinh ngày 10/09/2003. Ly hôn chị Dự yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu và không yêu cầu cấp dưỡng . Về tài sản chung: hai đương sự khai không có. Về công nợ chung: Hai đương sự cùng xác nhận vợ chồng không nợ ai, không đề nghị tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay các bên đương sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận được về con chung. Xét thấy Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định những lý do mà anh chị đưa ra là đúng. Vì vậy chấp nhận cho được ly hôn. Về con chung: hiện tại cháu Tuấn Anh còn nhỏ và đang ở cùng với mẹ, để đảm bảo cho cháu có cuộc sống ổn định và sự chăm sóc cần thiết trong cuộc sống nên giao cháu Tuấn anh cho chị Dự trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung: không có Về công nợ chung : hai đương sự xác nhận không nợ ai và cũng không có ai nợ không yêu cầu tòa án giải quyết. Về án phí : các đương sự phải chị án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên Quyết định 1/ áp dụng điều 89,91 Luật Hôn nhân Gia đình. Cho chị Dự được ly hôn với anh Hiển. 2/ về con chung giao cháu Trần Tuấn Anh cho chị Dự nuôn dưỡng anh Hiển không phải cấp dưỡng và được phép đi lại thăm nom chăm sóc con chung. 3/ án phí : chị Dự phải chịu 50.000đ tiền án phí theo quy định của pháp luật. (Trích bản án số 17 /2006/DSST-HNGĐ) *Trường hợp chồng có yêu cầu ly hôn: Tháng 12 năm 2005, Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thụ lý và giải quyết đơn xin ly hôn do anh Hà Anh Tuấn đứng đơn xin ly hôn với vợ là Nguyễn Ngọc Anh trú tại tổ 21 phường Trần phú Hà Giang. Nguyên nhân dẫn tới việc anh Hà Anh Tuấn xin ly hôn là do vợ chồng không hợp nhau, thường xẩy ra cãi cọ, xích mích với nhau. Bản thân chị Ngọc Anh nghiện ma túy, và có quan hệ bất chính với người đàn ông khác anh Tuấn đã khuyên can nhiều lần nhưng không được, hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2003 Tổ trưởng dân phố cùng gia đình và tòa án đã hòa giải nhiều lần nhưng đoàn tụ không thành. Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang đã chấp nhận đơn của anh Tuấn và đưa vụ án ra xét xử, anh Tuấn được ly hôn. Tài sản chung của 2 vợ chồng được chia đều. b/ Trường hợp thuận tình ly hôn: Tháng 9 năm 2006, Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang thụ lý và giải quyết đơn xin thuận tình ly hôn của chị Hoàng Mai Lan và anh Tô Ngọc Vũ. Nguyên nhân dẫn tới việc chị Lan và anh Vũ cùng xin ly hôn là do anh Vũ đi vắng lâu ngày không trở về, anh Vũ còn thường xuyên đánh bạc, rượu chè không chăm lo đến gia đình. Tình cảm vợ chồng rạn vỡ, sứt mẻ. Hai bên gia đình và tổ dân phố hòa giải nhiều lần nhưng không được. Xét thấy cuộc hôn nhân không thể kéo dài, chị Lan còn trẻ, hơn nữa tình cảm vợ chồng không còn. Nếu tiếp tục mâu thuẫn càng lớn, hai vợ chồng cùng yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tòa đã xử cho ly hôn, chị Lan nuôi đứa con trai 10 tuổi và 1 nửa tài sản vợ chồng hiện có, anh Vũ không phải góp tiền nuôi dưỡng con, có quyền tự do đi lại thăm nuôi con. Đúng theo tinh thần của LHN & GĐ năm 2000 quy định tại điều 90 “ Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại tòa án không thành, nếu xét thấy hai bên thực sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về chia tài sản, trông nom, nuôi dưỡng giáo dục con cái thì tòa án công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận về tài sản, con dựa trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của con và vợ; nếu không thỏa thuận được hoặc tuy có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì tòa án quyết định”. Vấn đề này được cụ thể hơn tại mục 9 nghị quyết số 02/2000/NQ -HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng 1 số quy định LHN & GĐ năm 2000. Có thể thấy dù thực trạng ly hôn tại địa bàn thị xã rất phức tạp, số lượng vụ việc ly hôn ngày càng tăng, hậu quả để lại nhiều gánh nặng cho gia đình và xã hội. Nhưng nhìn chung đường lối giải quyết án ly hôn của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang là rất đúng đắn, hợp tình, hợp lý phù hợp với quy định của pháp luật. Và khi xem xét giải quyết một vụ án, vụ việc ly hôn thì các thẩm phán của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang cũng nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án điều tra xác minh một cách chính xác nhất để giải quyết đúng với thực tế vụ án, vụ việc. Đặc biệt xem xét kỹ thực tế sự việc để tránh tình trạng các đương sự xin ly hôn để tẩu tán tài sản khi mà họ có liên quan đến vấn đề hình sự. Chương III: Hậu quả pháp lý của ly hôn Vẫn biết rằng khi ly hôn thì vấn đề đầu tiên cần bàn tới là vấn đề quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Tuy nhiên ở bài viết này tôi xin được đề cập tới vấn đề con trẻ sau khi cha mẹ chúng ly hôn trước.“Trẻ em như búp trên cành”, trẻ em là thế hệ mầm non tương lai của đất nước, nhưng con trẻ lại là những người gánh chịu hậu quả rõ rệt nhất sau những phán quyết ly hôn của tòa án . Mỗi năm tại thị xã có rất nhiều trẻ em thiếu cha hoặc mẹ do gia đình tan vỡ, có biết bao trẻ em lang thang cơ nhỡ, có biết bao trẻ em vì lý do đó mà đã quyên sinh. Dưới góc độ xã hội, gia đình là tế bào của xã hội, bởi vậy khi gia đình tan vỡ kéo theo những hậu quả khó lường. Trẻ em trong gia đình có vợ chồng ly hôn thường bị chấn động tâm lý ( học tập sa sút, dễ phạm tội, dễ mắc bệnh trầm cảm... ) và có thể nói ở một chừng mực nào đó khi tòa án giải quyết ly hôn điều mà tòa án có thể làm đối với những mầm non tương lai của đất nước để thực hiện bảo vệ quyền lợi cho con cái tránh trẻ em hư hỏng dẫn tới phạm tội do thiếu sự giáo dục của cha mẹ. Đó là Tòa luôn xem xét tư cánh đạo đức của cha mẹ, kinh tế, bên nào có điều kiện tốt hơn sẽ giao cho người đó nuôi dưỡng. Xong không nhất thiết cứ phải giao con cái cho bố mẹ chăm sóc, tòa án có thể linh động giải quyết theo cách khác. Trong trường hợp đặc biệt cả hai bên cha mẹ đều không đủ tư cách hoặc không có điều kiện thực tế chăm sóc nuôi dưỡng...con cái thì tòa án quyết định giao con cho người thân thích nuôi dưỡng, cha mẹ không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng, nẩy sinh vấn đề chia tài sản, nghĩa vụ cấp dưỡng vợ chồng, quyền lợi nghĩa vụ cha mẹ với con cái sau khi ly hôn, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng Theo luật định, khi bản án quyết định ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ vợ chồng được chấm dứt, đi kèm với ly hôn là việc chấm dứt quyền, nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng. Người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác. Tuy nhiên nếu xét thấy hai vợ chồng có thể đoàn tụ lại được (tái hợp) thì phải đi đăng kí kết hôn lại tại UBND xã, phường. Vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn Hầu hết những vụ án phúc thẩm về ly hôn thường liên quan đến vấn đề chia tài sản giữa vợ và chồng sau ly hôn. Năm 2006, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đã thụ lý 18 vụ kiện ly hôn theo trình tự phúc thẩm. Đã giải quyết xong 18/18 vụ đạt tỷ lệ 100%. Để đảm bảo chia công bằng và hợp lý tài sản, tòa án khuyến khích vợ chồng tự thỏa thuận với nhau. Trường hợp không thỏa thuận được, tòa án điều tra quan hệ tài sản vợ chồng: đâu là tài sản riêng, đâu là tài sản chung, xác định nguồn gốc giá trị....Sau đó áp dụng nguyên tắc quy định tại điều 95 LHN & GĐ năm 2000 để chia, kết hợp từng trường hợp cụ thể quy định tại điều 96, 97, 98 nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ chồng, cũng như thành viên khác trong gia đình. Về nguyên tắc phần của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng là bằng nhau. Tuy vậy trong mỗi trường hợp cụ thể, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của mỗi bên tòa án có thể quyết định khác với nguyên tắc đó, chia theo công đóng góp, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên cho công bằng và hợp lý. Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì khó khăn phức tạp hơn cả là tài sản nhà ở và quyền sử dụng đất. Khi giải quyết tòa án cần chú ý điều tra, xác định rõ đó có phải là tài sản chung của vợ chồng hoặc không, nguồn gốc xây dựng, mức độ quản lý tu sửa ......Điển hình là vụ: Ngày 29/11/2006 tại Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang xét xử vụ ly hôn giữa anh Lương Mạnh Tuấn và chị Chu Thanh Hằng lý do chồng ngoại tình. Tài sản chung gồm đất, ti vi, xe máy, bàn ghế....Tòa đã xử như sau: Tài sản chung của vợ chồng có tổng giá trị là: 10.000.000đ (xe máy Wave ỏ + 12.000.000đ (xe máy Start) + 19.000.000đ (01 xe Atila) + 5.000.000đ (ti vi LG) + 6.000.000đ (01 bộ bàn ghế Đồng kỵ) + 4.000.000đ (01 máy vi tính) + 2.500.000đ (01 máy giặt) + 3.000.000đ (tủ lạnh) + 1.600.000đ (bình nước Sơn hà) + 120.000.000đ (nhà xây) + 23.946.000đ (tiền mặt) = 202.046.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy khi chị Hằng kết hôn cùng anh Tuấn hoàn cảnh gia đình anh có nhiều khó khăn. Anh Tuấn ngoài lương thu nhập từ trợ cấp thương tật, lương hưu hàng năm không có khoản thu nhập nào khác. Về kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Khi về chung sống cùng anh Tuấn, chị Hằng cùng anh nuôi dậy các con trưởng thành, hiện tại các cháu đã có công ăn việc làm ổn định, cháu lớn đã xây dựng gia đình. Trong thời gian cùng chung sống ngoài lương hàng tháng chị Hằng còn làm thêm ngoài giờ tăng thu nhập, cho gia đình mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình : ăn uống hàng ngày, chu cấp tiền cho 2 con ăn học, mua sắm tạo dựng tài sản trong gia đình chủ yếu là do chị Hằng đóng góp công sức nhiều hơn anh Tuấn (BL 54, 55, 55a). Bản thân anh Tuấn cũng xác nhận điều đó (BL 33, 34) và lời trình bày tại phiên toà hôm nay của anh Tuấn.Căn cứ khoản 2 điều 95 Luật HNGĐ năm 2000 xử chia cho chị Hằng được hưởng tài sản chung nhiều hơn anh Tuấn cụ thể chia cho chị Hằng được sử dụng 2/3: 135.097.000đ tài sản anh Tuấn được sử dụng 1/3 tài sản :67.348.000đ. Tài sản cụ thể chia hợp lý tùy theo công sức đóng góp của mỗi người, và chị Hằng có nhiều công sức trong việc xây dựng gia đình và mua sắm tài sản trong gia đình . Vì vậy chị Hằng được tòa án giải quyết chia cho số tài sản đúng theo nguyện vọng cũng như theo đúng mức công sức đóng góp của chị. Việc Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang giải quyết như vậy là đúng theo quy định của pháp luật và phù hợp với ý chí của các bên đương sự. Phần ba: nhận xét và kiến nghị 1.Nhận xét Trong năm qua nhìn chung các nhiệm vụ trọng tâm công tác của ngành tòa án nhân dân thị xã Hà Giang cơ bản hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra, chất lượng giải quyết xét xử các loại án được đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật đặc biệt việc giải quyết các loại án về dân sự, hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang đã áp dụng đúng các quy định của BLTTDS, BLDS, Luật HNGĐ cũng như các văn bản hướng dẫn áp dụng của TANDTC , nên về cơ bản đảm bảo được đường lối xét xử. Ngoài ra công tác hướng dẫn các văn bản pháp luật mới được thực hiện kịp thời tới các đơn vị nghiệp vụ. Trong công tác xây dựng ngành, đội ngũ cán bộ Thẩm phán và được củng cố kiện toàn, hơn nữa trong quá trình giải quyết Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban nghành liên quan, chính quyền địa phương, đặc biệt luôn chú trọng công tác hòa giải, đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, do vậy giảm đến mức thấp nhất các vụ bị cải sửa, hủy theo trình tự phúc thẩm, góp phần gìn giữ đoàn kết trong quần chúng nhân dân, ổn định trật tự an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên bên cạnh kết quả đã đạt được hoạt động công tác của ngành tòa án nhân dân Thị Xã vẫn còn những khuyết điểm hạn chế, thiếu sót cần rút kinh nghiệm: Chất lượng giải quyết án của số Thẩm phán chưa đạt yêu cầu, vẫn còn những bản án quyết định bị hủy, sửa do lỗi của Thẩm phán như xác minh điều tra chứng cứ chưa đầy đủ hoặc vi phạm thủ tục tố tụng… 2.Một số kiến nghị về việc hạn chế ly hôn tại địa phương *Đối với Tòa án nhân dân Thị xã Hà Giang: _Về chuyên môn nghiệp vụ: Cần nâng cao chất lượng của một số Thẩm phán để việc giải quyết vụ án được đảm bảo đúng mực công bằng hơn. - Công tác quản lí cán bộ, xây dựng ngành: Có những giải pháp hữu hiệu khả thi để thực hiện việc tuyển dụng đủ cán bộ, bổ nhiệm thẩm phán phải dựa theo khả năng thực sự. - Công tác báo cáo thống kê: Phải thực hiện việc báo cáo thống kê kịp thời, phải ứng dụng công nghệ tin học trong công tác thống kê nghiệp vụ. *Đối với xã hội và cộng đồng: - Phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật về hôn nhân gia đình. Nâng cao dân chí nói chung, nâng cao ý thức pháp luật nói riêng là định hướng chiến lược của Đảng và nhà nước ta, nhất là trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Các cặp vợ chồng hiểu được quyền cũng như trách nhiệm của mình đối với gia đình thì cần phải có những hình thức tuyên truyền, phổ biến luật hôn nhân và gia đình một cách phù hợp như phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể quần chúng với các cơ quan chuyên môn, có như vậy công tác tuyên truyền mới đạt hiệu quả cao. -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng ly hôn, qúa trình giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hà Giang.doc
Tài liệu liên quan