MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
LỜI CAM ĐOAN: 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI 4
1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty. 4
1.2.Chức năng và nhiệm vụ của công ty. 6
1.3.Đặc điểm ngành hàng và mặt hàng kinh doanh của công ty. 7
1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. 7
1.5. Đặc điểm thị trường và khách hàng. 9
1.5.1.Đặc điểm thị trường : 9
1.5.2.Đặc điểm khách hàng : 10
1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của công ty 11
1.6.1. Nhân tố bên trong công ty : 11
1.6.1.1. Nhân tố Bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính 11
1.6.1.2. Nhân tố con người : 11
1.6.1.3.Nhân tố vốn và công nghệ : 11
1.6.2. Nhân tố bên ngoài công ty : 12
1.6.2.1. Nhân tố chính trị, luật pháp 12
1.6.2.2.Thuế quan nhập khẩu : 12
1.6.2.3.Tỷ giá hối đoái 12
1.6.2.4.Yếu tố thị trường trong nước và ngoài nước : 13
1.6.2.5.Yếu tố cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa quốc tế 13
1.6.2.6. Các quan hệ kinh tế quốc tế 13
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU Ô TÔ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI 14
2.1. Khái quát hoạt động nhập khẩu ô tô Việt Nam. 14
2.1.1.Tình hình nhập khẩu ô tô của Việt Nam. 14
2.1.2. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu ô tô. 16
2.2.Hoạt động nhập khẩu ô tô của Công ty. 19
2.2.1.Hoạt động nghiên cứu thị trường. 19
2.2.2.Công tác nhà cung cấp. 20
2.2.3.Ký kết hợp đồng nhập khẩu. 21
2.2.4.Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 22
2.2.5.Tiêu thụ hàng nhập khẩu : 24
2.2.6. Đối thủ cạnh tranh. 25
2.3. Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội. 26
2.3.1. Kim ngạch nhập khẩu của Công ty. 26
2.3.2.Cơ cấu theo giá, chất lượng, thị trường ô tô nhập khẩu của công ty. 27
2.3.2.1. Về cơ cấu : 27
2.3.2.2. Về giá nhập khẩu : 28
2.3.2.3.Về chất lượng xe nhập khẩu : 28
2.3.2.4 Về thị trường nhập khẩu : 29
2.3.3.Hình thức nhập khẩu ô tô của công ty. 34
2.3.4.Phương thức thanh toán. 35
2.3.5.Kết quả kinh doanh nhập khẩu ô tô của Công ty. 36
2.3.5.1.Tình hình kinh doanh nhập khẩu ô tô của Công ty phân theo bộ phận bán hàng. 39
2.3.5.2. Tình hình kinh doanh ô tô nhập khẩu của Công ty theo phương thức bán hàng. 43
2.4.Đánh giá hoạt động kinh doanh nhập khẩu ô tô của công ty Cổ phần XNK ô tô Hà Nội. 43
2.4.1.Thành tựu đạt được. 43
2.4.2.Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân. 45
CHƯƠNG 3 : KIẾN NGHỊ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU Ô TÔ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XNK Ô TÔ HÀ NỘI 48
3.1.Định hướng và mục tiêu phát triển hoạt động nhập khẩu ô tô của công ty Cổ phần XNK ô tô Hà Nội. 48
3.1.1.Mục tiêu của Công ty. 48
3.1.2. Phương hướng của Công ty. 48
3.2. Triển vọng và xu hướng nhập khẩu ô tô trong thời gian tới. 50
3.3. Một số kiến nghị. 52
3.3.1.Kiến nghị đối với Nhà nước. 52
3.3.1.1.Thuế nhập khẩu : 52
3.3.1.2. Cải thiện thủ tục hành chính trong quản lý nhập khẩu : 53
3.3.1.3. Chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý : 54
3.3.1.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại : 55
3.3.1.5.Chính sách hỗ trợ khác : 56
3.3.2.Kiến nghị đối với công ty Cổ phần XNK ô tô Hà Nội. 56
3.3.2.1.Hoàn thiện hoạt động nghiên cứu nhu cầu đối với hàng nhập khẩu: 56
3.3.2.2.Hoàn thiện hoạt động nghiên cứu thị trường nhập khẩu : 57
3.3.2.3. Tiếp tục nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu đối với các cán bộ kinh doanh : 58
3.3.2.4.Tăng cường hoạt động Marketing : 59
3.3.2.5.Vận dụng thương mại điện tử : 60
3.3.2.6.Hoàn thiện quy trình nhập khẩu : 60
3.3.2.7.Đa dạng hóa hình thức nhập khẩu : 61
3.3.2.7.Tăng cường huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn : 62
KẾT LUẬN 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4731 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu ô tô Hà Nội và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.3. Thực trạng nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội.
2.3.1. Kim ngạch nhập khẩu của Công ty.
Trong những năm qua, công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu. Tuy còn gặp nhiều khó khăn do ra đời trong thời gian tương đối ngắn và cũng do ảnh hưởng của nền kinh tế trong khu vực đã làm cho việc nhập khẩu của một số khách hàng có phần bị hạn chế nhưng công ty đã từng bước vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu để đi đến ổn định. Cụ thể kim ngạch nhập khẩu năm 2006 đạt 90,4 tỷ VND, năm 2007 đạt 132,5 tỷ VND đặc biệt kim ngạch nhập khẩu năm 2008 đạt 182 tỷ VND và năm 2009 đạt 228 tỷ VND. Số lượng xe nhập khẩu cũng tăng đáng kể qua; năm 2007 tăng 53,3% từ 300 chiếc lên tới 460 chiếc, năm 2008 số lượng ô tô nhập khẩu lên tới 600 chiếc tăng 30,4%, năm 2009 đạt 720 chiếc tăng lên 20% so với năm 2008.
Bảng 5 : Kim ngạch nhập khẩu của Công ty.
Đơn vị : triệu VND
Năm
Số lượng ô tô NK ( chiếc )
% tăng trưởng qua các năm
Kim ngạch NK
% tăng trưởng qua các năm
2006
300
90400
2007
460
53,3
132500
46,7
2008
600
30,4
182000
37,4
2009
720
20
228000
25,3
( Nguồn : Phòng Kế toán Công ty )
Kim ngạch ô tô nhập khẩu tăng mạnh có nguyên nhân chính xuất phát từ nhu cầu ô tô của thị trường Việt Nam, cùng với chính sách của Nhà nước tạo điều kiện cho thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu ô tô. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu ô tô trong nước, trên thế giới và tình hình nhập khẩu ô tô của Việt Nam.
Biểu đồ 2 : Kim ngạch NK của công ty qua các năm
Biểu đồ cho thấy rõ tốc độ tăng về kim ngạch nhập khẩu ô tô của công ty. Kim ngạch nhập khẩu năm 2007 tăng 46,7% so với năm 2006. Năm 2008, kim ngạch nhập khẩu tiếp tục tăng lên 37,4% so với năm 2007 nhưng tốc độ tăng chậm lại, đến năm 2009 kim ngạch nhập khẩu tăng lên 25,3% so với năm 2008. Điều đó chứng tỏ rằng công ty nỗ lực không ngừng đẩy mạnh nhập khẩu về số lượng mà cả về chất lượng thể hiện ở giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng lên qua các năm.
2.3.2.Cơ cấu theo giá, chất lượng, thị trường ô tô nhập khẩu của công ty.
2.3.2.1. Về cơ cấu :
Như đã đề cập ở trên, hoạt động nhập khẩu của công ty giữ vai trò chủ đạo. Trung bình hàng năm kim ngạch nhập khẩu ô tô chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty. Công ty nhập khẩu các mặt hàng như : thiết bị, linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô… nhưng ô tô là mặt hàng mà công ty nhập khẩu thường xuyên và có kim ngạch cao nhất và tỷ trọng giá trị nhập khẩu của ô tô luôn được duy trì ổn định qua các năm khẳng định rằng ô tô vẫn là mặt hàng chủ chốt của công ty.
Tuy nhiên, trong số những mặt hàng được phép nhập khẩu theo quy định của pháp luật, cơ cấu nhập khẩu chính của công ty vẫn chủ yếu là ô tô có mức giá trung bình. Cơ cấu nhập khẩu của công ty không có sự thay đổi. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, công ty không ngừng thay đổi mẫu mã, chủng loại ô tô.
2.3.2.2. Về giá nhập khẩu :
Cũng như hầu hết các đơn vị kinh doanh với mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận thì việc xem xét và lựa chọn giá trước khi kí hợp đồng mua bán là rất cần thiết. Đặc biệt là hoạt động nhập khẩu, giá cả ở một số thị trường lớn đóng vai trò quyết định và là cơ sở để người mua chấp nhận giá từ phía chào hàng đưa ra. Đối với Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội cũng vậy. Sau khi nhận được đơn chào hàng của nước ngoài chào bán, cơ sở để tính giá nhập khẩu của công ty là giá ở một số thị trường ô tô lớn trên thế giới, hoặc có thể tham khảo giá của bạn hàng truyền thống hay giá trên các tạp chí, bản tin có uy tín trên thế giới. Tuy nhiên, công ty không thể không tính đến giá đầu ra cho mặt hàng này nhằm đảm bảo thu lợi nhuận và làm ăn có hiệu quả. Để đi đến quyết định có chấp nhận giá của phía chào hàng đưa ra hay không, Công ty phải tính chênh lệch giữa giá nhập khẩu và giá bán ở thị trường trong nước, sau khi trừ đi các khoản chi phí có liên quan có thu được lợi nhuận hay không và khoản lợi nhuận thu được này có được coi là hiệu quả kinh doanh hay không? Hiện nay, giá nhập khẩu và bán lại ô tô trên thị trường Việt Nam của công ty : tùy từng chủng loại mà công ty sẽ nhập khẩu và bán lại với mức giá khác nhau. Ví dụ : giá nhập khẩu của xe ô tô con 5 chỗ Toyota Camry LE 2.5 lít, mới 100%, một cầu, tay lái thuận, xăng không pha chì là 16900 USD/chiếc ; Cảng Hải Phòng, giá bán từ 45000 – 55000 USD/chiếc.
Ô tô mà công ty nhập khẩu đa dạng về giá cả, giá mà công ty đưa ra dao động trong khoảng 35000 – 55000 USD/chiếc, cũng có những chiếc có giá lên tới 100000 USD/chiếc hầu hết những ô tô này được nhập khẩu theo yêu cầu đặt trước của khách hàng.
Ngoài việc thụ động chờ phía chào hàng đưa ra đơn giá, sau đó so sánh và đưa ra có quyết định có chấp nhận giá đó hay không, công ty cũng đẩy mạnh công tác nghiên tác, tìm hiểu thị trường để chuyển mình sang thế chủ động tìm đến những thị trường mới có giá thấp và đảm bảo cung cấp ổn định, lâu dài cho công ty.
2.3.2.3.Về chất lượng xe nhập khẩu :
Chất lượng là điều khoản quan trọng trong hợp đồng nhập khẩu. Nó cũng là yếu tố đóng vai trò quyết định đến giá cả của xe. Vì vậy, phải đề cập chi tiết, cụ thể về chất lượng và quy cách phẩm chất của hàng hóa để tránh xảy ra sự tranh chấp giữa người bán và người mua. Mỗi một mặt hàng có những quy định khác riêng về tiêu chuẩn phẩm chất và ở mỗi nước lại có những quy định khác nhau về mặt hàng đó, đối với ô tô cũng vậy. Nhưng khi tham gia vào buôn bán ngoại thương thì phải sử dụng những tiêu chuẩn mang tính quốc tế.
Đối với việc nhập khẩu ô tô, Nhà nước ta đã có những văn bản pháp lý cụ thể quy định tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với mặt hàng này. Nhờ những văn bản trên mà các doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu có thể dựa vào đó mà xem xét xem, xác định xem ô tô đó có đạt tiêu chuẩn chất lượng hay không, và đạt đến mức độ nào. Không những vậy, nó còn là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước trong việc quyết định cho phép nhập khẩu hay không, nếu cho phép nhập khẩu thì sẽ áp dụng mức thuế suất là bao nhiêu. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động nhập khẩu ô tô.
Ngoài yếu tố cạnh tranh về giá, Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội coi chất lượng là yếu tố cạnh tranh với các hãng sản xuất ô tô trong nước – với phương châm “ chất lượng là uy tín “.Người tiêu dùng Việt Nam thường có ít thông tin về chất lượng sản phẩm, lại có tâm lý thích “hàng hiệu”, không lợi dụng điều đó để bán hàng giá cao mà không đảm bảo chất lượng vì mục đích lợi nhuận mà bỏ qua đạo đức kinh doanh, chất lượng ô tô do Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội nhập khẩu không chỉ đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của Việt Nam theo quy định của pháp luật đối với mặt hàng ô tô mà còn phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Nắm bắt được đặc điểm thị trường trong nước, thị hiếu của người tiêu dùng, ô tô mà công ty nhập khẩu không những đảm bảo về chất lượng mà còn đa dạng về phong cách, phong phú mẫu mã, thời trang.
2.3.2.4 Về thị trường nhập khẩu :
Thị trường nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội. Một thị trường lớn, phong phú về số lượng cũng như mẫu mã sẽ tạo cơ hội cho công ty trong việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu của mình một cách tối ưu nhất. Hoạt động nhập khẩu có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào thị trường nhập khẩu. Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững chắc và lâu dài có ý nghĩa to lớn trong quá trình nhập khẩu.
Ngay từ khi thành lập, công ty đã tìm đến và quan hệ với một số đối nhà cung cấp có uy tín lớn trên thế giới. Thị trường nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội bao gồm có : Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đức, Anh, Italia, các nước ASEAN, Trung Quốc... Tuy nhiên chủ yếu vẫn là 3 thị trường chính : Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ. Ba khu vực thị trường này có những đặc điểm khác nhau về điều kiện sản xuất và tập quán kinh doanh. Chính vì vậy mà tỷ trọng nhập khẩu của công ty trên mỗi khu vực thị trường là khác nhau. Nhìn chung 4 năm gần đây công ty có quan hệ tốt với rất nhiều thị trường trên thế giới, tuy chưa có gì thay đổi đáng kể và tỷ trọng giữa các thị trường này không đồng đều. Thị trường trọng điểm của công ty vẫn là thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Bảng 6 : Kim ngạch nhập khẩu ô tô theo thị trường của công ty
Đơn vị : triệu VND
Nhật Bản
Hàn Quốc
Mỹ
Thị trường khác
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
Giá trị
Tỷ trọng %
2006
40350
44,63
30210
33,42
15310
16,94
4530
5,01
2007
60215
45,44
46650
35,21
16930
12,78
8705
6,57
2008
76860
42,23
66985
36,8
17850
9,81
20305
11,16
2009
91280
40,03
85730
37,6
23920
10,49
27070
11,88
(Nguồn : Phòng Kinh doanh Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội )
Biểu đồ 3 : Kim ngạch NK ô tô theo thị trường của công ty
- Thị trường Nhật Bản :
Qua nghiên cứu hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội những năm qua cho thấy rằng thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty là thị trường Nhật Bản. Đây là một cường quốc kinh tế trên thế giới có nền công nghiệp sản xuất ô tô lâu đời, họ áp dụng triệt để khoa học kỹ thuật tiên tiến vào dây chuyển sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao. Đây là thị trường rất được khách hàng trên thế giới tin tưởng. Chất lượng ô tô cũng như các linh kiện phụ tùng ô tô của Nhật Bản đã được khẳng định từ rất lâu, nó đã đi sâu vào tiềm thức của khách hàng, và lựa chọn hàng đầu mỗi khi khách hàng có nhu cầu mua ô tô cũng như các sản phẩm điện tử. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi mà các rào cản thuế quan và phi thuế quan dần được dỡ bỏ thì thương hiệu là yếu tố có tính cạnh tranh cao. Nhật Bản đã trở thành thương hiệu hàng đầu trên thế giới. Điều này giải thích một điều rằng : dù nền kinh tế có biến động thế nào thì vẫn có một lượng lớn khách hàng trung thành với các mặt hàng của Nhật Bản. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu của công ty từ thị trường này là 44,35 tỷ VND, chiếm 44,63% tổng giá trị nhập khẩu. Năm 2007 kim ngạch nhập khẩu đạt 60,215 tỷ VND tăng lên 45,44%. Nhưng đến năm 2008 kim ngạch nhập khẩu của công ty từ thị trường Nhật Bản có tăng lên 76,86 tỷ VND nhưng tỷ trọng lại giảm xuống còn 42,23%. Tình trạng này tiếp tục kéo theo sang năm 2009 kim ngạch nhập khẩu của công ty từ Nhật Bản tăng lên 91,28 tỷ VND nhưng tỷ trọng giảm còn 40,03%. Nguyên nhân là do những năm gần đây ngoài thị trường chính công ty mở rộng làm ăn với các thị trường khác như Anh, Đức... Đồng thời thị trường các nước ASEAN và thị trường các nước Trung Quốc, Đài Loan phát triển mạnh về cả chất lượng và số lượng với giá rẻ hơn thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, qua các năm thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường có tỷ trọng lớn nhất của công ty.
- Thị trường Hàn Quốc :
Đối với thị trường Hàn Quốc, đây là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai của Công ty ( sau Nhật Bản ). Ngay từ những ngày đầu thành lập, công ty đã chính thức nhập khẩu các loại ô tô của Hàn Quốc. Đây là thị trường cung cấp nguồn hàng với chất lượng tốt, giá cả hợp lý và mẫu mã thời trang, đây là những thế mạnh đánh trúng tâm lý của người tiêu dùng. Điều này được thể hiện ở kim ngạch nhập khẩu của công ty từ thị trường Hàn Quốc đều tăng qua các năm, tỷ trọng nhập khẩu của công ty từ thị trường Hàn Quốc cũng tăng một cách đều đặn qua các năm. Cụ thể : năm 2006 đạt 30,21 tỷ VND chiếm 33,42% tổng giá trị nhập khẩu của công ty; năm 2007 đạt 46,65 tỷ VND chiếm 35,21%; năm 2008 đạt 66,985 tỷ VND chiếm 36,7%; năm 2009 đạt 85,73 tỷ VND chiếm 37,6%.
- Thị trường Mỹ :
Ngược lại với thị trường Hàn Quốc, thị trường Mỹ lại có diễn biến theo chiều hướng xấu đi. Mặc dù kim ngạch nhập khẩu của công ty từ Mỹ tăng lên một cách đều đặn : năm 2007 kim ngạch nhập khẩu của Công ty từ thị trường này đạt 15,31 tỷ VND; năm 2007 đạt 16,93 tỷ VND; năm 2008 đạt 17,85 tỷ VND nhưng tỷ trọng giá trị nhập khẩu của công ty từ thị trường này lại giảm, đặc biệt năm 2008 chỉ chiếm 9,81%. Điều này có thể lý giải được. Cho đến nay ô tô Mỹ vẫn khẳng định vị trí số một xét về mọi mặt – “ những chiếc xe với giá mà không phải ai cũng có thể sở hữu “. Đối tượng khách hàng có nhu cầu về mặt hàng này rất ít. Năm 2008, kinh tế thế giới đã trải qua nhiều biến động với sự tăng giảm kỷ lục của các loại hàng hóa, hệ thống tài chính rơi vào khủng hoảng…mà nơi khởi nguồn là Mỹ. Việc nhập khẩu các mặt hàng từ thị trường Mỹ của Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội gặp phải khó khăn, trong khi đó nhu cầu của khách hàng về ô tô Mỹ giảm đáng kể. Một điều đáng nói hơn nữa, năm 2009, tình hình nhập khẩu từ thị trường Mỹ không những không xấu đi do hệ quả của năm 2008 mà còn có những tín hiệu khả quan hơn. Thể hiện cụ thể ở kết quả sau : kim ngạch nhập khẩu của công ty từ Mỹ năm 2009 tăng ở mức kỷ lục là 23,92 tỷ VND ( tăng hơn 6 tỷ VND so với năm 2008 ), chiếm 10,49% tổng giá trị nhập khẩu của công ty. Điều này cho thấy rằng nhu cầu về những chiếc xe “đẳng cấp” ở nước ta giảm xuống trong thời gian qua chỉ mang tính chất tạm thời, ngắn hạn, khi mà nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển, số lượng những người “tỷ phú” giàu có ngày càng tăng thì nhu cầu những chiếc xe đắt giá cũng theo đó mà tăng lên.
- Để có cái nhìn trực quan hơn từ những phân tích trên để thấy rõ được sự thay đổi kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường mới trong tổng giá trị nhập khẩu của công ty, chúng ta có thể xem hai hình vẽ kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường của công ty vào năm 2006, năm 2009 ( năm đầu và năm cuối của thời kỳ nghiên cứu, phân tích ) dưới đây :
Hình 1 : Kim ngạch NK của công ty theo thị trường năm 2006
Hình 2 : Kim ngạch NK của công ty theo thị trường năm 2009
Bên cạnh việc chú trọng giữ tăng trưởng ổn định trên các thị trường chủ đạo, công ty có biện pháp tích cực để tìm đến các thị trường mới. Hiện nay, công ty đang có những bước đi đúng đắn trong việc xâm nhập vào các thị trường mới nhiều tiềm năng như Anh, Đức, Italia, các nước ASEAN... Qua hai hình vẽ, chúng ta có thể thấy được sự đóng góp của khu vực thị trường mới này trong tổng giá trị nhập khẩu của công ty ngày càng tăng lên. Điều này cũng cho thấy rằng nhu cầu của thị trường về các loại ô tô từ thị trường liên tục tăng qua các năm, và được thể hiện thông qua kim ngạch nhập khẩu của công ty từ những thị trường mới này ngày càng tăng, kéo theo tỷ trọng giá trị nhập khẩu của công ty từ các thị trường này trong tổng giá trị nhập khẩu của công ty ngày một tăng lên.
2.3.3.Hình thức nhập khẩu ô tô của công ty.
Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội hoạt động nhập khẩu chủ yếu dưới hai hình thức chính là nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu ủy thác. Trong đó nhập khẩu trực tiếp là chính. Hình thức nhập khẩu trực tiếp được công ty chọn là hình thức chính vì các thủ tục đều khá rõ ràng, có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể và không phức tạp, chỉ có sự tham gia của hai đối tác chính đó là Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội và nhà xuất khẩu nước ngoài. Với hình thức này đã giúp ích được rất nhiều cho hoạt động kinh doanh của công ty về tiền bạc và thời gian.
Bảng 7 : Hình thức nhập khẩu của Công ty.
Đơn vị : triệu VND
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Giá trị NK
Tỷ trọng %
Giá trị NK
Tỷ trọng %
Giá trị NK
Tỷ trọng %
NK trực tiếp
106000
80
138320
76
166440
73
NK ủy thác
26500
20
43680
24
61560
25
Tổng giá trị NK
132500
100
182000
100
228000
100
(Nguồn : Phòng Kinh doanh Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội )
Từ bảng số liệu trên cho thấy hoạt động nhập khẩu ô tô của công ty chủ yếu thông qua hình thức nhập khẩu trực tiếp. Cụ thể : năm 2007 nhập khẩu trực tiếp chiếm 80% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ô tô của công ty, năm 2008 chiếm 76%, năm 2009 chiếm 75%. Nhập khẩu ủy thác chủ yếu thông qua các công ty đối tác trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ, cụ thể năm 2007 chiếm 20%, năm 2008 chiếm 24%, năm 2009 chiếm 25%. Tuy nhiên nhập khẩu ô tô ủy thác theo hình thức trực tiếp có xu hướng giảm do công ty có mối quan hệ với một số công ty nhập khẩu chuyên nghiệp trong nước nên một số hợp đồng đã ủy thác cho đối tác nhập khẩu hộ. Phương thức nhập khẩu chủ yếu là nhập khẩu theo giá CIF, địa điểm giao hàng tại cảng Hải Phòng hoặc cảng TP.Hồ Chí Minh.
2.3.4.Phương thức thanh toán.
Thanh toán quốc thương mại quốc tế là một trong những khâu quan trọng và phức tạp, đòi hỏi nhiều thủ tục ràng buộc và rủi ro. Ngày nay nhiều phương thức thanh toán được hoàn thiện hơn, chặt chẽ hơn, ít rủi ro hơn, đảm bảo quyền lợi cho cả bên xuất khẩu và bên nhập khẩu trong buôn bán quốc tế. Trong những phương thức thanh toán phổ biến hiện nay như : thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng nhờ thu, thanh toán bằng phương thức chuyển tiền, thanh toán bằng phương thức mở thư tín dụng L/C,…Đối với từng khách hàng công ty áp dụng những phương thức thanh toán khác nhau. Đối với những đối tác bạn hàng thường xuyên, có tín nhiệm công ty sử dụng phương thức thanh toán nhờ thu ( vì phương thức này nhanh chóng và có chi phí thấp hơn ). Đối với những hợp đồng nhập khẩu có giá trị lớn, hoặc với những khách hàng không thường xuyên, với khách hàng mới thì công ty thường sử dụng phương thức thanh toán mở thư tín dụng L/C nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán. Phương thức thanh toán nhờ thu đang được áp dụng nhiều hơn so với phương thức thanh toán mở thư tín dụng L/C. Điều đó chứng tỏ công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội đang dần trở thành đối tác tin cậy của bạn hàng quốc tế.
2.3.5.Kết quả kinh doanh nhập khẩu ô tô của Công ty.
Bảng 8 : Kết quả hoạt động kinh doanh NK ô tô của Công ty
Đơn vị : triệu VND
STT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
1
Doanh thu hàng NK
98540
142747
192634
239800
2
Kim ngạch NK
90400
132500
182000
228000
3
Lợi nhuận trước thuế
8540
10247
12634
11800
4
Thuế TNDN
2135
2561,75
3158,5
2950
5
Lợi nhuận sau thuế
6405
7685,25
9475,5
8850
( Nguồn : Phòng Kế toán của Công ty )
Qua bảng trên ta thấy, doanh thu từ hoạt động nhập khẩu của công ty những năm qua liên tục tăng từ 98,54 tỷ VND năm 2006 lên đến 239,8 tỷ VND năm 2009. Năm 2006 tổng doanh thu bán hàng nhập khẩu của công ty đạt 98,54 tỷ VND, lợi nhuận trước thuế của công ty đạt 8,54 tỷ VND. Năm 2007 tổng doanh thu đạt 142,747 tỷ VND tăng lên 44,86% , lợi nhuận trước thuế đạt 10,247 tỷ VND tăng lên 20% so với năm 2006. Tốc độ tăng lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu. Năm 2008, tổng doanh thu đạt 192,634 tỷ VND tăng 34,9 %. Mặc dù tổng doanh thu tăng lên nhưng tốc độ tăng giảm rõ rệt so với năm 2007. Năm 2008, mặc dù còn chịu ảnh hưởng hậu quả của sự sụt giảm nền kinh tế nhưng nhìn chung bước đầu công ty đang đi đúng hướng trong quá trình đề ra mục tiêu kế hoạch hoạt động. Lợi nhuận trước thuế của công ty đạt 12,634 tỷ VND tăng lên 23,3% so với năm 2007. Đây là một điều đáng khen ngợi đối với công ty vì năm 2008 có thể nói là một năm đầy sóng gió với công ty khi các yếu tố trên thị trường đều biến động mạnh. Như tỷ lệ lạm phát tăng cao và các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi cả đồng nội tệ và ngoại tệ , điều đó có nghĩa là lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng đồng loạt tăng lên, kéo theo đó sẽ chính là sự tăng chi phí kinh doanh của công ty.
Biểu đồ 4 : Biểu đồ thể hiện doanh thu hàng NK, kim ngạch NK, lợi nhuận trước thuế của Công ty qua các năm.
Đơn vị : triệu VND
Tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng nhập khẩu và kim ngạch nhập khẩu của công ty đều đặn qua các năm, cụ thể là tăng lên khoảng 50% so với năm trước. Tốc độ tăng lợi nhuận thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng doanh thu và kim ngạch nhẩu, khoảng 20%. Ta thấy hai đường biểu diễn doanh thu hàng nhập khẩu và kim ngạch nhập khẩu gần như song song với nhau cao và dốc hơn đường biểu diễn lợi nhuận trước thuế. Đến năm 2009, lúc này các sóng gió trên thị trường đã thực sự có tác động mạnh mẽ và hậu quả của nó để lại thực sự đáng kể cho công ty. Doanh thu bán hàng nhập khẩu của công ty năm 2009 đạt 239,8 tỷ VND tăng lên 24,48% so với năm 2008, lợi nhuận trước thuế của công ty năm 2009 chỉ đạt 11,8 tỷ VND giảm 6,6% so với năm 2008.
Doanh thu hàng nhập khẩu của công ty liên tục tăng phản ánh tình hình kinh doanh khả quan của công ty. Những năm qua công ty luôn đứng vững, kinh doanh có lợi nhuận ngày càng phát triển, thể hiện nỗ lực đáng trân trọng của nhân viên công ty.
Bảng 9 : Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu hàng NK, kim ngạch NK, lợi nhuận trước thuế qua các năm
Đơn vị : %
Chỉ tiêu
2007/2006
2008/2007
2009/2008
Doanh thu hàng NK
144,86
195,5
124,48
Kim ngạch NK
146,7
201,3
125,27
Lợi nhuận trước thuế
120
147,9
93,4
Từ bảng trên ta có biểu đồ sau :
Biểu đồ 5 : Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu hàng NK, kim ngạch NK, lợi nhuận trước thuế qua các năm
Giai đoạn 2006 – 2008 đường biểu diễn tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu hàng nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu, lợi nhuận trước thuế đều đi lên thể hiện sự tăng trưởng. Đến năm 2009, cả 3 đường này đều đi xuống, đường lợi nhuận trước thuế có điểm mút thấp nhất – tăng trưởng âm so với năm 2008. Năm 2009 là năm có tốc độ tăng trưởng chậm nhất so với các năm cả về doanh thu bán hàng và kim ngạch nhập khẩu. Đây là năm đầy thách thức với toàn công ty, trước những biến động của thị trường, những chính sách của Chính phủ đưa ra nhằm ổn định thị trường khiến cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư cũng như người tiêu dùng có tâm lý chờ đợi “nghe ngóng” tình hình – một trong những nguyên nhân tạo áp lực cho công ty trong việc cân nhắc, quyết định nhập khẩu hay không, nhập những mặt hàng nào, và giá nhập là bao nhiều để có thể đảm bảo nguồn vốn, duy trì hoạt động của công ty. Điều này là không thể tránh khỏi, nhất là đối với một doanh nghiệp mới thành lập, quy mô nhỏ và Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội cũng không nằm ngoại lệ. Cùng thời điểm này, thị trường xe nhập ngoại của Việt Nam có thêm nhiều thương hiệu mới, mẫu mã hoàn toàn mới, ví dụ như : 4 mẫu xe New Beetle, Passat, Tiguan Và Touarg của Volkswagen ( Đức ) do World Auto phân phối; 3 mẫu xe Chrysler 300C, Jeep Wrangler, Dodge Journey và Nitro của Chrysler ( Mỹ ) do ô tô Đông Dương phân phối, xe Subaru của Nhật Bản do công ty Hình tượng ô tô phân phối…Càng về cuối năm thì sức mua trên thị trường ô tô nhập khẩu càng trở nên ảm đạm rõ rệt. Nguyên nhân là do cận kề thời điểm chấm dứt gói ưu đãi thuế VAT và phí trước bạ (thuế VAT được giảm 50% từ 1/2/2009 đến 31/12/2009, phí trước bạ đối với ô tô được giảm 1/5/2009 đến 31/12/2009 ) nên khi bước sang tháng 12, khách hàng có nhu cầu ô tô nhập khẩu đã dừng hợp đồng đặt xe mới. Công ty đã ngừng thực hiện các đơn hàng để tập trung bán nốt số xe đã nhập về, vì vậy lượng xe nhập trong tháng cuối năm 2009 chủ yếu là của các hợp đồng đã ký từ trước.
Những khó khăn trong thời gian qua sẽ là bài học kinh nghiệm giúp công ty trưởng thành hơn và sẽ là động lực thúc đẩy công ty cố gắng hơn gấp nhiều lần so với những năm trước. Tuy nhiên, trong 3 tháng đầu năm 2010, số lượng ô tô nhập khẩu của công ty là 200 chiếc, với giá trị nhập khẩu xấp xỉ 67 tỷ VND, dấu hiệu đáng mừng khẳng định sự vững vàng của công ty. Chúng ta hy vọng sự phát triển của lớn mạnh công ty trong thời gian tới.
2.3.5.1.Tình hình kinh doanh nhập khẩu ô tô của Công ty phân theo bộ phận bán hàng.
Công ty cổ phần XNK ô tô Hà Nội tổ chức kinh doanh theo hướng chuyên môn hóa. Đây là một phương pháp phát huy được nhiều lợi thế của mỗi bộ phận đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các bộ phận kinh doanh trong công ty góp phần tạo điều kiện cho các bộ phận kinh doanh phát huy tối đa sức mạnh của mình. Hiện tại thì công ty có 3 chi nhánh chính :
Chi nhánh 1 : 425 Nguyễn Văn Cừ - Long Biên – Hà Nội.
Chi nhánh 2 : 45 Hồ Tùng Mậu – Cầu Giấy – Hà Nội.
Chi nhánh 3 : 27 Tô Hiệu – TP. Hải Phòng.
Bảng 10 : Kết quả kinh doanh ô tô NK phân theo bộ phận kinh doanh.
Đơn vị : triệu VND
2007
2008
2009
Doanh thu
bán hàng NK
Tỷ trọng %
Doanh thu
bán hàng NK
Tỷ trọng %
Doanh thu
bán hàng NK
Tỷ trọng %
Chi nhánh 1
58950
41,3
78054
40,5
91200
40
Chi nhánh 2
51387
36
68740
35,7
82080
36
Chi nhánh 3
32410
22,7
45840
23,8
54720
24
Tổng
142747
100
192634
100
228000
100
( Nguồn : Phòng Kinh doanh Công ty )
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy rằng Chi nhánh 1 có doanh thu bán hàng nhập khẩu là lớn nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong các chi nhánh của công ty. Sở dĩ như vậy là do Chi nhánh 1 ra đời sớm nhất, được khách hàng biết đến từ những ngày đầu mới thành lập. Năm 2007, doanh thu bán hàng của Chi nhánh 1 là 58,95 tỷ VND chiếm 41,3% tổng doanh thu bán hàng nhập khẩu của công ty. Năm 2008, doanh thu bán hàng của Chi nhánh 1 tăng lên 78,054 tỷ VND, chiếm 40,5% tỷ trọng này giảm so với năm 2007. Năm 2009 cũng vậy, doanh thu bán hàng của Chi nhánh 1 tiếp tục tăng lên đến 91,2 tỷ VND chiếm 40% tổng doanh thu bán hàng của công ty. Đứng thứ hai về doanh thu bán hàng nhập khẩu là Chi nhánh 2, năm 2007 doanh thu bán hàng của Chi nhánh 2 là 51,387 tỷ VND chiếm 36%. Năm 2008, doanh thu tiếp tục tăng và đạt 68,740 tỷ VND. Năm 2009, doanh thu tăng lên 82,08 tỷ VND, tỷ trọng vẫn giữ ở mức 36%. Cũng giống như Chi nhánh 1, năm 2008 tỷ trọng của Chi nhánh 2 giảm xuống còn 35,7% nhưng đến năm 2009 có dấu hiệu tăng trở lại 36%. Nhìn chung biên độ biến đổi tỷ trọng tăng lên hay giảm xuống của hai chi nhánh là không đáng kể. Hai chi nhánh này đều thuộc địa bàn Hà Nội nên có những đặc điểm tương đồn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng NK của Cty cổ phần XNK ô tô Hà Nội và một số kiến nghị.doc