LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM 2
I. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN 2
1. Khái quát chung về xuất bản 2
1.1. Khái niệm 2
1.2. Vai trò 3
1.3. Đặc điểm 4
2. Hiệu quả & những đặc trưng về quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản 6
2.1. Hiệu quả của quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản 6
2.2. Những đặc trưng của quản lý Nhà nước bằng pháp luật về
xuất bản 8
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 11
1. Pháp luật - phương tiện quản lý Nhà nước về xuất bản 11
1.1. Pháp luật tạo lập môi trường tự do sáng tạo, bình đẳng cho các chủ thể trong hoạt động xuất bản 11
1.2. Pháp luật bảo vệ lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học 11
1.3. Pháp luật đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xuất bản 12
2. Nội dung điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản 12
2.1. Hoạch định chiến lược phát triển xuất bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa 12
2.2. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật trên các lính vực khác nhau của
xuất bản 13
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM & NHỮNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN 16
I. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM 16
1. Sự hình thành hoạt động quản lý Nhà nước bằng pháp luật ở Việt Nam 16
2. Thực trạng Pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam 17
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM 22
1. Về lý luận 22
2. Về thực tiến 23
Chương 3: ĐỔI MỚI & HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 30
I. HỆ THỐNG NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 30
1. Pháp luật bảo đảm quyền tự do sáng tạo, công bố & phổ biến xuất bản phẩm 30
2. Pháp luật bảo đảm định hướng XHCN đối với xuất bản trong điều kiện cơ chế thị trường 31
3. Pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng & tự do trong hoạt động xuất bản 32
4. Mở rộng giao lưu quốc tế về văn hoá, phát triển xuất bản là hoà nhập vào pháp luật và thông lệ quốc tế 33
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XUẤT BẢN 35
1. Phương hướng đổi mới & hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản 35
2. Các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới & hoàn thiện pháp luật trong quản lý Nhà nước về xuất bản 44
KẾT LUẬN 49
TẦI LIỆU THAM KHẢO 51
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2928 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản ở Việt Nam và những yêu cầu đổi mới trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, in lậu, trốn thuế, vi phạm những quy định pháp luật về xuất bản. Đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề thiếu về số lượng và không đáp ứng được yêu cầu của công nghệ in hiện đại.
- Mạng lưới phát hành sách phát triển không đều ở các vùng, miền trong cả nước, chủ yếu tập trung ở các đô thị, thành phố lớn, còn ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc chưa được chú trọng, sách đến còn ít. Phát hành sách Nhà nước đôi khi còn lúng túng về phương thức hoạt động, chưa đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống phát hành, cá biệt ở một số khu vực còn bị phát hành sách tư nhân chèn ép.
Hoạt động xuất bản sau 3 năm thực hiện Chỉ thị 42 đã góp phần quan trọng và tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng của Đảng. Ngành xuất bản có bước phát triển nhanh, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, phát triển cả về tiềm lực, năng lực, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về xuất bản phẩm của xã hội, góp phần xứng đáng vào việc phát triển một nền xuất bản độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, cả nước có 55 nhà xuất bản, 1.200 cơ sở in, 129 công ty phát hành sách quốc doanh và khoảng 12.000 cửa hàng, nhà sách tư nhân. Thực trạng hoạt động xuất bản sau 3 năm thực hiện Chỉ thị 42 đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
- Công tác tuyên truyền, quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ trong ngành hiểu rõ ý nghĩa, tinh thần của Chỉ thị 42, từ đó có những việc làm cụ thể đưa Chỉ thị về xuất bản của Đảng vào cuộc sống.
- Hoạt động xuất bản thực hiện định hướng phát triển toàn ngành, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của đất nước; nâng cao chất lượng của các xuất bản phẩm, phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của các đối tượng đọc khác nhau, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hóa dân tộc.
- Tập trung xây dựng tiềm lực và năng lực của hoạt động xuất bản, hoạt động xuất bản đã từng bước thích ứng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 3 năm (2004 - 2007) tốc độ phát triển của toàn ngành xuất bản không ngừng tăng. Năm 2004, xuất bản được 19.695 tên sách với 242,700 triệu bản; năm 2007 với 26.609 tên sách (tăng 146% so với năm 2004), đạt 276,447 triệu bản, mức hưởng thụ bình quân 3,3 bản sách/người/ năm.
Cơ quan chỉ đạo của Đảng và cơ quan quản lý nhà nước đã chú trọng xây dựng quy hoạch ngành xuất bản và xác định lại chức năng, nhiệm vụ của các nhà xuất bản. Trong 3 năm qua đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng theo tinh thần của Chỉ thị 42. Đó là: Luật Xuất bản (2004), Nghị định 111 (2005), về hỗ trợ mua bản quyền tác giả trong hoạt động xuất bản. Việc áp dụng các tiến độ khoa học kỹ thuật trong ngành in được chú trọng, chất lượng các sản phẩm in bảo đảm tốt hơn
- Hoạt động các nguồn lực cho ngành xuất bản; phát triển nhu cầu văn hóa đọc của nhân dân đã có chuyển biến rõ nét, việc đổi mới, sắp xếp một số nhà xuất bản chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp in và phát hành sách nhà nước đã tạo động lực cho toàn ngành xuất bản phát triển. Cổ phần hóa doanh nghiệp phát hành sách nhà nước đã làm thay đổi nhận thức, tạo thế chủ động cho doanh nghiệp. Đến tháng 12 năm 2007, đã có 36 doanh nghiệp cổ phần hóa.
Một số nhà xuất bản thu hút tư nhân góp trên 50% vốn tham gia xuất bản sách và độc quyền phát hành một số tên sách. Hệ thống phát hành sách thuộc thành phần kinh tế tư nhân năng động và phát triển khá nhanh. Xuất hiện nhiều nhà sách có năng lực và tiềm lực lớn, có tâm huyết và kinh nghiệm trong liên kết xuất bản và phát hành. Ngành xuất bản đã chủ động hội nhập quốc tế và tham gia các hoạt động quốc tế về xuất bản.
- Đào tạo nguồn nhân lực gắn liền với thực tiễn sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động của các nhà xuất bản tăng nhanh, trình độ đại học và trên đại học chiếm hơn 70%. Các cơ sở đào tạo đã chủ động hơn trong xây dựng khung chương trình sát với yêu cầu của thực tiễn xuất bản, đã biên soạn được một số bộ giáo trình chuyên ngành, phù hợp hơn với phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính chủ động của sinh viên. Xuất hiện một số hình thức “tự đào tạo” ở một số nhà xuất bản, cơ sở in. Một số cơ sở đào tạo đã tổ chức đào tạo trên đại học cho biên tập viên và cử nhân phát hành sách.
Bên cạnh đó, những mặt yếu kém, tồn tại cần phải phắc phục đó là:
Công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước về xuất bản chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn hoạt động xuất bản. Chất lượng xuất bản phẩm chưa được nâng cao, cơ cấu sách ở nước ta còn bất hợp lý: 80% số lượng bản sách xuất bản là sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo dành cho nhà trường, trong khi đó, số bản sách phục vụ chung chỉ có 20%. Còn một số xuất bản phẩm có nội dung lệch lạc về chính trị - tư tưởng, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội. Về năng lực và tiềm lực của hoạt động xuất bản, ngành xuất bản có quy mô sản xuất và tổ chức kinh doanh nhỏ bé, khó khăn về vốn, hiệu quả thấp, chưa được các cơ quan chủ quản quan tâm và đầu tư đúng mức. Cơ sở in tuy nhiều nhưng đa số quy mô nhỏ bé, năng lực cạnh tranh yếu.
Chưa giải quyết kịp thời và có hiệu quả những bức xúc của ngành, chưa ngăn chặn và đẩy lùi nạn sách lậu; xuất bản phẩm xuất khẩu chưa làm tốt công tác quảng bá và giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam; số sách đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa đáp ứng yêu cầu; xã hội hóa hoạt động xuất bản chưa phát huy được mọi nguồn lực xã hội, còn có khuynh hướng thương mại hóa, tư nhân hóa; công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, quy hoạch cán bộ còn nhiều bất cập.
II. NhỮng yêu cẦu đỔi mỚi, hoàn thiỆn pháp luẬt vỀ xuẤt bẢn Ở ViỆt Nam
Là phương tiện quan trọng hàng đầu của Nhà nước trong việc quản lý xã hội, pháp luật phải là những chuẩn mực chung, có giá trị thực tế trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nhưng mọi dự án luật đều được ban hành trong một thời điểm nhất định, trong khi cuộc sống muôn hình muôn vẻ, ở đó các quan hệ xã hội nhằm trong quá trình chuyển dịch theo các quy luật phát triển của xã hội, đặc biệt trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về xuất bản được đặt ra như một tất yếu. Có thể xem xét các yêu cầu hoàn thiện pháp luật xuất bản về phương diện lý luận và thực tiễn sau:
1. Về mặt lý luận
Trong hoạt động xuất bản, các quan hệ xã hội rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Nó đan xen giữa văn hoá - tư tưởng với kinh tế, giữa lao động sáng tạo của tư duy với lao động sản xuất vật chất, nó xuyên suốt quá trình sản xuất - lưu thông và tiêu dùng xuất bản phẩm. Việc nhận thức đúng và đủ các quan hệ xã hội trong xuất bản để từ đó đề ra được các quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh cũng phải trải qua một quá trình.
Việt Nam sau khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp mọc lên như nấm với đủ loại ngành nghề khác nhau và ngày càng tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt. Lực lượng lao động dồi dào và chi phí lao động rẻ, môi trường kinh tế, chính trị ổn định tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
Định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước đề ra là mở cửa nền kinh tế, tăng cường hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, về cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển vào những năm 2020. Phấn đấu năm 2005-2010 Việt Nam đạt mức tăng trưởng GDP là 7,5%.
Cơ chế kinh tế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải đứng vững trên thị trường bằng chính đôi chân, năng lực thực sự của mình, nhất là phải tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh theo sự thay đổi của thị trường, chuyển những gì mình có sang những gì thị trường cần.
2. Về mặt thực tiến
Trước kia, xuất bản, in, phát hành phân định minh bạch. Nhà xuất bản hoàn tất bản thảo, đưa sang nhà in, khi thành sách, chuyển giao công ty phát hành tiêu thụ. Một dây chuyền gồm các công đoạn độc lập và nối kết liên hoàn, luôn luôn gắn bó, mang tính thống nhất và khép kín là đặc điểm nổi trội trong hoạt động xuất bản sách. Không có những va chạm, tranh chấp, bon chen. Sách độc hại, sách thiếu lành mạnh không thể len lỏi và có chỗ đứng. Sách in đúng số lượng. Không thấy sách in lậu, in nhái. Sách được phân bố đều đến miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa nông thôn. Bước vào thời kỳ đổi mới, xuất bản sách có những biến chuyển để thích ứng. Nhu cầu sách tăng lên, đòi hỏi sách đa dạng chủng loại, cung cấp nhiều mặt tri thức và có hình thức đẹp hơn. Xuất bản sách có cơ hội chuyển biến và mở rộng quy mô. Nhà xuất bản không còn là đơn vị hành chính- sự nghiệp. In và phát hành sách không chỉ có doanh nghiệp quốc doanh. Xuất bản và phát hành dứt dần chuyên ngành, xâm nhập và lấn lướt nhau. Sự gắn bó sẵn có lu mờ, rạn nứt.
Nhằm thâu tóm toàn bộ lợi nhuận, không phải phân chia, một số nhà xuất bản lập xưởng in và tự phát hành sách. Ngược lại, phía phát hành cũng nhận xuất bản và in. Tuy thế, số cơ sở có tiềm lực mạnh làm được là ít ỏi. Phần đông thiếu vốn, thiếu lao động thạo nghề, phải tìm đối tác. Những người làm sách "tự do" năng động trong tiếp cận thị hiếu bạn đọc và có nguồn tài chính sẵn sàng liên kết, liên doanh. Bên cạnh mặt đóng góp, tạo nên thị trường sách sôi động và có những cuốn sách hay thì cũng nảy sinh những tiêu cực. Khai thác triệt để những điểm yếu của nhà xuất bản và bằng đút lót, chia chác kín đáo, họ mua giấy phép, thậm chí đặt hàng người soạn sách, viết sách, chọn những sách ấn hành từ lâu rồi thông qua trả phí quản lý, mượn tư cách pháp nhân nhà xuất bản làm trọn gói. Trốn thuế, trả công in hậu hoặc tự in, tính giá thành sách rẻ, họ đẩy chiết khấu lên cao, thu hút các hiệu sách, quầy sách, gây nhiễu trong phát hành. Tương tự, phát hành làm xuất bản và in cũng trượt trên con đường ngoắt ngoéo ấy. Dù là hàng hóa đặc biệt, sách cũng không ngoài quy luật giá trị và cung cầu trở thành lập luận được hiểu và vận dụng một cách thô thiển, phiến diện, xao nhãng tiêu chí "xuất bản sách không phải hoạt động kinh doanh đơn thuần". Vì thế, xuất bản, in, phát hành đã thụ động, bị chi phối, chạy đua cạnh tranh, tiếp tay cho những cuốn sách không đáng có hiện hình. Vận hành trong một mô hình đan xen phức tạp và không rõ ràng, tất yếu dẫn đến những sai phạm, tiếc thay có cả những nhà xuất bản có uy tín. Cùng với kẽ hở trong cơ chế, còn những lý do khác.
Dạo qua thị trường sách hiện nay, có thể thấy không ít nổi cộm đã tồn tại từ nhiều năm qua. Ðó là sự xuất hiện tràn lan của các loại sách mê tín dị đoan, có nội dung xấu về tư tưởng, chính trị, văn hóa, lối sống không lành mạnh, phần nào tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
Hiện tượng sách lậu công khai dẫn đến chất lượng in ấn kém, tình trạng xâm phạm bản quyền ảnh hưởng quyền lợi của NXB và người sáng tác. Ít tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao; nhiều sách tái bản, sách biên soạn "xào xáo" nhiều sai sót, trùng lặp, kém chất lượng.
Xuất bản phẩm nhập khẩu vượt trội so với xuất khẩu (nhập 70%, xuất 30%), cho nên việc quảng bá, giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam ra thế giới còn hạn chế. Sách đến các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo và vùng dân tộc thiểu số quá ít, nghèo nàn làm tăng sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, tầng lớp nhân dân...
Trước hết, cần phải nhìn nhận lại những khuyết điểm từ khâu chịu trách nhiệm trực tiếp là các NXB. Ðó là việc thực hiện các quy định pháp luật về xuất bản còn chưa nghiêm túc, cụ thể như: hiện tượng đăng ký kế hoạch xuất bản không phù hợp tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của NXB thể hiện tập trung ở các đề tài tôn giáo, phóng sự xã hội, phong thủy, tâm linh; đăng ký kế hoạch xuất bản nhiều mà triển khai thực hiện rất thấp; xuất bản phẩm trước 1975 và tác phẩm dịch nước ngoài khi đăng ký kế hoạch xuất bản không thực hiện đúng quy định, v.v.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, Cục Xuất bản còn thiếu cương quyết trong việc xác nhận đăng ký kế hoạch về một số đề tài sai chức năng, nhiệm vụ; công tác quản lý chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn xuất bản; các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách còn thiếu và chưa đồng bộ; chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn việc in lậu, vi phạm bản quyền.
Bên cạnh đó, là hiện tượng một số sở văn hóa - thông tin cấp phép xuất bản tài liệu không kinh doanh vượt quá thẩm quyền; nộp lưu chiểu các xuất bản phẩm đã cấp phép xuất bản thường chậm hoặc không nộp; phối hợp các cơ quan quản lý về xuất bản ở trung ương chưa thường xuyên nên giải quyết các vụ việc chậm, thiếu hiệu quả.
Ông Nguyễn Kiểm, Cục trưởng xuất bản đã thẳng thắn nhìn nhận: "Cơ quan quản lý còn thiếu kiên quyết trong việc đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt NXB và tổ chức bộ phận tham mưu cho cơ quan chủ quản NXB; thiếu kiên quyết kiểm tra và chưa có biện pháp phù hợp yêu cầu các cơ quan chủ quản thực hiện trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm những điều kiện cần thiết khác để NXB hoạt động".
Trước thực tế đó, cố gắng, nỗ lực của các cơ quan chủ quản và đơn vị xuất bản là hết sức cần thiết để khẩn trương khắc phục những tồn tại, khiếm khuyết; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy quản lý, sản xuất, kinh doanh để hoạt động xuất bản phát triển thật sự ổn định, lành mạnh, hiệu quả.
Quản lý bất cập
Theo luật định, giám đốc nhà xuất bản phải quản lý toàn diện công việc và cùng tổng biên tập chịu trách nhiệm trước pháp luật về xuất bản phẩm của nhà xuất bản. Hiện nay, có không ít người chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu bản lĩnh và hiểu biết hẹp, không nắm được thực tiễn, lại chủ quan, qua loa đại khái, thiếu sâu sát. Đã vậy, những trợ thủ, nòng cốt là biên tập viên không nhạy cảm, nghiệp vụ kém, không đủ khả năng tham mưu và hoàn thành nhiệm vụ của bản thân. Những quy trình xuất bản bị cắt xén, tước lược tùy tiện. Bởi thế, có nhà xuất bản tự ý xuất bản, tái bản những tác phẩm trước Cách mạng Tháng Tám 1945, trong vùng giặc tạm chiếm cũ và sách dịch của nước ngoài cần phải thẩm định nội dung mà không trình cơ quan quản lý Nhà nước về xuất bản xem xét, cho phép. Sách cũng không ghi đầy đủ các quy định trên các trang bìa, trang 1, trang 2 (đối với sách dịch), trang cuối, mã số, giá bán lẻ và không nộp hoặc nộp một mớ lưu chiểu. Tư nhân làm sách thao túng một phần nhưng chủ yếu là giám đốc, tổng biên tập nhà xuất bản tắc trách, đọc lướt hoặc tin cậy người được ủy nhiệm, dễ dãi ký duyệt bản thảo, bản mẫu trước khi đưa in. Sơ hở trong quản lý của nhà xuất bản là điểm tựa của các hành vi luồn lách, đẻ ra sách phạm luật. Cơ quan chủ quản của nhà xuất bản thường đứng tên danh nghĩa, ít quan tâm nhắc nhở và kiểm soát, thực chất là buông lỏng.
Quản lý vĩ mô toàn bộ hoạt động xuất bản phẩm trong phạm vi toàn quốc, Cục Xuất bản còn lúng túng, chưa phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý trên các địa bàn, giữa quản lý của Nhà nước và quản lý của cơ quan chủ quản. Bộ máy của Cục có 30 người, trình độ không ít cán bộ còn hạn chế, khó quán xuyến khối việc lớn và trải dài suốt từ bắc tới nam. Cục không có biên chế thanh tra vì Bộ Văn hóa-Thông tin đảm nhiệm. Phòng xuất bản chỉ có năm người, mỗi ngày mỗi người phải đọc soát 200 đề tài đăng ký sách và văn hóa phẩm của các nhà xuất bản, không tránh khỏi nhầm lẫn, nhất là những đề tài được biến báo thay tên che mắt. Sách lưu chiểu, Cục hợp đồng một số cán bộ có kinh nghiệm và am hiểu đọc là giải pháp tình thế, tuy có tác dụng nhất định nhưng không phải cơ bản và đã hữu hiệu trong kiểm tra và phát hiện sai lầm của sách. Tất bật lo toan xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển hoạt động, dự án luật và các văn bản dưới luật, quản lý kế hoạch xuất bản, cấp và thu hồi các loại giấy phép và giấy chấp nhận xuất bản, Cục triển khai chậm nhiều phần việc và có những vướng mắc. Chẳng hạn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xuất bản thì đào tạo thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, Cục không thể tuyển sinh, càng không có năng lực thiết kế chương trình giảng dạy. Về xử lý các vi phạm, do cộng quản, cho nên phải bàn bạc, trao đổi để các bên liên quan nhất trí. Xử phạt hành chính và tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy sách phạm luật có thể kịp thời. Ở mức đình chỉ hoạt động của nhà xuất bản, in, phát hành và khởi tố các bị can có hành động sai phạm nghiêm trọng phải theo trình tự các thủ tục, sự đồng thuận của cơ quan chủ quản và các cơ quan hành pháp, nhiều vụ dây dưa, không dứt điểm. Thêm nữa là có tình trạng hữu khuynh, nể nang, né tránh. Sở Văn hóa - Thông tin một số địa phương cũng không làm tròn chức năng, bỏ lọt những vi phạm xuất bản sách. Chính sự thiếu nghiêm túc, gượng nhẹ đã làm giảm hiệu lực pháp luật, mất hiệu nghiệm răn đe và cảnh tỉnh.
Rõ ràng, quản lý xuất bản, xét trên nhiều phương diện còn không ít điều bất cập.
Biện pháp nào khắc phục ?
Những non yếu trong hoạt động xuất bản sách là một tồn tại nhức nhối. Vấn đề bức xúc là phải ngăn chặn từ gốc các phát sinh. Theo chúng tôi, trước hết phải nhận thức sâu sắc, quan điểm chỉ đạo của Đảng coi xuất bản sách là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, không phải là hoạt động kinh doanh đơn thuần. Điều 1 Luật Xuất bản được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước công bố ngày 19-7-1993 xác định xuất bản sách nhằm:
"1- Phổ biến những tác phẩm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật, giới thiệu những di sản văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa thế giới, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2- Đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam".
Như vậy, nhận thức chuẩn xác và sáng tỏ về sách phải được quán triệt thật sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân và trước hết là những người công tác trong ngành xuất bản sách. Vị trí, vai trò của sách cần được đặt đúng tầm và có đầu tư thỏa đáng hỗ trợ sách đứng vững trước sức ép của lợi nhuận và xoay trở trong vòng vây của xu hướng thương mại hóa. Có chính sách điều chỉnh thuế lợi tức, thuế doanh nghiệp, khuyến khích xuất bản sách. Nghiên cứu và ấn định mức tỷ lệ phí phát hành chung, chấm dứt thả nổi.
Cấu trúc loại hình xuất bản, in, phát hành như hiện nay nên tổng kết và chọn lựa phù hợp, sao cho không lấn sân, chồng chéo, bảo đảm hoạt động thông suốt và hài hòa, không ngừng tăng trưởng. Lấp kín những sơ hở bị lợi dụng. Tăng cường các biện pháp quản lý trực tiếp từ các nhà xuất bản, các sở in, hệ thống phát hành sách. Quản lý Nhà nước về xuất bản phải sát sao và cụ thể hơn, có chế tài thích hợp, xử lý nghiêm minh những sai phạm. Bổ sung nhân lực và trang bị những thiết bị cần thiết giúp Cục Xuất bản đủ sức tiến hành thường xuyên hoạt động xuất bản sách. Đội ngũ xuất bản sách phải được bồi dưỡng và đào tạo dưới nhiều hình thức linh hoạt, nâng cao trình độ và tính chiến đấu, có phẩm chất trong sáng, kiến thức sâu rộng, nghiệp vụ thuần thục, thông thạo ngoại ngữ, gắn bó với thực tiễn.
Chỉ thị số 22/CT-T.Ư ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản" đã chỉ rõ những nhiệm vụ quan trọng và những giải pháp khắc phục nhược điểm, hướng dẫn báo chí, xuất bản phát triển. Nắm vững và đưa đường lối của Đảng, luật pháp của Nhà nước về hoạt động xuất bản vào cuộc sống, chắc chắn chúng ta sẽ loại bỏ được sách có nội dung xấu, sách xa lạ với truyền thống Việt Nam.
Chương 3
ĐỔi mỚi & hoàn thiỆn pháp luẬt trong quẢn lý
nhà nưỚc vỀ xuẤt bẢn Ở ViỆt Nam hiỆn nay-
phương hưỚng và giẢi pháp
I. HỆ thỐng nhỮng quan điỂm đỔi mỚi và hoàn thiỆn pháp luẬt trong quẢn lý nhà nưỚc vỀ xuẤt bẢn
Để có nhận thức chung và thống nhất, làm cơ sở cho việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong việc trong quản lý nhà nước về xuất bản, phần này trình bày các quan điểm cơ bản sau:
1. Pháp luật bảo đảm quyền tự do sáng tạo, công bố, phổ biến xuất bản phẩm
Pháp luật tạo lập hành lang, môi trường an toàn và thuận lợi cho công dân và các tổ chức tự do nghiên cứu, sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm. Đồng thời thông qua cơ chế và bộ máy, nhà nước bảo vệ môi trường tự do cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm. Tự do xuất bản là tự do trong khuôn khổ pháp luật, tự do trong trách nhiệm cao cả của người cầm bút, người chịu trách nhiệm xuất bản trước xã hội và bạn đọc. Đó là tự do của những ý tưởng cao đẹp, tiến bộ do con người và vì con người, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Những hoạt động sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm trái với pháp luật là hoạt động vô chính phủ. Bản thân những chủ thể đó đã tự đánh mất quyền tự do của mình, đặt mình ra ngoài cộng đồng, ngoài vòng pháp luật. Mặt khác hoạt động tự do sáng tạo, công bố và phổ biến xuất bản phẩm trong khuôn khổ pháp luật là góp phần củng cố, tăng cường pháp luật, đồng thời phát huy cao độ quyền cũng như năng lực sáng tạo của chính mình. Quyền tự do sáng tạo của chủ thể xuất bản chỉ thực sự có được khi hoạt động của mình không ảnh hưởng tới quyền tự do sáng tạo của người khác và của cộng đồng. Tự do cá nhân trong tự do của đa số, của cộng đồng. Khi người cầm bút, người chịu trách nhiệm xuất bản do pháp luật quy định là bầu trời cao rộng cho sự sáng tạo.
2. Pháp luật bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đối với xuất bản trong điều kiện cơ chế thị trường
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi: “tăng cường hiệu lực quản lý vì mô của Nhà nước, khai thác triệt để vài trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường”.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong xuất bản là định hướng nhằm đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng, khoa học và nghệ thuật của xuất bản phẩm, với chi phí thấp nhất, để từng bước thoả mãn nhu cầu đa dạng và phong phú của nhân dân, góp phần mở rộng giao lưu vơí các nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện được định hướng đó, cần thiét phải kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch xuất bản với việc hoạch định chính sách và thể chế dẫn dặt điều hành ngành xuất bản theo định hướng chính trị, xử lý kịp thời những mất cân đối và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện.
Định hướng xã hội chủ nghĩa và chơ chế thị trường có quan hệ hỗ trợ, phối hợp lẫn nhau. Định hướng xã hội chủ nghĩa xác định mục tiêu, bước đi cơ chế vận hành của kinh tế phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự phát triển năng động, có trật tự của thị trường. Khai thác triệt để những mặt tích cực của cơ chế thị trường, nhằm phát triển xuất bản. Điều tiết, ngăn ngừa để hạn chế tối đa mặt trái của có chế thị trường tác động vào xuất bản, nhằm giữ vững định hướng xuất bản. Đảm bảo cho xuất bản phát triển đi đôi với công bằng xã hội giữa các chủ thể hoạt động xuất bản. Thị trường với những ưu điểm và những mặt mạnh vốn có, nó đảm bảo và đẩy nhanh quá trình thực hiện các mục tiêu xuất bản hoạt đông có hiệu quả kinh tế, làm cơ sở phương tiện sự tồn tại và phát triển.
3. Pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng và tự do trong hoạt động xuất bản
Bình đẳng và tự do trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, xuất bản nói riêng là bình đẳng và tự do trong mọi khuôn khổ pháp luật. Bình đẳng trong xuất bản là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Các tổ chức và cá nhân bằng lao động của mình sáng tạo ra tác phẩm, có quyền bình đẳng trong việc công bố và phổ biến tác phẩm của mình, đồng thời chịu trách nhiệm về tác phẩm của mình trước pháp luật. Các chủ thể xuất bản đều được pháp luật trao cho các quyền nhất định, trong đó có những quyền giống nhau và có những quyền khác nhau giữa các chủ thể xuất bản. Các quyền khác nhau do tính chất và đặc điểm hoạt động của các chủ thể quy định. Nói cách khác do các quan hệ nội tại của các chủ thể quy định.
Do sự xuất bản là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Trong văn kiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng ta đã xác định : “khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hoá, vun đắp các tài năng; phát triển các hình thức hoạt động văn háo của Nhà nước, tập thể và tư nhân, khắc phục tình trạng hành chính hoá các đơn vị hoạt động văn hoá nghệ thuật và xu hướng thương mại hoá đơn thuần trong lĩnh vực này”.
Quyền tự do trong hoạt động xuất bản không phải chỉ đối với những tác giả sáng tạo tác phẩm, mà còn đối với các chủ thể khách bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hôi và từ nhân trong việc sản xuất, phổ biến xuất bản phẩm. Là một ngành thuộc binh chủng văn hoá tư tưởng, hoạt động xuất bản có liên quan trực tiếp tới ý thức hệ, thể chế chính trị, và lợi ích giai cấp. Nhưng dưới ánh sáng của các quan điểm đổi mới, hoạt động xuất bản không thể là hoạt động độc quyền của nhà nước, cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vấn đề là ở chỗ, tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng lĩnh vực (xuất bản, in, phát hành) mà xác định mức độ, phạm vi phù hợp để tư nhân tham gia hoạt động xuất bản, làm như vậy vừa phát triển được tiềm năng của xã hội cho sự phát triển, vừa đảm bảo trật tự, kỷ cương và sự lành mạnh của xuất bản phẩm. Mặt khác đảm bảo sự thống nhất, n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10565.doc