MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: Lý thuyết chung về tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập 2
1.1. Tăng trưởng kinh tế 2
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế 2
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế 2
1.2. Phân phối thu nhập và cách đo lường phân phối thu nhâp 2
1.2.1. Khái niệm phân phối thu nhập và bất bình đẳng thu nhập 2
1.2.2. Nguyên nhân gây nên tình trạng bất bình đẳng thu nhập 3
1.2.3. Thước đo về bất bình đẳng thu nhập 4
1.3. Lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập 6
1.3.1. Lý thuyết học thuyết kinh tế cổ điển 6
1.3.2. Lý thuyết của Mac 7
1.3.3. Lý thuyết của Keynes 8
1.3.4. Lý thuyết của trường phái “sau Keynes” và kinh tế vĩ mô hiện đại 9
1.3.4.1. Lý thuyết của trường phái “sau Keynes” 9
1.3.4.2. Lý thuyết của A.Lewis 9
1.3.4.3. Mô hình chữ U ngựơc của Simon Kuznet 10
1.3.5. Lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại 11
1.3.6. Nhận xét chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập. 14
CHƯƠNG 2: Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam 16
2.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế 16
2.1.1. Thành tựu về tăng trưởng kinh tế 16
2.1.2. Những mặt hạn chế của tăng trưởng kinh tế 23
2.2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam 24
2.3. Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam 25
2.3.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần giảm bất bình đẳng thu nhập 25
2.3.2. Tăng trưởng kinh tế cao kéo theo tình trạng bất bình đẳng thu nhập gia tăng. 32
2.3.2.1. Tăng trưởng kinh tế cao gây nên bất bình đẳng thu nhập gia tăng. 32
2.3.2.2. Nguyên nhân 40
CHƯƠNG 3: Giải pháp cho vấn đề tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng thu nhập 43
3.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập 43
3.2. Các giải pháp cho tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo 44
3.3. Khuyến nghị 50
KẾT LUẬN 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11432 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2000
2005
NN
73.02
71.25
65.09
56.8
CN
11.24
11.36
13.11
17.9
DV
15.74
17.38
21.8
25.3
Nguồn: Tổng cục thống kê
Có thể thấy cơ cấu lao động chia theo ngành kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lao động dần chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu lao động (NN-CN-DV) chia theo ngành kinh tế giữa các vùng cũng có sự chuyển biến tích cực. Mặc dù vậy trong số các vùng, Đông Nam bộ vẫn là vùng có cơ cấu lao động tiến bộ nhất (27.8%, 30.9%, 41.3%), lạc hậu nhất là vùng Tây bắc (84.9%, 5.2%%, 9.9%) và Tây Nguyên (72.9%, 8.1%, 19%)
Chia theo loại hình kinh tế, nhờ những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự dịch chuyển lao động theo thành phần kinh tế. Cho đến năm 2005 cả nước có 4413 nghìn người làm việc ở khu vực Nhà nước, chiếm 10.2%, 38355.7 nghìn người làm việc ở khu vực ngoài Nhà nước, chiếm 88.2% còn lại là số người làm việc ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy cơ cấu lao động chia theo thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch từ khu vực kinh tế Nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Về đầu tư
Cho đến năm 2008, vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế ước tính đạt 673.3 nghìn tỷ đồng, bằng 43.1% GDP và tăng 22.2% so với năm 2007. Khu vực nhà nước có vốn đầu tư là 28.9% và giảm 11.4%, khu vực ngoài nhà nước là 263 nghìn tỷ đồng chiếm 41.3% và tăng 42.7%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 189.9 nghìn tỷ đồng chiếm 29.8%và tăng 46.9% (so với năm 2007). Có thể thấy vốn đầu tư giữ một vai trò quan trọng trong kết quả tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm vừa qua.
Bảng 4: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
tổng số
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
1995
72447
100
30447
42
20000
27.6
22000
30.4
2000
151183
100
89417
59.1
34594
22.9
27172
18
2005
343135
100
161635
47.1
130398
38
51102
14.9
2006
404712
100
185102
45.7
154006
38.1
65604
16.2
2007
532093
100
197989
37.2
204705
38.5
129399
24.3
2008
637376
100
184435
28.9
263081
41.3
189960
29.8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cơ cấu vốn đầu tư đã có sự dịch chuyển đáng kể. Đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm dần từ 42% năm 1995 xuống còn 28.6% năm 2008, thay vào đó là đầu tư cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng lên hơn 40% trong năm 2008 và giữ một vị trí quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư.
Nhờ Đảng và nhà nước ta tạo điều kiện thông thoáng, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực ưu tiên, sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ưu tiên đầu tư vào địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, kinh tế tăng trưởng khá ; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng và đạt kết quả cao. Nếu tính nguồn vốn đăng ký thì năm 2008 đã thu hút được nguồn vốn lên tới 64 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 11.5 tỷ USD, tăng 43.2% so với năm 2007. Mặc dù khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang đóng góp ngày càng tăng vào tăng trưởng và kết quả đầu tư đã tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, nhưng đầu tư của khu vực này vẫn tập trung trong một số ngành dựa vào khai thác tài nguyên như dầu khí và một số ngành tập trung vốn, được bảo hộ cao như lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất thép, xi măng.
- Về xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1995 là 39.88 USD Nhưng hai năm 1996-1997 đã là 38.55 tỷ USD. Và cho đến năm 2008 đã nhanh chóng tăng lên 136.6 tỷ USD, gấp 3.5 lần so với thời kỳ năm 1996-1997.
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2000 kim ngạch ngoại thương chỉ đạt 30 tỉ USD trong đó xuất khẩu đạt 14.4 tỉ USD, kim ngạch nhập khẩu là 15.6 tỷ USD thì đến năm 2006 chỉ tiêu này đã tăng lên đến 80 tỉ USD trong đó xuất khẩu đạt 39.6 tỉ USD, năm 2007 là 106.7 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 45.4 tỷ USD, năm 2008 là 136.6 tỷ, xuất khẩu đạt 58.2 tỷ, nhập khẩu là 78.4 tỷ.
Do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu nên tỷ lệ nhập siêu giảm xuống. Mặt hàng xuất khẩu đa dạng và chất lượng hàng xuất khẩu được chú ý nâng cao theo yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu. Chất lượng hàng xuất khẩu đã nâng lên đáng kể, bước đầu tạo ra sức cạnh tranh sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới đồng thời gây tác động tích cực tới chất lượng sản phẩm sản xuất trong nước. Ngoài các mặt hàng như gạo, cà phê, thuỷ sản vốn là những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo, Việt Nam đã xuất khẩu các mặt hàng về may mặc, giày dép, một số mặt hàng điện tử, đồ gia dụng…Và ngày càng cố gắng hơn để đáp ứng được nhu cầu của các nước trên thế giới.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước đã có mức tăng trưởng nhanh và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mở rộng quan hệ quốc tế giúp Việt Nam thu hút được khoản vốn đầu tư nước ngoài lớn lên tới 16 tỉ USD chiếm 20% GDP (năm 2007), tạo nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người dân. Từ đó góp phần cải thiện thu nhập của người dân.
2.1.2. Những mặt hạn chế của tăng trưởng kinh tế
Mặc dù tăng trưởng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng trong đó không phải là không có những thiếu sót đáng lưu tâm.
- Chất lượng tăng trưởng còn thấp.
Nước ta trong thời gian qua mặc dù đã có nhiều biến chuyển tích cực xong nó vẫn là quá chậm để có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong năm 2008 nền kinh tế nước ta đã phải chống đỡ với một cơn khủng hoảng kinh tế mới, lạm phát tăng cao, nền kinh tế có dấu hiệu giảm sút trong năm 2009, điều này chứng tỏ kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều yếu điểm, dễ rơi vào khủng hoảng, suy thoái.
Kinh tế tăng trưởng chủ yếu là theo chiều rộng, chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của nguồn nhân lực rồi dào và từ nguồn vốn, yếu tố công nghệ còn chiếm một tỷ trọng thấp trong tăng trưởng kinh tế.
Bảng 5: Đóng góp của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP theo tỷ lệ %
thời kỳ
1993-1997
1998-2002
2003-2006
Vốn
69.3
57.4
52.73
Lao động
15.9
20.0
19.07
TFP
14.8
22.6
28.2
Nguồn: Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương và Thời báo kinh tế Việt Nam
Mặc dù chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện, mức độ đóng góp của yếu tố tổng hợp TFP trong GDP đã tăng lên từ 14.8% (thời kỳ 1993-1997) lên 28.2% (thời kỳ 2003-2006), tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn và lao động vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm tới gần 3/4 tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP. So sánh với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều, như Thái Lan tỷ lệ này là 35%, của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%.
Thu nhập bình quân đầu người của nước ta đã được cải thiện nhiều nhưng nó vẫn ở mức thấp, thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới. Mức lương tối thiểu năm 2008 mới chỉ ở mức 540.000 đồng/tháng. Bên cạnh đó nền kinh tế liên tục gặp những khó khăn và thách thức lớn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới và do tự chính bản thân nền kinh tế trong năm 2008 và 2009 đã khiến cho đời sống nhân dân trở nên bấp bênh, đặc biệt là đối với tầng lớp dân nghèo.
- Chất lượng đầu tư còn thấp.
Hệ số ICOR của năm 2007 vẫn còn cao, lên tới 4.9. Điều này chứng tỏ chất lượng đầu tư, sử dụng vốn còn thấp, chưa hiệu quả, vẫn gây lãng phí nguồn lực. Tiền tiết kiệm trong dân chưa được huy động hết mức, vẫn còn xảy ra tình trạng người muốn đầu tư sản xuất kinh doanh thì thiếu vốn còn người có vốn thì lại để trong tình trạng đóng băng.
- Tăng trưởng cao nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Khả năng cạnh tranh của hầu hết các sản phẩm hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặt Việt Nam trước nhiều thách thức. Trong khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thấp, chất lượng hàng hoá còn kém thì lại phải liên tục đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía thị trường thế giới và phải cạnh tranh với sản phẩm hàng hoá của nước ngoài với chất lượng tốt đang xâm nhập vào thị trường nội địa.
2.2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
- Về hệ số Gini.
Mặc dù kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người đã được cải thiện nhưng cùng với tốc độ tăng trưởng cao là sự gia tăng bất bình đẳng. Đầu tiên ta sẽ đi xem xét sự thay đổi hệ số Gini của Việt Nam trong những năm gần đây.
Bảng 6: Hệ số Gini của Việt Nam
Năm
1993
1994
1995
2002
2004
2006
Hệ số Gini
0.34
0.35
0.357
0.37
0.423
0.36
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam
Có thể thấy tăng trưởng kinh tế cao nhưng đi cùng với nó là sự gia tăng về hệ số Gini. Hệ số Gini của cả nước luôn ở mức cao, biểu hiện tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở nước ta là khá lớn.
- Chênh lệch thu nhập các nhóm giàu nghèo
Biểu đồ 3: Mức độ gia tăng hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất ở Việt Nam.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng phát sinh tình trạng chênh lệch. Nếu phân chia dân cư theo mức thu nhập thành 5 nhóm, mỗi nhóm chiếm 20% dân số đất nước theo mức thu nhập bình quân đầu người. Hệ số chênh lệch giàu nghèo ở nước ta qua các năm có xu hướng tăng dần, và đang ở mức đáng lo ngại năm 1990 hệ số này là 4.1 lần, năm 1996 tăng lên 7.3 lần và đến năm 2006 đã là 8.4 lần.
Dựa vào những chỉ tiêu trên ta có thể thấy tình trạng bất bình đẳng phân phối thu nhập nước ta ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm trọng. Đây là một vấn đề vô cùng bức xúc và cần có biện pháp tháo gỡ để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giảm bất bình đẳng thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
2.3. Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
2.3.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần giảm bất bình đẳng thu nhập
- Gảm tỷ lệ nghèo đói
Xoá đói giảm nghèo được coi là một trong những thành công lớn nhất của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Bảng 7: Tỷ lệ nghèo của Việt Nam theo ngưỡng “1USD/ngày và 2USD/ngày”
Năm
chi tiêu bình quân đầu người(USDPPP/tháng)
tỷ lệ dân số sống dưới mức
1USD/ngày(PPP)%
2USD/ngày(PPP)%
1990
41.7
50.8
87.0
2000
71.3
15.2
63.5
2004
85.5
10.6
53.4
Nguồn: www. Worldbank. Org.vn
Sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người đã giúp cho khoản chi tiêu của người dân được đảm bảo nhiều hơn, và tăng lên đáng kể, góp phần giảm mạnh tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ. Tỷ lệ dân số sống dưới mức 1USD/ngày và dưới mức 2USD/ngày đã giảm từ 50.8% và 87.0% trong năm 1990 xuống còn 10.6% và 53.4% năm 2004.
Trong những năm qua tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo đói. Nếu như tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ (1USD/ngày) năm 1993 là 58% thì đến năm 2006 giảm xuống còn 16% , 34 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo, tỷ lệ người nghèo giảm đi rõ rệt.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ nghèo chung của cả nước
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, hàng năm, số tiền đóng góp, hỗ trợ người nghèo từ ngân sách nhà nước và từ đóng góp của các cá nhân, xí nghiệp là khá lớn. Nhờ vậy tỷ lệ người dân nghèo được hỗ trợ vốn để phát triển sản xuất, thoát khỏi cảnh nghèo ngày càng tăng, người nghèo được hỗ trợ, có thể tự lo liệu cho cuộc sống của họ, đời sống dần được cải thiện, tỷ lệ người nghèo giảm đi rõ rệt.
Giảm nghèo cả ở khu vực thành thị lẫn nông thôn, khu vực thành thị, tỉ lệ người nghèo giảm xuống còn 4%, khu vực nông thôn nếu năm 1993 2/3 dân số nông thôn được coi là nghèo thì đến năm 2006 chỉ còn 1/5.
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển các ngành nghề đã giúp giải quyết được một lượng lớn lao động thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể. Kể từ năm 2006 đến nay, cả nước đã tạo việc làm cho 4.7 triệu người, năm 2008 là 1.35 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi rõ rệt nhờ những chính sách tạo việc làm cho người lao động như cho các doanh nghiệp, xí nghiệp kinh doanh vay vốn mở rộng sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, chính sách xuất khẩu lao động, chính sách đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ kĩ thuật cho người lao động, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho họ…
Chính sách xuất khẩu lao động bình quân mỗi năm đưa được 83 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài (chiếm 5% số lao động được giải quyết việc làm của cả nước). Đến nay có khoảng 500 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, hàng năm gửi về nước khoảng 1.6-2 tỷ USD. Chất lượng lao động xuất khẩu được cải thiện.
Biểu đồ 5: Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động khu vực thành thị.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, sự mở rộng của dịch vụ, đa dạng hoá các ngành nghề trong nông nghiệp đã tạo thêm nhiều chỗ làm mới và tăng thêm việc làm cho người lao động, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 1.2-1.4 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp cả ở thành thị và nông thôn có xu hướng giảm đi.
- Cải thiện đời sống dân cư: điện, nước sinh hoạt, đầu tư cơ sở hạ tầng
Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể, tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định, thu nhập bình quân đầu người đã vượt khỏi ngưỡng của các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp, tiến tới là một nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
Tăng trưởng kinh tế cao, từ đó mức sống hộ gia đình được cải thiện đáng kể. Chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng lên theo các năm, chi tiêu của các hộ gia đình năm 2002 tăng 21.3% so với năm 1999, tăng trung bình 8.6%/năm. Năm 2004 chi tiêu của các hộ gia đình tăng 35.1% so với năm 2002, và tốc độ tăng chi tiêu của năm 2006 so với năm 2004 là 28.8%. Đây là tốc độ tăng khá, và lại trở thành một trong những nguyên nhân góp phần làm kinh tế tăng trưởng cao trong những năm gần đây.
Trong cơ cấu chi tiêu; phần chi cho ăn uống giảm từ 63% năm 1999 xuống còn 56.7% năm 2001-2002, chi cho mua xắm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng từ 3.8% lên 8%, chi cho y tế tăng từ 4.6% lên 5.7%, cho giáo dục tăng từ 4.6% lên 6.2%, chi cho đi lại và bưu điện tăng từ 6.7% lên 10%. Và cho đến năm 2006 chi cho ăn uống chỉ còn chiếm 47.5%, chi cho mua xắm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng lên 9.2%, chi cho y tế, giáo dục cũng tăng lên. Điều này chứng tỏ mức sống của người dân đã được cải thiện, chi tiêu không chỉ là chăm lo cho nhu cầu ăn uống đơn thuần mà còn chăm lo đến sức khoẻ và các nhu cầu sinh hoạt khác.
Số hộ có nhà kiên cố đạt 17.2%, bán kiên cố là 58.3%, nhà tạm, nhà khác là 24.6%. Năm 2006 tỷ lệ hộ có nhà kiên cố tăng lên 23.7%, bán kiên cố là 60.3%, nhà tạm, nhà khác chỉ còn lại 16%. Hộ có đồ dùng lâu bền đạt 96.9%, rất nhiều hộ có đồ dùng có giá trị như ô tô, xe máy…
Các điều kiện cơ sở hạ tầng - điện, nước sạch và vệ sinh- đều đã được cải thiện một cách đáng kể. Nếu trong năm 1993, chỉ có 48% tổng số dân được sử dụng điện làm nguồn chiếu sáng chính tỉ lệ này tăng gần gấp đôi vào năm 2004, 94%. Tỉ lệ dân số được sử dụng nước sạch tăng lên 3 lần so với cùng thời kỳ, tăng từ 26% năm 1994 lên 88% năm 2004. Trong lĩnh vực vệ sinh tình hình cũng được cải thiện một cách tích cực: tỉ lệ dân số có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 10% năm 1993 lên 32% năm 2004.
Bảng 8: Một số chỉ tiêu phi thu nhập của người dân (1993 – 2004)
Các chỉ tiêu phi thu nhập
1993
1998
2002
2004
Cơ sở hạ tầng
% dân số nông thôn có trung tâm y tế công cộng
93
97
% dân số được sử dụng nước sạch
26.2
40.6
48.5
58.58
% dấn số có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn vệ sinh
10.4
17
25.3
31.8
% dân số sử dụng điện là nguồn thắp sáng chính
49
78
87
93
Tỉ lệ sở hữu các mặt hàng tiêu dùng có giá trị
% Hộ gia đình có đài
40
47
25.56
19.48
% Hộ gia đình có tivi
22.19
55.71
67.89
78.05
% Hộ gia đình có xe đạp
64.83
72.88
68.66
69.52
% Hộ gia đình có điện thoại
-
6.93
13.43
21.32
% Hộ gia đình có xe máy
10.67
20.31
40.36
45.04
Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1993 đến 2004
Số liệu về sở hữu của các hộ gia đình đối với các mặt hàng tiêu dùng lâu bền như đài, tivi, xe đạp, xe máy v.v…. cũng khẳng định thêm về những cải thiện quan trọng trong mức sống của người dân. Nếu tỉ lệ các hộ gia đình sở hữu các loại đài giảm từ 40% trong năm 1993 xuống còn 19% năm 2004, thì con số về sở hữu vô tuyến truyền hình trong các hộ gia đình lại tăng đáng kể, từ 22% năm 1993 lên đến 78% năm 2004 hay nói một cách khác tăng lên 3,5 lần. Sở hữu xe máy cũng gia tăng rõ rệt và từ một mặt hàng xa xỉ mà cứ 10 gia đình mới có 1 chiếc trong năm 1993, xe máy đã trở thành mặt hàng bình dân có mặt trong 45% các hộ gia đình vào năm 2004. Nếu trong năm 1998, chỉ có 7% các hộ gia đình có điện thoại, thì sáu năm sau, năm 2004, cứ 5 gia đình thì có 1 gia đình có điện thoại. Những con số này một lần nữa khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế cao góp phần cải thiện đời sống của người dân.
- Cải thiện phúc lợi xã hội và dịch vụ công
Phúc lợi xã hội cho người nghèo được cải thiện, rất nhiều hộ nghèo được hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ, ưu đãi của chính phủ như chương trình ưu đãi tín dụng cho người nghèo, chương trình miễn giảm học phí cho người nghèo, dân tộc thiểu số, v.v…
Bảng 9: Tỷ lệ hộ nghèo theo bình chọn của địa phương được hưởng lợi từ các dự án chính sách của chương trình 135 và chương trình 143 năm 2006 chia theo thành thị, nông thôn và vùng
Tỷ lệ hộ được hưởng lợi
Tổng số chia theo nguồn lợi
Tín dụng ưu đãi cho người nghèo
Miễn giảm chi phí khám chữa bệnh
Miễn giảm học phí cho người nghèo
Dạy nghề cho người nghèo
Cấp đất cho dân tộc thiểu số
Khuyến nông
Giúp đỡ nhà ở, đất ở cho người nghèo
Nước sạch cho người nghèo
Cả nước
90.2
39.5
80.9
49.5
4.1
3.9
18.3
10.8
9.6
Thành thị - Nông thôn
Thành thị
89.9
40.6
76.6
40.9
2.9
1.8
6.8
7.9
5.7
Nông thôn
90.3
39.3
81.5
50.6
4.2
4.2
19.8
11.2
10.1
Chia theo vùng
ĐBSH
84.9
29.7
75.5
33.3
3.5
1.8
8.1
6.1
2.3
Đông Bắc
89.2
46.9
77.1
51.6
2.0
3.5
33.9
10.1
11.5
Tây Bắc
91.6
37.3
83.9
62.4
2.1
6.2
41.4
16.9
26.9
Bắc Trung bộ
90.4
45.0
80.7
51.8
5.9
4.4
23.1
8.3
7.6
Duyên hải NTB
92.6
30.3
87.5
45.9
3.9
6.7
17.8
12.5
11.7
Tây Nguyên
95.8
39.1
90.6
69.0
2.4
7.2
16.3
12.9
12.7
Đông Nam bộ
89.0
47.4
74.1
42.7
4.2
3.9
9.4
8.6
8.7
ĐBSCL
91.6
35.5
82.1
50.9
4.9
2.0
7.6
15.9
10.5
Nguồn:Tổng cục thống kê
Có thể thấy nhờ có tăng trưởng kinh tế cao mà phúc lợi xã hội đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ người nghèo nhận được hỗ trợ từ các chương trình ưu đãi của chính phủ là những con số đáng kể. Các chính sách hỗ trợ được phân bổ nhiều hơn cho khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ người dân nghèo ở khu vực miền núi, khu vực còn khó khăn, chậm phát triển nhận được hỗ trợ từ chính phủ ngày càng tăng.
Ngoài những chính sách hỗ trợ trên, vấn đề tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập còn được thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
- Đầu tư cho giáo dục
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao mà đầu tư cho giáo dục rất được quan tâm. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng liên tục, trung bình đạt 15,8% so với tổng chi giai đoạn 1996-2000 và đạt 18,25% tổng chi ngân sách giai đoạn 2001-2005, trong đó khoảng 70% là chi thường xuyên ( 2001-2005). Giai đoạn 1996-2000, vốn đầu tư cho giáo dục đã thực hiện là 15,4 nghìn tỉ đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm 54,4%. Ngoài ra, Chính phủ cũng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển giáo dục năm 2001-2005 huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó khoảng 30% từ Ngân sách Nhà nước. Để tăng vốn đầu tư cho giáo dục, Chính phủ đã thực hiện chính sách xã hội hoá và huy động đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh bằng cách đa dạng hóa người cung cấp dịch vụ, cho phép hình thành khu vực trường ngoài công lập.
Trong những năm qua tình hình chất lượng giáo dục – đào tạo của Việt Nam đã được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Cho đến năm 2000 đã gần như phổ cập xong giáo dục tiểu học, tiến đến những bước đầu tiên của phổ cập trung học cơ sở. Kết thúc năm học 2007-2008, cả nước có 1356.1 nghìn học sinh hoàn thành cấp tiểu học, 1381.3 nghìn học sinh được cấp bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, 886.7 nghìn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 86.6% và 103.6 nghìn học sinh tốt nghiệp bổ túc trung học, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 67.4%.
Đặc biệt, sự phát triển nhanh chóng của các cơ sở giáo dục kỹ thuật, đào tạo đại học và cao đẳng cùng với việc tăng chi phí ngân sách giáo dục – đào tạo cũng như chính sách và giải pháp hỗ trợ cho các địa phương nghèo, hộ nghèo, tạo điều kiện cho lao động thành thị và nông thôn, các đối tượng dân tộc thiểu số, cả người giàu và người nghèo đều có thể được tiếp cận các chương trình đào tạo. Nhờ vậy số lượng học sinh, sinh viên và các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp tăng lên nhanh chóng. Trong năm học 2007-2008, số trường đại học trên toàn quốc tăng 15.1% so với năm học trước, số trường cao đẳng tăng 14.2%, số sinh viên đại học và cao đẳng tăng 4.1%, số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 19%. Công tác đào tạo nghề cũng đạt kết quả khá, năm 2008, cả nước đã tuyển mới được 1538 nghìn học sinh vào các hệ học nghề, tăng 17% so với năm 2007, trong đó cao đẳng nghề là 60 nghìn học sinh, tăng 103%, trung cấp nghề là 198 nghìn học sinh, tăng 31%. Kết quả đào tạo nghề tăng khá một phần do chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo đã giành kinh phí 1 nghìn tỷ đồng cho dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề, trong đó 157 tỷ đồng hỗ trợ dạy nghề cho các đối tượng là lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số và người tàn tật.
- Về y tế
Những kết quả đã đạt được về tăng trưởng kinh tế cũng đã mang lại những thay đổi quan trọng đối với lĩnh vực y tế. Chất lượng dịch vụ y tế cũng đã được cải thiện đáng kể. Hệ thống y tế tạo điều kiện cho tất cả mọi người được hưởng thụ các dịch vụ khám chữa bệnh, số cơ sở khám chữa bệnh, số giường bệnh, số cán bộ y tế cho một vạn dân đã tăng lên.
Bảng 10: Một số chỉ tiêu về hệ thống y tế tại Việt Nam
2000
2003
2005
2007
số cơ sở khám chữa bệnh
13117
13162
13243
13438
số giường bệnh (nghìn giường)
192.0
192.2
197.2
210.8
Nhờ đó, những chỉ tiêu về sức khoẻ người dân Việt Nam được nâng cao rõ rệt trong những năm qua. tuổi thọ bình quân được nâng lên, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cũng giảm đi rõ rệt.
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, nguồn thu ngân sách được ổn định mà phần chi ngân sách cho trợ cấp, các dịch vụ công, đảm bảo an sinh xã hội được nhiều hơn. Năm 2008 Nhà nước đã chi 42.3 nghìn tỷ đồng cho trợ giá dầu hoả cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng chưa có điện thắp sáng, trợ giá dầu cho ngư dân đánh bắt cá xa bờ, chi bảo trợ xã hội, giúp người nghèo mua thẻ bảo hiểm y tế…Nhờ đó đời sống của người dân được ổn định hơn rất nhiều.
2.3.2. Tăng trưởng kinh tế cao kéo theo tình trạng bất bình đẳng thu nhập gia tăng.
2.3.2.1. Tăng trưởng kinh tế cao gây nên bất bình đẳng thu nhập gia tăng.
Trong quá trình thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, thành tựu tăng trưởng kinh tế, và nỗ lực cải thiện vấn đề bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam như ta đã thấy ở trên là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, những điều đã nói ở trên vẫn chưa phản ánh đúng, đủ về thực trạng tác động của tăng trưởng kinh tế tới bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế thì tình trạng bất bình đẳng thu nhập lại có chiều hướng gia tăng, khoảng cách thu nhập giữa các vùng, các tầng lớp dân cư ngày càng lớn, phân hoá giàu nghèo ngày càng gay gắt.
- Về hệ số Gini
Tăng trưởng kinh tế cao nhưng bất bình đẳng thu nhập gia tăng. Tình trạng bất bình đẳng thu nhập của cả nước tăng cao. Không những thế tình trạng bất bình đẳng thu nhập còn có sự khác biệt giữa các vùng, giữa khu vực thành thị và nông thôn. Bất bình đẳng xảy ra nghiêm trọng hơn ở khu vực thành thị, hệ số Gini ở thành thị luôn cao hơn so với nông thôn và giữa các vùng mức độ bất bình đẳng thu nhập cũng rất khác nhau.
Bảng 11: Hệ số Gini chia theo thành thị - nông thôn và vùng.
2002
2004
Thành thị
0.41
0.41
Nông thôn
0.36
0.37
Vùng
ĐB sông Hồng
0.39
0.39
Đông Bắc
0.36
0.39
Tây Bắc
0.37
0.38
Bắc Trung bộ
0.36
0.36
Duyên hải Nam Trung bộ
0.35
0.37
Tây Nguyên
0.37
0.4
Đông Nam bộ
0.42
0.43
ĐB sông Cửu Long
0.39
0.38
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hệ số Gini ở thành thị cao hơn hệ số Gini ở nông thôn, điều này chứng tỏ có sự chênh lệch mức độ bất bình đẳng thu nhập giữa thành thị và nông thôn. Ở khu vực thành thị, nơi mà kinh tế phát triển hơn rất nhiều so với khu vực nông thôn thì tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở đó cũng lại cao hơn so với ở nông thôn. Tình trạng bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng cũng có sự khác biệt. Vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26310.doc