Chuyên đề Thực trạng thu hút nguồn vốn hổ trợ phát triển chính thức ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ở nước ta

MỤC LỤC

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 1

1.1 Nguồn vốn ODA 1

1.1.1 ODA là gì: 1

1.1.2 Vai trò của ODA. 1

1.1.2.1 Tầm quan trọng ODA mang lại 1

1.1.2.2 Những bất lợi vì nhận ODA 1

1.2 Nguồn vốn FDI 2

1.2.1 Định nghĩa: 2

1.2.2 Các hình thức FDI phổ biến: 2

1.2.3 Ưu điểm và nhược điểm của nguồn vốn FDI: 3

1.2.3.1 Ưu điểm: 3

1.2.3.2 Nhược điểm: 3

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT NGUỒN VỐN HỔ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC ODA VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI FDI. 4

2.1 Thực trạng ODA: 4

2.1.1 Khái quát số liệu ODA ở VN qua các năm: 4

2.1.2 Tình hình giải ngân 5

2.1.3 Cơ cấu phân bổ ODA theo địa phương 8

2.1.4 Đánh giá tình hình sử dụng và thu hút nguồn vốn ODA: 9

2.2 Thực trạng FDI: 10

2.2.1 Cơ cấu FDI: 10

2.2.2 Vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội : 11

2.2.3 Một số hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn FDI: 12

2.3 Kết hợp sử dụng vốn ODA và FDI để phát triển kinh tế xã hội: 14

CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN NƯỚC NGOÀI CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 16

3.1 Định hướng thu hút và sử dụng vốn nước ngoài cho phát triển kinh tế của Việt Nam: 16

3.1.1 ODA 16

3.1.2 FDI . 16

3.2 Các giải pháp chiến lược nhằm cải thiện tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư vào Việt Nam: 17

3.2.1 Giải pháp thu hút nguồn vốn ODA cho phát triển kinh tế ở Việt Nam: 17

3.2.2 Giải pháp thu hút nguồn vốn FDI cho phát triển kinh tế ở Việt Nam: 17

3.2.2.1 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách 18

3.2.2.2 Cải tiến thủ tục hải quan: 18

3.2.2.3 Cải tiến thủ tục cấp giấy phép đầu tư: 18

3.2.2.4 Thủ tục cấp đất: 18

3.2.2.5 Điều chỉnh và hoàn thiện quy hoạch về đầu tư: 18

3.2.2.6 Điều chỉnh, bổ sung chính sách thu hút đầu tư vào công nghệ cao, sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng và phát triển công nghiệp phụ trợ. 18

3.2.2.7 Nâng cấp kết cấu hạ tầng và chất lượng các dịch vụ: 19

3.2.2.8 Đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế: 19

3.2.2.9 Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư hiệu quả: 19

3.2.2.10 Một số giải pháp khác: 19

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5226 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng thu hút nguồn vốn hổ trợ phát triển chính thức ODA và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên dù thời gian gần đây Việt Nam luôn vượt kế hoạch trong giải ngân ODA nhưng so với mức giải ngân trung bình của khu vực và trên thế giới thì tốc độ giải ngân của nước ta vẫn còn thấp Ý kiến của ông Hồ Quang Minh- Vụ trưởng Vụ Đối Ngoại- Bộ Kế hoạch và Đầu tư . Trên thực tế các dự án ODA tại Việt Nam kể từ thời điểm cam kết rót vốn đến khi chính thức giải ngân phải phải mất ít nhất một năm Nhận định của bộ trưởng bộ Kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc . Các nhà tài trợ quốc tế thật sự không hài lòng với sự chậm trễ này vì nó sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của khoản viện trợ. Hiện nay, khi Việt Nam đã bước vào ngưỡng thu nhập trung bình, lãi suất vay mà Việt Nam phải chịu bắt đầu có xu hướng cao hơn, trong khi thời gian vay lại bị rút ngắn. Trong những năm tới những khoản vay có lãi suất 0,75%/năm và thời hạn 40 năm như Việt Nam đang được hưởng từ WB hay ADB sẽ ít dần. Như vậy, Việt Nam sẽ phải trông chờ nhiều hơn từ các khoản ODA “ít ưu đãi”. Tuy nhiên mức lãi suất từ kênh ODA vẫn thấp hơn nhiều so với lãi suất thị trường. Điều này đồng nghĩa với việc nguồn tài chính giá rẻ sẽ tiếp tục chảy vào Việt Nam trong nhiều năm tới và việc Chính phủ phải làm là sử dụng lượng vốn này một cách hiệu quả và nhanh chóng hơn. Qua những nhận định trên chúng ta có thể thấy: nguồn vốn ODA đang được giải ngân với một tốc độ khá chậm và chưa hiệu quả, chưa thể so sánh với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới và chưa làm hài lòng các nhà tài trợ. Nếu chúng ta không có những giải pháp và điều chỉnh kịp thời, nguy cơ quay lưng của các nhà tài trợ hoàn toàn có thể xảy ra. Cơ cấu phân bổ Vì ODA mang tính chất là nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức cho một quốc gia nên cơ cấu phân bổ vốn ODA cho từng ngành, từng lĩnh vực trong nền kinh tế chủ yếu tùy thuộc vào định hướng phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ. Cuối năm 2006, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010”, trong đó năm lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA thời kỳ này bao gồm: - Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo). - Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại. - Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển, lĩnh vực khác). - Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. - Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. Bảng 2.2: Tình hình thu hút và sử dụng ODA theo lĩnh vực. Ngành, lĩnh vực Dự kiến ODA ký kết 2006 – 2010 theo Đề án ODA ký kết 2006-2009 Dự kiến cơ cấu ODA ký kết (%) Tổng ODA ký kết Cơ cấu ký kết (%) Tổng ODA ký kết (Tỷ USD) Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị 33 6,72 – 7,84 38,32 6,62 Y tế, giáo dục & đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường năng lực…) 31 6,31 – 7,37 25,48 4,40 Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển NN và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo 21 4,27 – 4,98 16,77 2,89 Năng lượng và công nghiệp 15 3,05 – 3,56 19,44 3,36 Tổng cộng 100 20,35 - 23,75 100 17,28 (Nguồn: Đánh giá tình hình thực hiện, đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời kỳ 2006-2010 và định hướng ODA sau 2010-Hồ Quang Minh) Chúng ta có thể thấy trong giai đoạn 2006-2010 nguồn vốn ODA vẫn được tập trung cho lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị với số vốn dự kiến lên đến 33%, nhằm mục tiêu phát triển cơ cấu hạ tầng kinh tế và xã hội theo hướng hiện đại. Cũng với mục tiêu này cộng thêm mục tiêu bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đưa nguồn vốn ODA cho lĩnh vực y tế, giáo dục & đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường năng lực…) chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong cơ cấu vốn ODA dự kiến trong giai đoạn 2006-2010 với 31%. Nông lâm ngư nghiệp, phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo, một trong 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA theo đề án được Thủ tướng phê duyệt đồng thời là lĩnh vực luôn thu hút sự quan tâm của xã hội, đứng vị trí thứ 3 khi chiếm 21% tỷ lệ dự kiến. ODA cho năng lượng và công nghiệp chỉ chiếm 15% tỷ lệ dự kiến. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn ODA thực tế ký kết trong từng lĩnh vực có một số thay đổi so với dự kiến. Cụ thể trong giai đoạn 2006-2009, số vốn ký kết thực tế cho ngành GTVT, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị đã tăng lên 38,32%. Tương tự là lĩnh vực Năng lượng và công nghiệp với số vốn thực tế là 19,14%. Ngược lại, lĩnh vực y tế, giáo dục & đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác lại có số vốn ký kết thực tế thấp hơn dự kiến, chỉ có 25,48%. Lĩnh vực Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo cũng có số vốn ký kết thực tế thấp hơn, chỉ có 16,77% so với con số dự kiến là 21%. Sự khác biệt giữa số vốn ODA dự kiến và số vốn thực tế kí kết của các ngành cho thấy đã có nhiều vấn đề phát sinh trong quá trình thu hút vốn, thỏa thuận với nhà tài trợ và ký kết giả ngân, tác động đến cơ cấu phân bổ dự kiến. Tuy nhiên những ảnh hưởng này là không lớn và vẫn đảm bảo đúng định hướng mà chính phủ đã đề ra trước đó. Những đánh giá dựa trên cơ cấu vốn ODA của mỗi ngành chỉ mang tính sơ bộ và tổng quát. Để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng ODA trong từng lĩnh vực, chúng ta phải có cái nhìn chi tiết về tình trạng sử dụng vốn ODA ở mỗi lĩnh vực trên trong thời điểm hiện tại. ( Xem phụ lục B) Cơ cấu phân bổ ODA theo địa phương Tùy theo vị trí địa lý, tiềm năng phát triển, nhu cầu đầu tư và khả năng thu hút vốn của từng vùng, từng địa phương mà lượng vốn ODA phân bổ cho từng vùng có sự khác biệt. Bảng2.3: Phân bổ ODA theo vùng miền/địa phương 2006-2009. VÙNG KINH TẾ VỐN ODA (Triệu USD) DÂN SỐ BÌNH QUÂN ODA/NGƯỜI (USD/người) TỔNG SỐ Trong đó VAY VIỆN TRỢ Trung du và miền núi phía Bắc 409,33 342,85 66,48 11.092,70 36,90 Đồng bằng sông Hồng 3.989,47 3.925,36 64,11 19.487,33 204,72 Bắc trung bộ và duyên hải miền trung 1.566,05 1.464,68 101,37 19.658,30 79,66 Tây Nguyên 74,66 34,70 39,96 4.931,07 15,14 Đông nam bộ 894,39 865,44 28,95 12.460,57 71,78 Đồng bằng sông Cửu Long 907,16 813,25 93,91 17.543,13 51,71 Liên vùng 8.822,35 8.143,50 678,85 Tổng cộng 16.663,41 15.989,78 1.073,63 85.173,10 (Nguồn: Đánh giá tình hình thực hiện, đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thời kỳ 2006-2010 và định hướng ODA sau 2010-Hồ Quang Minh) Chúng ta thấy có sự phân hóa rõ rệt trong cơ cấu phân bổ nguồn vốn này giữa các vùng miền. Trừ các dự án liên vùng, nguồn vốn ODA hiện nay được phân bổ chủ yếu cho vùng đồng bằng sông Hồng, với hơn 3,9 tỷ USD, kế tiếp là vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, với hơn 1,5 tỷ USD. Có thể thấy đây là hai khu vực có tiềm năng kinh tế rất lớn nhưng chưa được khai thác hết nên đã dành được sự quan tâm của Nhà nước và các nhà tài trợ. Bên cạnh đó vùng duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Hồng có một vị trí địa lý khá thuận lợi, tạo nên một lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư. Ngược lại, vùng Tây Nguyên tiếp nhận nguồn vốn ODA rất thấp, chỉ 74,66 triệu USD, tương tự là vùng Trung du và miền núi phía Bắc với số vốn 409,33 triệu USD. Thực trạng này có thể giải thích được khi đây là hai vùng có vị trí địa lý không thuận lợi nên chưa thu hút được sự quan tâm của Nhà nước lẫn các nhà tài trợ ODA. Ngoài ra việc các nhà đầu tư chưa nhận ra được tiềm năng của hai vùng kinh tế này cũng như việc thiếu định hướng và hỗ trợ của Nhà nước đã gây ra nhiều trở ngại trong quá trình thu hút vốn đầu tư ở đây. Trong thời gian tới chúng ta cần có một cái nhìn nghiêm túc hơn về tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn ODA giữa các vùng kinh tế, đánh giá lại cơ cấu phân bổ vốn ODA hiện nay để có những cải thiện kịp thời, giúp các vùng kinh tế chưa phát triển có cơ hội nhận vốn đầu tư từ ODA nhiều hơn, có cơ hội phát triển tốt hơn. Đánh giá tình hình sử dụng và thu hút nguồn vốn ODA: Qua phân tích các số liệu về vốn ODA cũng như tốc độ giải ngân và cơ cấu phân bổ của vốn ODA tại Việt Nam những năm gần đây cho thấy tầm quan trọng của vốn ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà Việt Nam đã đạt được. Thể hiện thông qua các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển “điện, đường, trường , trạm” góp phần gián tiếp xóa đói giảm nghèo tại các khu vực nông thôn, thiếu điều kiện phát triển và đẩy mạnh các công trình xây dựng môi trường, góp phần đáng kể trong việc giảm thải sự ô nhiễm môi trường tại Việt Nam. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt nam – một trong những nước có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước Ngoài ra, vốn ODA còn góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển cho Việt Nam. Việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận, góp phần thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại. Tất cả các nước theo đuổi chiến lược hướng ngoại đều có nhịp độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh và biến đổi cơ cấu kinh tế trong nước mạnh mẽ trong một thời gian ngắn để chuyển từ nước Nông - Công nghiệp thành những nước Công - Nông nghiệp hiện đại, có mức thu nhập bình quân đầu người cao. Song song với những thành công đã đạt được, vốn ODA tại Việt Nam vẫn tồn tại những tác động tiêu cực. Cụ thể như, gánh nặng trả nợ lớn và kéo dài: tuy vốn ODA cho vay với điều kiện ưu đãi cao, lãi suất thấp và thời gian trả nợ kéo dài nhưng nếu không được quản lý tốt, đồng bộ ở tầm vĩ mô và sử dụng khoản vay có hiệu quả thì sẽ dẫn đến hậu quả khát vốn và hỗn loạn, làm hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư vào nguồn vốn này còn thấp có thể dẫn đến nợ nần và mất lòng tin từ các nhà tài trợ, gây khó khăn cho các đàm phán về vốn sau này. Điển hình là vụ bê bối trong dự án đại lộ Đông – Tây của Công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (PCI) dẫn đến quyết định của Nhật Bản là tạm dừng các dự án cho vay ưu đãi vốn ODA với Việt Nam. Vụ án này làm giảm uy tín của Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế. Cụ thể là đến ngày 23/02/2009, Nhật bản mới tuyên bố nối lại hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam kèm với biện pháp chống tham nhũng. Bên cạnh đó, tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái trong thời gian qua đã làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Cụ thể, giá đồng Yên (JPY) tăng nhanh làm giá trị nợ thực của Việt Nam trong nguồn vốn ODA từ Nhật Bản tăng thêm hơn 50 nghìn tỷ đồng. (theo tính toán được Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề cập đến trong báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2010, phục vụ phiên họp thường kỳ của Chính phủ ngày 30/9/2010). Thực trạng FDI: Cơ cấu FDI: Cơ cấu theo thành phần kinh tế: Qua số liệu thực tế về vốn đầu tư theo thành phần kinh tế, nhận thấy tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài có đóng góp đáng kể vào nền kinh tế nước ta, luôn tăng lên hàng năm. Đặc biệt giai đoạn 2006 đến 2009 vốn đầu tư FDI tăng đột biến từ 65.604 tỷ VND lên 190.670 tỷ VND. Do năm 2008 là thời điểm xảy ra khủng hoảng tài chính nên đến năm 2009 vốn đầu tư FDI giảm còn 181.183 tỷ VND. Biểu đồ 2.4: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 1995 – 2009 (xem bảng 1 – Phụ Lục A) (Nguồn: Cục Đầu Tư Nước Ngoài) Cơ cấu theo ngành kinh tế: Nguồn vốn FDI chủ yếu đầu tư vào các ngành sau: Công nghiệp chế biến, kinh doanh bất động sản, xây dựng, dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm tỷ trọng tương đối lớn so với các ngành khác. Chẳng hạn như ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vốn đăng ký là 93.600.623.306 USD trong khi đó ngành Cấp nước; xử lý chất thải chỉ có 63,773,000 USD … Từ đó ta thấy được sự phân hóa trong ngành nghề đầu tư. Mặc khác cũng có sự chênh lệch về số vốn đăng ký của các doanh nghiệp nước ngoài và số vốn thực hiện của những dự án đó chiếm tỷ trọng rất thấp như: CN chế biến, chế tạo vốn đăng kí 93,600,623,306 USD nhưng vốn thực hiện 31,415,630,096 USD chiếm 34% so với vốn đăng ký thực hiện dự án, các ngành nghề khác cũng có chung tình trạng như ngành CN chế biến. Biểu đồ 2.5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo ngành kinh tế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/11/2010 ( Xem bảng 2 – Phụ lục A) - (Nguồn: Cục Đầu Tư Nước Ngoài) Cơ cấu theo địa phương: Biểu đồ 2.6: Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép thời kỳ 1988 - 2009 phân theo địa phương ( xem bảng 3-Phụ lục A) (Nguồn: Cục Đầu Tư Nước Ngoài) Về địa phương thực hiện dự án, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào các vùng kinh tế phát triển như Đông Nam Bộ chiếm 46%, Đồng Bằng Sông Hồng chiếm 19%, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền trung chiếm 27% trên tổng số vốn đăng ký đầu tư vào Việt Nam. Cho thấy có sự phân hóa đầu tư của các doanh nhiệp FDI chủ yếu ở các thành phố lớn. Cơ cấu theo đối tác đầu tư: Về đối tác đầu tư chủ yếu là các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Hoa Kỳ, Anh… đầu tư vào Việt Nam với tỷ trọng tương đối lớn. Biểu đồ 2.7: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo đối tác các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/11/2011. (Nguồn: Cục Đầu Tư Nước Ngoài) 2.2.2 Vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội : Vốn FDI chiểm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần vào sự tăng trưởng liên tục của GDP. Theo các thống kê từ 2006 đến 2009, vốn FDI chiếm gần 20% vốn đầu tư toàn xã hội và đóng góp khoảng 30% GDP hàng năm . Bảng 2.4: Tỷ lệ đóng góp FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, GDP. Năm % so với tổng đầu tư xã hội % đóng góp vào GDP 2006 16,98% 16,21% 2007 17,96% 24,32% 2008 18,68% 31,49% 2009 18,33% 25,73% (Nguồn: Cục Đầu Tư Nước Ngoài) FDI nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu: Theo các thống kê trước đây cho thấy hơn 2/3 lượng vốn FDI chảy vào lĩnh vực công nghiệp với các ngành như: dầu khí, hóa chất, ô tô, xe máy, điện tử, dệt may, da giày….hầu hết là đầu tư mới, sử dụng nhiều lao động, công nghệ sản xuất tiên tiến…Xét trên mặt bằng chung cả nước, đây là khu vực có giá trị sản xuất tăng nhanh nhất, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 100% sản lượng dầu thô, ô tô, máy giặt, điều hòa, tủ lạnh, thiết bị máy tính, 60% sản lượng thép cán, 28% sản lượng xi măng, 76% dụng cụ y tế chính xác được cung cấp bởi các doanh nghiệp FDI. FDI đã góp phần quan trọng trong việc đưa Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế. Cùng với tốc độ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khấu Việt Nam (ước đạt trung bình 21% mỗi năm) thì các doanh nghiệp FDI đóng góp trung bình 51,25% trong tổng kim ngạch này. Xu hướng này tăng dần qua các năm, nếu các doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 4,6 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu (11,54 tỷ USD) trong năm 1999, thì sau 4 năm (năm 2003) con số này đã tăng gấp đôi đạt 10,2 tỷ USD và 3 năm sau đó (năm 2006) đạt gần 23 tỷ USD (gấp đôi năm 2003), và đạt mức 35 tỷ USD trong năm 2008. FDI tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực: Tác động xã hội tích cực nhất FDI mang lại là giải quyết bài toán về lao động, và dân số. Bằng việc sử dụng nguồn lực tại chổ, các doanh nghiệp FDI góp phần hạn chế tình trạng người dân tập trung tại các thành phố lớn và nâng cao chất lượng nhân lực thông qua các chương trình đào tạo, nâng cao tay nghề. Đến nay, các doanh nghệp FDI đã thu hút được khoảng 1,7 triệu lao động trực tiếp. Mức thu nhập trung bình của lao động khu vực này cao gấp hai lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành cùng với cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại, phương thức lao động tiên tiến. Bên cạnh số tác động trực tiếp, khu vực FDI còn gián tiếp tạo việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. FDI đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô: Khu vực FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của nhà nước. Thời kỳ 1996 – 2000, không kể thu từ dầu thô, khu vực doanh nghiệp FDI đã nộp ngân sách 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần so với thời kỳ 5 năm trước đó; trong 5 năm 2001– 2005 đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm; con số này của 2 năm 2006 và2007 là trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996 – 2000 và bằng 83% thời kỳ 2001 –2005; riêng năm 2008 đạt 2 tỷ USD, tăng 25,8% so năm 2007, năm 2009 đạt gần 2,5tỷ USD. Hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như: đóng góp vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, giảm thiểu thâm hụt thương mại qua đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Khu vực FDI cung cấp lượng hàng hóa và dịch vụ lớn ra thị trường, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô... Một số hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn FDI: Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp FDI còn thấp, chuyển giao công nghệ chậm chạp, chuyển giá ra ngoài, khu vực FDI chưa tạo ra được tác động lan tỏa tới các khu vực kinh tế khác như mong muốn. Trong 3 năm gần đây, khu vực FDI được đánh giá là khu vực kinh doanh kém hiệu quả, tăng trưởng chủ yếu nhờ vào thâm dụng lao động, một số công ty có hệ thống thiết bị lạc hậu hoặc đã khấu hao hết. Công tác xử lý chất thải công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường mà Công ty Vedan Việt Nam là ví dụ điển hình. Tính liên kết ngành còn lỏng lẽo, nhất là với ngành công nghiệp phụ trợ, trong nhiều lĩnh vực, thành phần của một sản phầm chứa đến 60% đến 70% là nguyên vật liệu nhập khẩu. FDI chỉ tập trung nhiều nhất trong những ngành, lĩnh vực mà chúng ta thực sự mở cửa, ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ. Vẫn tồn tại khoảng cách giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước về việc chuyển giao công nghệ. Một vấn đề đã được nói đến từ lâu là thủ thuật “chuyển giá” của doanh nghiệp FDI. Theo số liệu mới công bố của Cục Thuế TP.Hồ Chí Minh, trong số 1.358 doanh nghiệp có vốn FDI nộp hồ sơ báo cáo thuế năm 2009 có đến 759 doanh nghiệp báo lỗ, trong đó gần 90% hoạt động trong lĩnh vực may mặc. Với lợi thế là nguyên phụ liệu được cung cấp bởi công ty mẹ ở chính quốc, phía đối tác thực hiện “chuyển giá” bằng hình thức tăng giá đầu vào, giảm giá đầu ra, gây thiệt hại không nhỏ cho Việt Nam. Tình hình trì hoãn thực hiện dự án và rút vốn đầu tư gia tăng Bằng việc phân cấp quản lý đầu tư nhằm tăng cường tính tự chủ của địa phương, mặt trái của giải pháp này gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh trong kêu gọi FDI. Nhiều địa phương quá dễ dãi trong cấp phép đầu tư, phê duyệt dự án mà không xét đến nguồn lực, nhu cầu và khả năng tại địa bàn hoặc cấp phép rồi nhưng không theo dõi, quản lý. Sự phân cấp quá sâu đã gây ra tình trạng nền kinh tế quốc dân bị chia cắt, 63 nền kinh tế địa phương cùng cạnh tranh với nhau, đưa đến nhiều hệ lụy: phá vỡ quy hoạch chung của ngành, doanh nghiệp cố tình chiếm đất, không triển khai, khi đó, cơ quan cấp phép chỉ còn cách rút giấy phép, nhưng đây là cách giải quyết khi chuyện đã rồi, thiệt hại đương nhiên thuộc về địa phương. Việc các doanh nghiệp FDI phải chờ từ năm đến sáu tháng để được cấp phép đầu tư, sau đó lại tiếp tục phải chờ do công tác giải phóng mặt bằng, bàn giao đất tiến triển chậm chạp, thậm chí không triển khai được là khá phổ biến. Nguyên nhân đến từ hai phía, thứ nhất do phía địa phương, do thủ tục hướng dẫn chưa rõ ràng, sự liên kết, phối hợp không đồng bộ giữa các đơn vị chức năng khiến cho công tác xử lý, giải quyết chậm chạp. Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ phía nhà đầu tư, có thể do không đủ năng lực tài chính, đánh giá chưa đúng nhu cầu thị trường hoặc do nhà đầu tư chủ trương chiếm giữ đất. Tình trạng này đang diễn ra khá phổ biến trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất động sản, gây lãng phí tài nguyên đất và làm mất cơ hội của các nhà đầu tư khác. Hệ thống pháp luật: Việt Nam đã có những biến chuyển tích cực trong điều chỉnh các quy định liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, tuy nhiên vẫn không đáp ứng được nhu cầu và tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Rườm rà và mất nhiều thời gian là đặc điểm nổi bật nhất. Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố thời gian trong giao nhận hàng hàng hóa ngoại thương, từ 2006, thủ tục hải quan điện tử đã được thí điểm, và từ 1.1.2011 được áp dụng rộng rãi tại tất cả các chi cục. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là hạ tầng viễn thông chưa đáp ứng được yêu cầu: sự cố đường truyền, lỗi chương trình…khiến cho đôi khi việc khai báo hải quan điện tử trở nên rắc rối. Các quy định về thuế quan vẫn còn tình trạng bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở các khu vực kinh tế khác nhau. Hướng dẫn thực hiện chưa rõ ràng, chồng chéo, cơ quan chức năng lẫn doanh nghiệp đều gặp lúng túng trong vận dụng. Hệ thống danh mục hàng hóa và mức thuế cho từng loại đã có nhưng tốc độ cập nhật chưa cao, không bắt kịp được sự phát triển của thị trường và nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng giao thông và viễn thông : Vẫn biết cơ sở hạ tầng và viễn thông là quan trọng song điều kiện tài chính và khả năng của nước ta vẫn còn hạn chế. Hơn nữa tình trạng quy hoạch giao thông không đồng bộ giữa các địa phương làm mất đi tính thông suốt và liên kết giữa các vùng. Cảng đã xây xong nhưng đường ra vào cảng không có là chuyện thực tế đã xảy ra tại cảng Cái Mép – Thị Vải. Theo Tổ chức Xúc tiến thương mại và Đầu tư Thương mại thì chi phí lưu thông, giao nhận, dịch vụ viễn thông tại Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực. Cụ thể là cước điện thoại quốc tế của Việt Nam cao gấp 7 lần Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakarta, khoảng 3 lần so với Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi địa phương mà chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ có sự khác nhau, linh hoạt và uyển chuyển. Trên đây chỉ là một số điểm chính, mang tính tổng quát để cung cấp cái nhìn chung cho những việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI ở nước ta trong thời gian qua. Cơ chế kiểm soát các hành vi gây tổn hại cho nước sở tại: Xuất phát từ việc thiếu một hàng rào đánh giá, kiểm tra các doanh nghiệp FDI trong quá trình hoạt động đã dẫn đến hậu quả là môi trườngsinh thái và tài nguyên của Việt Nam đang bị hủy hoại và khai thác bừa bãi bởi các dự án đầu tư có nguồn tài trợ là FDI. Trong thời gian qua chúng ta đã quá coi trọng những nguồn lợi mà doanh nghiệp FDI mang lại đến mức quên đi những tác động tiêu cực mà các doanh nghiệp này gây ra cho đời sống kinh tế xã hội Việt Nam. Trường hợp vi phạm luật bảo vệ môi trường của công ty Vedan là một bài học lớn cảnh tỉnh cho những nhà điều hành chính sách của Việt Nam. Kết hợp sử dụng vốn ODA và FDI để phát triển kinh tế xã hội: ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quý giá đối với các nước đang phát triển. song, chúng chỉ phát huy hết hiệu quả khi thực sự gắn kết được với nhau. Thực tế, trong thời gian qua, Nhà nước đã thiếu định hướng kết hợp trong chính sách huy động, và đặc biệt tính hiệu quả của việc vay và trả nợ vốn ODA chưa được quan tâm. Cần có chính sách kết hợp sử dụng hài hòa, để FDI và ODA có thể phát huy hết vai trò góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nhịp độ phát triển kinh tế xã hội hoàn toàn tỷ lệ thuận với khối lượng ODA và FDI mà quốc gia đó thu hút được. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ chúng được sử dụng như thế nào. Lý thuyết cũng như thực tiễn chứng minh rằng vốn ODA và FDI sẽ phát huy tối đa sức mạnh nếu như chúng được sử dụng kết hợp và bổ trợ lẫn nhau. Bỡi lẽ, các dự án FDI chỉ có thể được triển khai hiệu quả trên cơ sở có môi trường cần thiết cho việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, như cơ sở pháp lý, mặt bằng sản xuất, mạng lưới giao thông... Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng cần phải có những yếu tố làm “đầu vào” và các yếu tố đảm bảo “đầu ra” cho quá tình sản xuất, như năng lượng, nước, dịch vụ về tín dụng, thanh toán... Nhà đầu tư nước ngoài hầu như không tự mang đến hoặc nhập khẩu được mà chủ yếu nhờ vào sự cung ứng của nước nhận vốn. Bài toán đặt ra cho các nước đang phát triển là muốn thu hút được nhiều vón FDI cần phải đáp ứng được những yếu tố tối cần thiết như trên trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém và nguồn nội lực đầu tư để cải thiện và xây dựng mới rất khan hiếm. Vấn đề chỉ có lời giải khi các quốc gia đang phát triển biết cách khai

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCD2_ODA FDI.doc
Tài liệu liên quan