Mục Lục
Mục Lục 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN HỖ TRỢ 3
PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC ODA 3
1. Khái niệm và quá trình phát triển của ODA 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Qúa trình phát triển của ODA trên thế giới 3
2. Đặc điểm của vốn ODA 4
2.1. Tính ưu đãi: 4
2.2 .Tính ràng buộc: 5
2.3. Có khả năng gây ra gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận: 6
3. Phân loại nguồn vốn ODA 6
3.1. Theo tính chất: 6
3.2. Theo mục đích 6
3.3. Theo tính ràng buộc 7
3.4. Theo hình thức thực hiện 7
4. Những xu hướng mới của ODA trên thế giới 7
4.1. Ngày càng có thêm các cam kết quan trọng 7
4.2. Phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường 7
4.3. Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong thu hút vốn ODA ngày một tăng 7
5. Vai trò của ODA đối với nước tiếp nhận 8
5.1. Nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang phát triển 8
5.2. Phát triển các nguồn lực 8
5.3 Góp phần thu hút FDI và các nguồn vốn đầu tư khác 8
5.4. Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ Nhà nước 9
PHẦN II: THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG 10
NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM 10
1. Thực trạng thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam 10
2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam. 14
2.1. Tình hình giải ngân ODA 14
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam 17
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO 23
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG 23
NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM 23
1. Nâng cao nhận thức và hiểu đúng về bản chất của ODA 23
2. Sử dụng ODA có chọn lọc 23
3. Đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA 23
4. Tăng cường theo dõi,quản lý và phân cấp quản lý 24
KẾT LUẬN 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13484 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gày càng trở thành mối quan tâm đặc biệt và lâu dài của các nước DAC. Nó không còn là vấn đề của riêng quốc gia nào mà đã trở thành vấn đề của toàn thế giới. Do đó mà nhiều cam kết quan trọng đã được ký kết tại các hội nghị quốc tế. Tại Hội nghị cấp cao thế giới về phát triển xã hội năm 1995, chính phủ các nước đã tự nguyện cam kết Thỏa thuận 2020. Theo thỏa thuậ này thì các nước nhận viện trợ phải cam kết dành 20% vốn viện trợ cho các chi tiêu công cộng, dịch vụ cơ bản. Tháng 6/1997, tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, các nước DAC đã cam kết dành 0,7% GNP của mình để viện trợ.
4.2. Phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường
Trong điều kiện môi trường sống của con người trên trái đất ngày một xấu đi do chính con người gây ra thì vấn đè bảo vệ môi trường trở thành lĩnh vực được ưu tiên viện trợ của một số nước như Nật Bản. Các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB cũng đã điều chỉnh chính sách viện trợ ưu tiên cho những hoạt động bảo vệ môi trường.
4.3. Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong thu hút vốn ODA ngày một tăng
Mặc dù các nước DAC đã cam kết dành 0,7% GNP của mình để viện trợ song chưa có nước nào thực hiện được cam kết này,nhiều nhất cũng chỉ khoảng 0,35% (Mỹ, Nhật Bản). Lượng vốn ODA có xu hướng giảm trong khi nhu cầu về vốn của các nước đang phát triển tăng cùng với những vấn đề mới nảy sinh trên thế giới đòi hỏi được hỗ trợ để giải quyết. Điều này tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển nhằm thu hút nguồn vốn hỗ trợ.
5. Vai trò của ODA đối với nước tiếp nhận
5.1. Nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang phát triển
Một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển là khi thực hiệ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đều cần một lượng vốn lớn. Nguồn lực trong nước còn hạn chế không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư, do đó cần thiết phải huy động vốn từ nước ngoài.
5.2. Phát triển các nguồn lực
Thông qua viện trợ mà nước nhận đầu tư có cơ hội tiếp cận với công nghệ sản xuất hay quản lý tiên tiến. Đặc biệt phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò then chốt trong phát triển kinh tế của một quốc gia, nên các nhà tài trợ rất chú trọng ưu tiên cho lĩnh vực này. Họ thường quan tâm đến việc đào tạo nhân sự tham gia vào quản lý nhà nước nhằm nâng cao năng lực quản lý cho họ. Đầu tư nguồn nhân lực mang lại hiệu quả lâu dài trong quá trình phát triển.
5.3 Góp phần thu hút FDI và các nguồn vốn đầu tư khác
Vốn ODA được sử dụng chủ yếu vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng và xã hội. Đây là những lĩnh vực có nhu cầu vốn lớn nhưng khả năng sinh lời thấp nên không thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục đích của họ là tìm kiếm lợi nhuận nên họ sẽ quan tâm đến những nước có môi trường đầu tư thuận lợi.Vì vậy mà để thu hút các nhà đầu tư thì trước hết cần có cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt, chính sách thông
thoáng, cởi mở và ổn định. Nếu được tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả vốn ODA thì sẽ xây dựng được môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút các nguồn vốn khác và tạo điều kiện cho các nguồn vốn đó với nguồn vốn trong nước phát huy hiệu quả.
5.4. Nâng cao trình độ quản lý của cán bộ Nhà nước
Nhu cầu về vốn đầu tư được đáp ứng và sử dụng hiệu quả thì sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Khi đó đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước để đảm bảo sự phát triển, buộc các cán bộ Nhà nước phải nâng cao năng lực, trình độ quản lý phục vụ cho nền kinh tế.
PHẦN II: THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN VỐN ODA Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng thu hút nguồn vốn ODA ở Việt Nam
Với một quốc gia đang phát triển rất nhanh như Việt Nam, nhu cầu vốn rất lớn. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA là một trong những nguồn vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với Việt Nam. Trước đây,Việt Nam nhận được hai nguồn vốn ODA song phương chủ yếu, một từ các nước thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế), trong đó chủ yếu là từ Liên Xô (cũ). Đây là một nguồn viện trợ không nhỏ và có ý nghĩa quan trọng nhất cả về nội dung, quy mô và chất lượng, cũng như giá cả, điều kiện tín dụng… Khoản viện trợ này đã giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế.
Nguồn viện trợ ODA thứ hai từ các nước DAC và một số nước khác, chủ yếu là Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Ấn Độ… Nguồn ODA này đã có ý nghĩa tích cực trên một số mặt trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam.
Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ (từ tháng 11-1993), Việt Nam đã đón nhận được sự cam kết và viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với ODA cho phát triển kinh tế xã hội.
Trong thời kì 1993 - 2007,Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng trong thu hút và sử dụng vốn ODA. Theo thống kê, số vốn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam là 37 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng ODA toàn cầu. Trong đó 22,6 tỷ USD đã được ký kết. Bình quân mỗi năm Việt Nam đã thu hút được 2,5 tỷ USD vốn ODA. Dòng vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng tăng nhưng không
phải luôn luôn tăng. Vốn cam kết năm 1997 và 1998 giảm sút do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á.Trong thời gian 1993 - 2007, vốn ODA giải ngân đã tăng hơn 4 lần. Hầu hết sự gia tăng dài hạn của vốn giải ngân là ở vốn vay hơn là vốn không hoàn lại. Gần một nửa (49%) nguồn vốn vay có lãi suất thấp hơn 1%/năm và thời gian trả nợ ít nhất là 30 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Một phần ba nguồn vốn vay là với lãi suất hang năm từ 1% đến 2,5%. Hơn nữa, phần lớn khoản vay ODA sẽ được xem xét trong điều kiện hạn chế khả năng trả nợ bên ngoài của Việt Nam. Tổng nợ quy đổi của Việt Nam khoảng 37% GDP năm 2007, điều này cho thấy không có dấu hiệu nguy hiểm của khủng hoảng nợ ở Việt Nam.
Đặc biệt trong những năm gần đây, cam kết ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam tăng khá đều: năm 2005 đạt khoảng 3,5 tỷ USD, năm 2006 đạt 3,75 tỷ USD, năm 2007 là 4,45 tỷ USD, còn cho năm 2008 con số này là 5,426 tỷ USD. Đây là mức cam kết kỷ lục, nâng tổng giá trị ODA cam kết trong 2 năm 2006 - 2007 đạt gần 9,88 tỷ USD, bằng 49% dự báo cam kết vốn ODA cho cả thời kỳ 2006 - 2010.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, năm 2007, tổng giá trị ODA được ký kết ước đạt hơn 3,6 tỷ USD (trong đó, vốn vay hơn 3,3 tỷ USD và viện trợ không hoàn lại hơn 289 triệu USD), tăng 12,3% so với năm 2006, góp phần đưa tổng vốn ODA ký kết trong 2 năm 2006 - 2007 lên 6,53 tỷ USD, tương đương 40% dự kiến ký kết trong thời kỳ 2006 - 2010. Trong 3 tháng đầu 2008, công tác vận động thu hút vốn đầu tư ODA của Việt Nam có nhiều thuận lợi do Việt Nam được đánh giá là một trong những nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất. Tính đến hết quý I/2008, tổng giá trị ODA ký kết thông qua các hiệp định cụ thể với các nhà tài trợ đạt 369,06 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó vốn vay đạt 342,69 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 26,37 triệu USD. Trong số này có những dự án tài trợ lớn như: ADB tài trợ cho dự án “Đường hành lang ven biển phía Nam thuộc tiểu vùng Mê Kông mở rộng” 150 triệu USD; Nhật Bản tài trợ “Chương trình ngân hàng - tài chính III” 75 triệu USD; dự án “Giáo dục trung học cơ sở vùng khó khăn nhất” trị giá 50 triệu USD, “Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 6” (PRRSC6) trị giá 30,67 triệu USD… Mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động của thị trường, tình hình lạm phát vẫn gia tăng, nhưng nhờ những nỗ lực và các giải pháp của Chính phủ đề ra nhằm hoàn thiện thể chế về quản lý và sử dụng vốn ODA, tình hình thu hút vốn ODA trong quý 2/2008 vẫn được đánh giá rất khả quan. Trong quý 2/2008 này Việt Nam ký với Nhật Bản các hiệp định trị giá khoảng 1 tỷ USD cho một số dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu, ký với Liên minh châu Âu (EU) hiệp định trị giá 10,8 triệu USD cho dự án: “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”, ký với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) hiệp định trị giá 1,5 triệu Euro (khoảng 2,3 triệu USD) viện trợ không hoàn lại cho Quỹ Đầu tư phát triển đô thị thành phố Hồ Chí Minh (HIFU)… Ngoài ra còn một số chương trình, dự án ODA đang hoàn tất thủ tục để đi đến ký kết. Những kết quả này cho thấy, sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hơn nữa, các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao về môi trường phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đang ngày một hấp dẫn, thông thoáng với những tiêu chí của một nền kinh tế thị trường.
Có thể nói, nguồn vốn ODA có vai trò và lợi ích rất lớn đối với Việt Nam, góp phần thúc dẩy tăng trưởng kinh tế xã hội. Thông qua nguồn vốn ODA, nhiều công trình, chương trình đã được xây dựng, triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi lên của cả nước như: Góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát triển; chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em... Nhiều công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt - Thanh Hóa…
Hiện nay, đối tác lớn cung cấp vốn ODA cho Việt Nam bao gồm: Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Qũy tiền tệ quốc tế (IMF), các tổ chức Liên Hiệp Quốc (UN) và nhiều nhà tài trợ song phương khác như Nhật Bản, Hàn Quốc. Theo thỏa thuận được ký cuối tháng 8, hỗ trợ ODA của Hàn Quốc cho Việt Nam đạt 1 tỷ USD trong giai đoạn 2008 - 2011, nhiều gấp 2 lần so với quy mô trong thỏa thuận ký kết năm 2007.Với cam kết này, Hàn Quốc trở thành nhà tài trợ song phương lớn thứ hai tại Việt Nam, và Việt Nam là nước nhận hỗ trợ phát triển nhiều nhất của Hàn Quốc. Kể từ năm 1993 đến nay, Chính phủ Hàn Quốc đã tài trợ 471,4 triệu USD vốn vay ưu đãi cho 16 dự án của Việt Nam.
Theo Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính `2006-2010 và đạt mức tăng trưởng bình quân 7,5 - 8%/năm, Việt Nam cần huy động tổng vốn đầu tư khoảng 160 tỷ USD. Trong đó, 65% huy động từ các nguồn vốn trong nước và 35% từ các nguồn vốn ngoài nước. Riêng nhu cầu về vốn ODA, trong 5 năm tới, cần thực hiện được khoảng 11 tỷ USD vốn ODA.
Để thực hiện được nguồn vốn trên, cần phải có vốn ODA cam kết khoảng 19 - 21 tỷ USD. Đề án trên do Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập, đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định 290 phê duyệt, đưa ra dự báo, nước ta có nhiều thuận lợi để tiếp tục thu hút nguồn vốn này. Tuy nhiên, cũng không hiếm khó khăn khi nhu cầu về vốn ODA của các nước đang phát triển tiếp tục tăng mạnh, trong khi năng lực quản lý, thực hiện các chương trình và dự án ODA của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Chính vì vậy, sau khi phân tích các yếu tố liên quan đến chính sách, xác định nguyên tắc thu hút và sử dụng vốn ODA thời gian tới, Đề án dự báo, nguồn vốn này dành cho Việt Nam sẽ đạt mức cam kết khoảng 19 - 21 tỷ USD, bình quân 4 tỷ USD/năm, tăng trung bình 8% so với mức cam kết ODA năm 2005. Trong đó, vốn ODA ký kết trong thời kỳ 2001-2005 chuyển tiếp sang khoảng 8 tỷ USD; nguồn vốn ký kết mới dự báo sẽ đạt 12,35 - 15,75 tỷ USD. Như vậy, tổng vốn ODA được ký kết thời kỳ 2006 - 2010 sẽ đạt khoảng 20,4 - 23,7 tỷ USD. Kết quả khảo sát các nhà tài trợ cũng cho con số tương đương với dự báo này.
Vậy nguyên nhân do đâu mà Việt Nam thu hút được nhiều ODA trong thời gian gần đây? Đó là:
Thứ nhất, chế độ chính trị ổn định và sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nước được cộng đồng viện trợ ưa thích.
Thứ hai, Việt Nam đã hưởng lợi nhờ đạt được những kết quả ấn tượng về tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo nhanh đúng vào thời điểm mà các nhà tài trợ đang tập trung vào lĩnh vực giảm nghèo và sẵn sàng viện trợ cho những nước sử dụng tốt nguồn vốn này.
Thứ ba, tiến trình hội nhập sâu và chủ động vào kinh tế thế giới và khu vực, sự năng động của nền kinh tế, tiến trình cải cách hành chính và mong muốn của Chính phủ Việt Nam tiếp tục gắn bó với các nhà tài trợ đã khiến họ càng nhiệt tình với Việt Nam hơn.
Như vậy, có thể thấy, Việt Nam đã trở thành đối tác quan trọng của các nhà tài trợ trong các cam kết vốn ODA.Việt Nam cũng đã ký kết nhiều hiệp định nhận viện trợ ODA. Vấn đề được đặt ra là, vốn ODA, một nguồn lực quý góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn này không phải là khoản cho không của nước ngoài mà đây là vốn vay, có vay ắt phải có trả. Do đó, bên cạnh thu hút được nhiều, thì quan trọng hơn là cần sử dụng hiệu quả, hợp lý vốn ODA. Vậy Việt Nam đã quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ quan trọng này như thế nào trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.
2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam.
2.1. Tình hình giải ngân ODA
Nguồn vốn ODA vào Việt Nam chủ yếu tập trung cho các dự án đầu tư với một lượng vốn tương đối được dành cho các dự án hỗ trợ kỹ thuật và phi hỗ trợ kỹ thuật. Vốn ODA được phân bổ chủ yếu theo sự ưu tiên mà Chính phủ đặt ra cho các ngành kinh tế. Sự phân bổ vốn giải ngân ODA tương ứng với các lĩnh vực như: năng lượng và công nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, nông nghiệp, thủy lợi, giảm đói nghèo và phát triển nông thôn,…
Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân ODA ở Việt Nam vẫn còn thấp. Từ năm1993 đến 2006, vốn ODA đã giải ngân là 15,9 tỷ USD, chỉ chiếm 42,9% tổng số ODA cam kết. Tỷ lệ giải ngân bình quân chỉ khoảng 50% trong những năm gần đây, thấp hơn các nước ASEAN. Tỷ lệ ODA trong GDP của Việt Nam dao động từ 3,5% đến 4,5%, thấp hơn một số nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
Tỷ lệ giải ngân còn chậm, nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất lợi thế mà nguồn vốn ODA có được. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001 - 2005) giải ngân vốn ODA ở nước ta mới đạt khoảng 87% so với kế hoạch đã đề ra. Mức đạt được này tuy cũng đã cao hơn nhiều so với các năm trước đó. Năm 2001 ta chỉ giải ngân được 1,5 tỷ USD, năm 2002 giải ngân được 1,55 tỷ USD, năm 2003: 1,42 tỷ USD, năm 2004: 1,6 tỷ USD, năm 2005: 1,7 tỷ USD. Tuy nhiên, đến năm 2006, giải ngân ODA của Việt Nam đạt 1,8 tỉ USD, năm 2007 đạt 2,0 tỉ USD và dự kiến năm 2008 sẽ đạt 2,2 tỉ USD…
Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố Hồ Chí Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực hiện biện pháp mang tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao nhiêu.Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2 - 3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7 - 8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào.
Có một vài nguyên nhân giải thích vì sao ODA lại giải ngân chậm ở Việt Nam. Thứ nhất, thông thường phải mất một thời gian dài để các chương trình và dự án ODA được triển khai. Khoảng 50% nguồn vốn ODA ở Việt Nam được dành cho các dự án cơ sở hạ tầng, lĩnh vực cần nhiều thời gian hơn để tiến hành và thậm chí kết thúc chậm hơn từ 3 - 5 năm so với các dự án ở các lĩnh vực khác, điều này đã dẫn đến việc giải ngân chậm. Một số nước đang phát triển khác, chẳng hạn như một số nước ở châu Phi, chỉ sử dụng một phần ba nguồn vốn ODA cho các dự án cơ sở hạ tầng và có tỷ lệ giải ngân cao hơn. Thứ hai, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án và chương trình ODA của Việt Nam còn hạn chế và bất cập, đặc biệt là khi có sự tham gia của chính quyền địa phương. Quy trình và thủ tục trong nước chậm trễ, đi kèm với đó là việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng, cũng như công tác đấu thầu, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các Ban quản lý còn hạn chế và bất cập. Bên cạnh đó, vốn đối ứng bố trí chưa kịp thời, vấn đề quy hoạch vận động và sử dụng ODA đến thời điểm này vẫn chưa được hoàn chỉnh để định hướng cho các cơ quan, địa phương chủ động thu hút và sử dụng
nguồn vốn này. Thứ ba, khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA chưa đồng bộ và việc hiểu các văn bản này cũng không thống nhất. Hơn nữa, sự khác nhau trong nhận thức giữa các đối tác Việt Nam và các nhà tài trợ còn lớn, làm hạn chế việc thực hiện các dự án. Trong Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ gần đây (2007), các nhà tài trợ cho Việt Nam đã khẳng định rằng việc giải ngân ODA sẽ được cải thiện mạnh mẽ nếu cách thức thực hiện của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ hài hòa được với nhau.
Việc giải ngân vốn ODA chậm còn do nhiều nguyên nhân khác: Các điều kiện khá chặt chẽ do các nhà tài trợ đặt ra; đầu tư và các dự án kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian... song nguyên nhân chủ quan và nội tại là chủ yếu.
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam
Trải qua hơn 15 năm vận động và thực hiện ODA, đã có những kết quả không thể phủ nhận theo hướng phát triển bền vững, đó là:
Thứ nhất, bổ sung nguồn vốn và tăng cường cơ sở hạ tầng: Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển. Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đa góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ hai, xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội: ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và xuống dưới 20% những năm gần đây. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) về giảm nghèo mà nước ta đã cam kết với thế giới, giảm 50% hộ nghèo trong thời gian 1990-2015. Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo. Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ phát triển các tỉnh và thành phố, nhất là hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn miền núi; ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện đời sống, nâng cao các chỉ số về giáo dục, y tế, văn hoá,… tăng cường chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, tăng cường bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Nhiều dự án ODA hỗ trợ bảo vệ môi trường ở các thành phố lớn. Nhiều dự án ODA đã dành cho việc tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ thống thoát nước thải ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, và các đô thị, khu kinh tế quan trọng. Các nghiên cứu bảo vệ các di sản thiên nhiên như Vịnh
Hạ Long, Mỹ Sơn, Hội An, Cố đô Huế,… bảo đảm đa dạng sinh học đã được thực hiện có kết quả.
Thứ tư, tăng cường thể chế: ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý hiện đại được chuyển giao.
Thứ năm, quan hệ đối tác chặt chẽ: Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành,...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án, thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực toàn diện về quản lý ODA.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được của ODA hỗ trợ quá trình phát triển, việc sử dụng ODA trong thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực này. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương về tình hình phân cấp quản lý vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) ở địa phương, xu hướng của chính sách phân cấp quản lý ODA của WB cũng như các nhà tài trợ khác đã tác động rất lớn đối với các quốc gia thụ hưởng
nguồn vốn này. Ở Việt Nam, chính sách này được tiến hành từng bước và được đẩy mạnh từ cuối năm 2006, khi Nghị định số 131/2006/NĐ-CP của Chính phủ ra đời với nội dung cốt lõi là Thủ tướng chỉ phê duyệt các chương trình quan trọng quốc gia, khung chính sách và các dự án liên quan đến an ninh quốc phòng. Khung pháp lý liên quan như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng,... cũng thay đổi theo hướng đồng bộ hóa và phân cấp mạnh các dòng vốn cho địa phương. Theo đánh giá, chính sách phân cấp thời gian qua đã tạo ra hàng loạt ưu điểm như mở rộng đối tượng tham gia quản lý, giảm các rào cản trong việc ra các quyết định hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng ở địa phương. Địa phương cũng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ do bộ, ngành cung cấp hơn, đồng thời điều phối hiệu quả hơn các chương trình quốc gia, tỉnh, huyện, tạo cơ hội tốt hơn cho người dân tham gia quyết định. Nhưng ngược lại, thực tế phân cấp ở Việt Nam cũng đã cho thấy một loạt các hạn chế: năng lực quản lý và chuyên môn yếu kém đã làm cho các dự án ODA ở địa phương kém hiệu quả đi, việc chuyển giao trách nhiệm trong khi không đủ nguồn lực cần thiết đã làm cho việc phân phối công bằng dịch vụ dịch vụ hoặc cung cấp dịch vụ khó khăn hơn. Đặc biệt, việc chưa gắn kết giữa các cấp quản lý đã làm cho sự phối hợp thực hiện chính sách trở nên phức tạp và không đảm bảo tính thông suốt xuống cơ sở. Một vấn đề tồn tại mang tính tổng quát hơn cũng được chỉ rõ: Đó là tình trạng khung pháp lý dù đã thay đổi theo hướng đồng bộ hóa, phân cấp mạnh hơn nhưng vẫn lệch pha, chưa đồng bộ, nội dung phân cấp quản lý ODA thể hiện trong rất nhiều văn bản khác nhau. Việc hài hòa chính sách, thủ tục và quy trình giữa Việt Nam và nhà tài trợ cũng còn chậm, khoảng cách của sự cách biệt còn lớn. Khảo sát thực tế về thực hiện phân cấp quản lý ODA tại TPHCM, Sơn La và Quảng Trị cho thấy quá nhiều thủ tục phức tạp. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng ODA thời gian qua còn chưa hiệu quả.
Đặc thù riêng của ngành và cách thức phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương trong nội bộ ngành cũng ảnh hưởng tới thực hiện phân cấp ODA. Lĩnh vực địa phương được phân cấp nhiều hơn thì cơ hội để tiếp cận ODA cho ngành đó cao hơn, điển hình như giáo dục, y tế, môi trường đô thị. Từ 1993 đến 2007, sự mất cân đối còn thể hiện ở chỗ Tp.HCM và Hà Nội thụ hưởng tới 1/3 tổng ODA đã ký kết, gấp 10 lần mức trung bình ở các địa phương.Phản hồi cụ thể từ các địa phương cũng nêu rõ, thực hiện phân cấp trong triển khai một dự án cụ thể mới gặp nhiều khó khăn, nhất là các dự án đầu tư xây dựng công trình. Nguyên nhân chính là các địa phương chưa được hoàn toàn tự chủ, phải xin ý kiến của bộ, ngành và Chính phủ ở nhiều khâu. Mặt khác, địa phương chưa được chủ động trong đàm phán với nhà tài trợ, dẫn đến nhiều nội dung thay đổi do không phù hợp với thực tiễn địa phương. Các tồn tại cũng diễn ra ở chính sách phân cấp trong đấu thầu, nhất là ở cấp huyện khi cán bộ địa phương khó đáp ứng việc lập hồ sơ mời thầu, cấp tỉnh thì ít có thẩm quyền xử lý vốn đối ứng ở các dự án được cấp phát từ ngân sách Nhà nước. Đó là chưa kể trong quản lý, mỗi địa phương thực hiện một cách khác nhau khi chưa có mô hình tổ chức thực hiện quản lý ODA chung cho tất cả các tỉnh, thành phố. Ở cấp ban quản lý dự án ở địa phương, tình trạng yếu kém được phản ánh là sự thiếu quyền hạn, thụ động hoặc trách nhiệm chưa được quy định rõ.
Bản chất nguồn vốn ODA là huy động thông qua các nhà tài trợ dưới hình thức cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian hoàn trả dài. Thế nhưng, nếu xem xét kỹ thì phần viện trợ chỉ chiếm khoảng trên 15%, còn lại đều là vốn vay. Với nguồn vốn vay ODA dự kiến trên 19 tỷ USD, nếu so với số dân hiện tại của nước ta (khoảng 84 triệu người), chỉ cần làm một phép tính giản đơn cũng có thể nhận thấy: trong vòng 5 năm, mỗi người dân phải trả khoản nợ tương gần 229USD/người; tức là khoảng 46 USD/người/năm (chưa kể đến phần lãi). Với một khoản vay lớn như trên, tính ra vốn ODA chiếm 13,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 28% tổng đầu tư từ ngân sách Nhà nước và bằng khoảng 50% vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước. Bởi vậy, không những thời gian qua, mà tương lai (5 năm tới) vốn ODA vẫn là nhân tố quan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21450.doc