Khi thu nhập của dân cư tăng cao, ngoài chi phí cho sinh hoạt đời sống hàng ngày thì họ còn dư một số tiền nhàn rỗi.Những nguồn vốn nhàn rỗi này trong dân cư là khá nhiều và họ thường dùng để đầu tư.Có nhiều hình thức đầu tư như gửi tiết kiệm tại ngân hàng hay cho vay hoặc tự mình đầu tư.Ngoại trừ những thành phần tự mình đầu tư, số còn lại chiếm đa số là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, họ thường gửi tiết kiệm hoặc chọn các hình thức gửi vốn đầu tư vào các công ty tài chính để họ thay mình đầu tư. Điều này khiến các Công ty tài chính nhanh chóng phát sinh ra một nghiệp vụ mới - Uỷ thác đầu tư, để có thể tiếp cận nguồn vốn dồi dào này. Tuy nhiên tâm lý những người Uỷ thác rất khó nắm bắt và thuyết phục . Điều này tạo ra sự không ổn định trong lượng vốn huy động và nó có ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư của công ty tài chính.Việc lượng vốn huy động được không ổn định sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định đầu tư của công ty, làm cho công ty rơi vào tình trạng bị động. Cần phải đánh giá đúng nhân tố này và có những biện pháp gây dựng uy tín mới có thể thu hút khách hàng được từ đó hoạt động Uỷ thác mới đứng vững là phát triển được.
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1997 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp cho hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, tình hình thị trường và những điều kiện có liên quan để từ đó thiết lập một tỉ lệ thích hợp cho việc bán trực tiếp hoặc nhận Uỷ thác đầu tư. Đối với nghiệp vụ mua bán trực tiếp sẽ do phòng Dự án và phòng Chứng từ có giá thực hiện, còn nghiệp vụ nhận Uỷ thác đầu tư sẽ được chuyển cho phòng Uỷ thác đảm nhận.Tất cả các quy trình nhận Uỷ thác đầu tư được thực hiện theo quy chế pháp luật, quy định của công ty, biểu mẫu hợp đồng khung và biểu phí chung.Những yếu tố này do phòng Uỷ thác tự thiết kế và thực hiện, sau đó sẽ trình phê duyệt về thêm về những yếu tố như : giá nhận Uỷ thác, có cho trả chậm hay không, được phép trả chậm với tỉ lệ là bao nhiêu và trong bao lâu…. Sau khi hoàn tất và được phê duyệt, phòng Uỷ thác sẽ làm đầu mối để hướng dẫn tất cả các phòng trên toàn chi nhánh thực hiện.Cụ thể từng bước trong quy trình như sau
B1) Nghiên cứu cơ hội đầu tư, nhu cầu vốn Uỷ thác đầu tư
Trên cơ sở danh mục đầu tư do Tổng Giám đốc phê duyệt, căn cứ vào thị trường và kế hoạch IPO của các doanh nghiệp, Tổ Uỷ thác đầu tư B. Quản lý vốn & Tài sản phối hợp với Ban Đầu tư nghiên cứu cơ hội đầu tư cổ phần của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá và chuẩn bị IPO, đề xuất việc nhận Uỷ thác đầu tư (trước hoặc sau đầu tư tuỳ vào tình hình cụ thể).
B2)Lập phương án nhận Uỷ thác đầu tư
Trên cơ sở đề xuất việc nhận Uỷ thác đầu tư của Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư, ban Lãnh đạo công ty đồng ý về nguyên tắc, Phòng lập phương án nhận Uỷ thác đầu tư trình Ban lãnh đạo công ty phê duyệt.
B3) Trình duyệt phương án nhận Uỷ thác đầu tư
Hoàn thiện phương án nhận Uỷ thác đầu tư trình cấp có thẩm quyền phê duyệt (Ban Tổng giám đốc, HĐĐT, HĐQT):
- Trường hợp phương án không được phê duyệt: quay trở lại 1.2
- Trường hợp phương án được phê duyệt, tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo.
B4) Marketing sản phẩm Uỷ thác đầu tư
- Căn cứ vào nội dung phương án nhận Uỷ thác đầu tư được duyệt, bộ phận Uỷ thác đầu tư Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư xây dựng bản chào dịch vụ nhận Uỷ thác đầu tư và các mẫu biểu của hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư.
- Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư và P. Mar&CNTT phối hợp trong việc quảng bá sản phẩm dịch vụ Uỷ thác đầu tư đến với khách hàng thông qua trang web nội bộ, các trang web chuyên ngành, các báo, tạp chí,...
B5) Sản phẩm Uỷ thác đầu tư trước đấu giá và sau đấu giá
Đối với sản phẩm Uỷ thác đầu tư trước đấu giá, tiếp tục thực hiện từ bước B6 đến B10.
Đối với sản phẩm Uỷ thác đầu tư sau đấu giá, tiếp tục thực hiện bước 1.10.
B.6) Tổ chức nhận hồ sơ đăng kí, thu tiền đặt cọc
Căn cứ tổng hạn mức đã được phê duyệt tại phương án nhận Uỷ thác đầu tư:
- Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư làm đầu mối hướng dẫn khách hàng đăng kí Uỷ thác, hoàn thiện hồ sơ đăng kí Uỷ thác đầu tư và nộp tiền đặt cọc Uỷ thác.
- Phòng kế toán kiểm tra, đối chiếu số liệu Uỷ thác và chuyển tiền hàng ngày.
B7) Tổng hợp, xác nhận, thống nhất số liệu
Hết thời hạn đăng kí Uỷ thác và nộp tiền đặt cọc (hoặc sau khi đã nhận đủ hạn mức) Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư, P. Kế toán đối chiếu, tổng hợp số liệu theo các chỉ tiêu: tổng số cổ phần thực đăng kí, tổng số tiền đặt cọc tương ứng,.. thông báo số lượng cổ phần đăng kí Uỷ thác cho Ban đầu tư và Ban lãnh đạo công ty.
B8) Lập kế hoạch dòng tiền
Theo phương án đầu tư đã được phê duyệt, Ban đầu tư, Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư lập kế hoạch dòng tiền của đơn vị mình chuyển đến Bộ phận Quản lý dòng tiền – Phòng Kế toán.
B9) Đấu giá hoặc phân bố số cổ phần Uỷ thác thực tế cho khách hàng
Đối với các sản phẩm Uỷ thác trước đầu tư: Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư tiến hành đặt cọc và thực hiện các thủ tục đấu giá, căn cứ vào kết quả đấu giá thực tế (sau khi đã tính chi phí vốn), trình Ban Lãnh đạo công ty phân bố tỉ lệ cổ phiếu trúng đấu giá, giá trúng thầu bình quân của PVFC.
Đối với các sản phẩm Uỷ thác sau đầu tư: trên cơ sở số lượng cổ phần đăng kí của khách hàng, ban Đầu tư phân bổ số lượng cổ phần Uỷ thác thực tế.
B.10) Thông báo tỉ lệ trúng thầu và giá trúng thầu
Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư tiến hành thông báo cho khách hàng tỉ lệ trúng Uỷ thác đầu tư, số cổ phần thực tế được Uỷ thác, giá Uỷ thác, số tiền phải nộp và các nội dung khác liên quan đến đợt nhận Uỷ thác.
B11) Thông báo, trả tiền trong trường hợp không trúng thầu
Trong trường hợp PVFC không trúng thầu: phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư phối hợp với phòng kế toán tiến hành chuyển trả tiền đặt cọc cho khách hàng (theo yêu cầu).
B12) Thu vốn Uỷ thác đầu tư đợt 2
Căn cứ vào số cổ phần khách hàng được Uỷ thác và giá Uỷ thác thực tế, phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư phối hợp với phòng kế toán tiến hành thu tiền Uỷ thác của khách hàng.
B13) Kiểm tra hồ sơ khách hàng
Bộ phận Uỷ thác đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra toàn bộ hồ sơ Uỷ tháccủa khách hàng, các chứng từ có liên quan đến quá trình nhận Uỷ thác đầu tư, cập nhật phần mềm đảm bảo đúng, chính xác.
B14) Giao kết hợp đồng Uỷ thác đầu tư
Theo nội dung phương án Uỷ thác, số cổ phần được Uỷ thác và giá Uỷ thác thực tế của từng khách hàng, bộ phận Uỷ thác đầu tư phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư tiến hành lập hợp đồng Uỷ thác đầu tư và kí kết hợp đồng với khách hàng.
B15) Theo dõi, quản lý hợp đồng Uỷ thác đầu tư của khách hàng
- Chuyên viên phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư được giao nhiệm vụ quản lý khách hàng chịu trách nhiệm tập hợp, cập nhật và quản lý toàn bộ văn bản, tài liệu liên quan đến đợt nhận Uỷ thác đầu tư.
- Chuyên viên phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư thực hiện việc theo dõi, quản lý hợp đồng Uỷ thác đầu tư, bao gồm:
- Thông báo cho khách hàng những quyền lợi và các thông tin cần thiết phát sinh liên quan đến cổ phần của khách hàng trong thời hạn Uỷ thác, đồng thời cập nhật hồ sơ khách hàng.
- Thu phí trả chậm.
- Thực hiện việc chuyển nhượng hợp đồng Uỷ thác đầu tư theo yêu cầu của khách hàng trong thời hạn Uỷ thác.
B16) Kết thúc hợp đồng Uỷ thác đầu tư
Hợp đồng Uỷ thác đầu tư được kết thúc theo quy chế hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư của PVFC.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhận UTĐT
3.1.Nhân tố khách quan
Hệ thống pháp luật
Bất cứ hoạt động kinh tế nào diễn ra trên thị trường đều phải tuân theo quy định của pháp luật.Yếu tố pháp luật có ảnh hưởng không nhỏ đến sự trơn tru của hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động Uỷ thác đầu tư nói riêng. Có thể nói yếu tố pháp luật là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động Uỷ thác đầu tư vì nó mang tính bắt buộc và mang tính định hướng cho hoạt động Uỷ thác.Pháp luật chính là một trong những công cụ quản lý ở tầm vĩ mô của nhà nước.Bất cứ sự thay đổi nào của pháp luật cũng có những tác động đến hoạt động Uỷ thác, có thể giúp cho hoạt động Uỷ thác tiến hành thuận lợi hơn hoặc làm hạn chế phạm vi hoạt động của hoạt động Uỷ thác. Uỷ thác đầu tư là một nghiệp vụ mang tính trung gian, dựa chính vào sự tin tưởng giữa các bên, vì thế, sự hoàn chỉnh và cụ thể của pháp luật sẽ bảo vệ quyền lợi cho từng đối tượng tham gia.Yêu cầu tính pháp lý của hoạt động Uỷ thác đầu tư là khá chặt chẽ và phức tạp.Với một hệ thống các văn bản quy định đầy đủ sẽ gúp cho các bên tiến hành hoạt động Uỷ thác được thuận lợi và việc giải quyết các tranh chấp khiếu kiện cũng được xử lý tốt.Chính vì thế mà các công ty tài chính không phải nắm vững điều luật để áp dụng đúng đối với mỗi khách hàng và hơn thế nữa các công ty tài chính cũng cần cập nhật liên tục những văn bản có liên quan nhằm đánh giá và điều chỉnh hoạt động của công ty theo đúng pháp luật cũng như chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh theo đúng chính sách pháp luật. Đối với các nhà đầu tư thì việc nắm vững các quy định của pháp luật cũng là điều cần thiết vì điều đó sẽ giúp cho họ tránh được những hiểu nhầm trong việc quyết định sử dụng đồng vốn đầu tư của mình và cũng là việc tự bảo vệ mình.
Cạnh tranh trên thị trường
Nền kinh tế không phải là một thực thể ở dạng tĩnh mà nó luôn luôn biến đổi từng ngày từng giờ..Thị trường tài chính cũng như các thị trường khác là một thị trường đầy sôi động với những biến đổi liên tục hàng ngày tạo nên một thị trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt.Việc xuất hiện đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực luôn luôn diễn ra không ngừng tạo nên sức ép lớn cho các công ty nói chung và cho PVFC nói riêng, buộc các công ty phải có chiến lược phát triển khônng ngừng để phù hợp với bối cảnh mới của nền kinh tế cũng như tìm được chỗ đứng trên thị trường. Việc tìm hiểu và đánh giá chính xác đối thủ là một yếu tố sẽ tạo nên sự thành công chắc chắn hơn cho hoạt động Uỷ thác đầu tư tại các Công ty tài chính. Hoạt động Uỷ thác đầu tư tuy xuất hiện trên thị trường chưa lâu nhưng là một hoạt động đầy tiềm năng cho tương lai.Chính vì thế mà hiện nay cũng có rất nhiều các tổ chức tín dụng cũng tham gia cung cấp dịch vụ này, cạnh tranh với PVFC.Hiện tại, không chỉ các Công ty tài chính mà các tổ chức tài chính khác như ngân hàng thương mại, công ty tín dụng thuê mua, Quỹ đầu tư và phát triển, các Quỹ đầu tư tương hỗ, cũng hướng sự chú ý đến hoạt động này nhất. Sự cạnh tranh về giá và chất lượng dịch vụ trở nên ngày càng gay gắt hơn. Đây vừa là động lực vừa là những khó khăn để tự bản thân các công ty tài chính phải đổi mới và hoàn thiện hoạt động Uỷ thác của mình.
Sự biến động của thị trường tiền tệ
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào trên thị trường đều có sự tương tác với thị trường kinh tế nói chung và thị trường tìên tệ nói riêng.Hoạt động Uỷ thác đầu tư cũng không nằm ngoài Uỷ thác đầu tư là hoạt động liên quan trực tiếp đến số lượng vốn đầu tư thu hút được trên thị trường.Kết quả của hoạt động Uỷ thác phần lớn vào số lượng vốn đầu tư thu hút được từ khách hàng. Do đó, sự biến động của thị trường tiền tệ trở thành một tác nhân gián tiếp tới doanh thu và lợi nhuận của hoạt động Uỷ thác.Nếu thị trường tiền tệ có diễn biến tốt, tuân theo quy luật phát triển bình thường, điều này cũng có nghĩa là hoạt động Uỷ thác được diễn ra thuận lợi, và ngược lại Chính vì thế các Công ty tài chính khi tham gia nhận Uỷ thác cần phải cân đối về giá và phí dịch vụ để vừa đảm bảo được cạnh tranh, vừa thu được lợi nhuận tối ưu và vừa có khả năng xử lí kịp thời và chính xác khi thị trường tiền tệ không ổn định.
Tâm lý của người Uỷ thác đầu tư
Khi thu nhập của dân cư tăng cao, ngoài chi phí cho sinh hoạt đời sống hàng ngày thì họ còn dư một số tiền nhàn rỗi.Những nguồn vốn nhàn rỗi này trong dân cư là khá nhiều và họ thường dùng để đầu tư.Có nhiều hình thức đầu tư như gửi tiết kiệm tại ngân hàng hay cho vay hoặc tự mình đầu tư.Ngoại trừ những thành phần tự mình đầu tư, số còn lại chiếm đa số là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, họ thường gửi tiết kiệm hoặc chọn các hình thức gửi vốn đầu tư vào các công ty tài chính để họ thay mình đầu tư. Điều này khiến các Công ty tài chính nhanh chóng phát sinh ra một nghiệp vụ mới - Uỷ thác đầu tư, để có thể tiếp cận nguồn vốn dồi dào này. Tuy nhiên tâm lý những người Uỷ thác rất khó nắm bắt và thuyết phục . Điều này tạo ra sự không ổn định trong lượng vốn huy động và nó có ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư của công ty tài chính.Việc lượng vốn huy động được không ổn định sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định đầu tư của công ty, làm cho công ty rơi vào tình trạng bị động. Cần phải đánh giá đúng nhân tố này và có những biện pháp gây dựng uy tín mới có thể thu hút khách hàng được từ đó hoạt động Uỷ thác mới đứng vững là phát triển được.
3.2.Các nhân tố chủ quan
Mục tiêu và chiến lược phát triển của Công ty tài chính
Bất cứ công ty nào muốn hoạt động tốt và lâu dài thì phải có mục tiêu phát triển rõ ràng.Mục tiêu này phải được xuyên suốt trong quá trình hoạt động và nó như là kim chỉ nam cho mọi bước đi của công ty.Mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của công ty luôn phải có sự thống nhất. Điều này sẽ tạo nên uy tín cho công ty.Riêng đối với hoạt động Uỷ thác đầu tư thì uy tín luôn là nhân tố quyết định đến sự thành bại của hoạt động vì hoạt động này tồn tại được dựa trên sự tin tưởng của khách hàng. Để đem lại uy tín trên thị trường thì Công ty tài chính luôn cần có một mục tiêu và chiến lược phát triển cụ thể cho riêng nghiệp vụ này cũng như chiến lược lâu dài cho công ty tài chính.Với một mục tiêu rõ ràng và cụ thể sẽ tạo được niềm tin nơi khách hàng.
Chất lượng bộ phận nhân sự
Con người luôn là nhân tố quyết định đến sự thành bại của một tổ chức.Một công ty hoạt động hiệu quả ngoài việc áp dụng những công nghệ hiện đại còn có một phần đóng góp rất lớn của nguồn nhân lực.Nhất là trong lĩnh vực tài chính, một lĩnh vực yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể đủ sức đưa ra những quyết định sáng suốt trong hoạt động đầu tư vì bất cứ một quýêt định không chính xác nào cũng có thể phải trả giá rất lớn.Hoạt động Uỷ thác đầu tư là một nghiệp vụ mang đòi hỏi phải có sự cân nhắc tính toán rất chính xác. Đầu tư chính xác không chỉ mang lại lợi nhuận cho bản thân công ty mà còn mang lại lợi nhuận cho khách hàng.Và càng nhiều hợp đồng đầu tư thành công sẽ làm cho khách hàng thêm tin tưởng, nâng cao uy tín của công ty.Vì vậy, sự thành công của hoạt động Uỷ thác đầu tư chính là tổng hợp sự thành công của từng nhân viên trong nghiệp vụ này. Quá trình nhận Uỷ thác đầu tư đòi hỏi nhân viên không chỉ có chuyên môn đánh giá thẩm định, lựa chọn và quản lý tốt các cơ hội đầu tư có tiềm năng để tạo ra uy tín cho công ty mà cần phải có sự nhạy bén linh hoạt, sáng tạo và thích nghi được với xu hướng diễn biến của thị trường, sự cập nhật những thay đổi của chính sách và tiến bộ kỹ thuật cũng như thị hiếu của khách hàng.
Vì thế, bộ phận nhân sự có chất lượng không những chỉ mang lại lợi nhuận đơn thuần từ những giao dịch kinh tế trên thị trường mà còn mang lại uy tín cho công ty, giúp công ty ngày càng lớn mạnh
Chất lượng đánh giá và thẩm định dự án
Công tác thẩm định dự án chính là việc kiểm tra, đánh giá lại mức độ hợp lý, tính hiệu quả tính khả thi của dự án mà công ty tài chính dự định đầu tư. Việc tiến hành rà soát này cần tiến hành một cách có hệ thống, toàn diện, khoa học và khách quan vì nếu chỉ cần một đánh giá sai có thể sẽ gây thiệt hại cho công ty về mặt tài chính không những thế đánh mất sự tín nhiệm từ khách hàng, ảnh hưởng tới uy tín của công ty. Khó khăn mà các công ty tài chính thường gặp phải trong quá trình thẩm định dự án là số lượng người tham gia tương đối nhiều do cần nguồn thu nhập và xử lý dữ liệu đầu vào lớn đồng thời nhân viên phải có chuyên môn và kinh nghiệm.
Là một công ty tài chính, hoạt động đầu tư của PVFC không phải là đầu tư trực tiếp mà là đầu tư tài chính vào các dự án- tức là công ty chỉ đóng vai trò là nhà cung cấp vốn cho dự án.Vì vậy việc kiểm tra, thẩm định hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư là yêu cầu hàng đầu của công ty.Hiện nay, tại PVFC việc tiến hành thẩm định các dự án đầu tư cũng như nhận Uỷ thác đầu tư cũng chưa được thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ, phòng thẩm định độc lập mới thành lập được 3 năm ( từ năm 2005) và đang ngày càng hoàn thiện
Hoạt động marketing
Không có một dịch vụ nào muốn nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường mà không cần đến hoạt động marketing. Đặc biệt với Uỷ thác đầu tư thì marketing đóng vai trò đặc biệt hơn vì Uỷ thác đầu tư không phải là một sản phẩm thông thường mà nó mang tính chất của dịch vụ, hơn nữa nó trong lĩnh vực đầu tư nên cũng mang tính chất như sản phẩm đầu tư, đó là thời hạn đầu tư kéo dài.Muốn biết được kết quả đầu tư có chính xác không thì không thể chỉ trong thời gian ngắn có thể xác định được.Vì thế hoạt động Marketing là nhân tố quan trọng để giúp cho các nhà đầu tư có thể hiểu rõ hơn về hoạt động Uỷ thác đầu tư và cũng chỉ thông qua hoạt động Marketing mới có thể nâng cao hình ảnh và uy tín của công ty cũng như thu hút được sự chú ý của mọi đối tượng khách hàng nhiều hơn.Hoạt động Marketing bao gồm những cả việc nghiên cứu đánh giá thị trường, thị phần chiếm lĩnh của công ty trên thị trường, thị trường mục tiêu, những lợi thế của sản phẩm dịch vụ của mình, các đối thủ cạnh tranh của công ty…. để từ đó đặt ra những chiến lược quảng bá hình ảnh cho phù hợp cũng như tìm ra hướng phát triển cho dịch vụ Uỷ thác đầu tư của công ty mình. Ngoài ra cũng cần quan sát đánh giá xem đối thủ cạnh tranh của mình có những lợi thế gì và đâu là điểm bất lợi, những nhược điểm còn tồn tại trong Công ty tài chính.
Với hàng loạt các hoạt động quảng bá, Marketing tại các đợt Hội chợ chuyên ngành Tài chính Ngân hàng, tổ chức hội thảo tại các đơn vị trong và ngoài ngành Dầu khí, giới thiệu sản phẩm dịch vụ UTĐT thông qua tờ rơi, mạng nội bộ, Website PVFC, báo, tạp chí chuyên ngành và đặc biệt việc mở ra chuyên mục “Cơ hội đầu tư cùng PVFC” được cập nhật thường xuyên trên Website và hơn hết là uy tín của PVFC khi lần lượt cung cấp cho các khách hàng UTĐT cá nhân và tổ chức các cơ hội đầu tư tốt với giá uỷ thác thấp hơn giá trúng thầu bình quân trên thị trường … PVFC đã thực sự chiếm được niềm tin của khách hàng và xác định được vị thế trên thị trường TC Việt Nam trong hoạt động nhận UTĐT.
Như vậy, hoạt động Uỷ thác đầu tư tại các Công ty tài chính phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố và nhân tố nào cũng có tầm ảnh hưởng nhất định tới kết quả và hiệu quả của hoạt động này. Ngoài ra chính cấu trúc và hoạt động của mỗi một công ty tài chính lại khác nhau. Điều này cũng là yếu tố khiến mức độ ảnh hưởng của các nhân tố là khác nhau.
4.Thực trạng tình hình nhận Uỷ thác đầu tư tại PVFC
4.1.Thực trạng cơ cấu vốn UTĐT tại PVFC
Theo quy định về đảm bảo an toàn của Ngân hàng nhà nước, các công ty tài chính không được sử dụng quá 40% vốn điều lệ vào hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, sau 7 năm phát triển, nguồn vốn đầu tư huy động từ hoạt động Uỷ thác đầu tư đang dần chiếm tỉ trọng chính trong cơ cấu nguồn vốn của PVFC và được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây
BẢNG 3: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA PVFC GIAI ĐOẠN 2006 – 2008
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Tính đến
31/12/2006
Tính đến
31/12/2007
% tăng giảm 2007 so với 2006
Tính đến
17/3/2008
Tính đến
31/08/2008
1. Tiền gửi
1.809.948
11.759.205
549,7%
5.685.269
659.964
- Tiền gửi có kỳ hạn của các TCTD khác
1.513.614
11.615.643
667,4%
5.555.101
384.952
- Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, Tiền gửi khác
296.334
143.562
(51,5%)
130.168
275.012
2. Tiền vay
14.264.535
28.565.612
100,3%
29.199.608
33.910.370
- Vay của các TCTD khác
3.131.032
2.370.940
(24,3%)
1.408.100
4.049.900
- Vốn nhận tài trợ, ủy thác đầu tư
8.118.879
18.140.253
123,4%
23.000.230
29.660.470
- Vay khác
3.014.624
8.054.419
167,2%
4.791.278
200.000
3. Phát hành giấy tờ có giá
665.215
2.192.285
229,6%
2.190.394
2.199.948
Tổng cộng
16.739.698
42.517.102
154%
37.075.271
36.770.282
(Nguồn: BCTC đã kiểm toán năm 2006 và 2007, BCTC đã kiểm toán cho giai đoạn từ 01/01/2007 đến 17/3/2008 và BCTC đến 31/08/2008 của Công ty)
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong 3 năm nguồn vốn từ Uỷ thác đầu tư luôn chiếm đa số trong cơ cấu nguồn của toàn bộ công ty. Nguồn tiền gửi của các TCTD chiếm vị trí thứ 2 trong cơ cấu vốn của PVFC với tỉ trọng trên dưới 30%, và trong 3 năm gần đây đang có xu hướng giảm dần. Việc phát hành TPKD mới chỉ xuất hiện trong 2 năm nên đóng góp của nó còn khá nhỏ, từ 6% đến 7%. Cũng giống như phát hành TPKD, các kênh huy động vốn khác như tiền gửi của TCKT, cá nhân hay Vốn quỹ của công ty, tài sản nợ cũng chỉ chiếm tỉ trọng khá khiêm tốn tuy các hình thức hành hình thành khá sớm.
Năm 2006 và 2007 là các năm tăng trưởng mạnh của hoạt động huy động vốn nói chung và kênh phát hành giấy tờ có giá nói riêng. Trong giai đoạn 2005-2007, thị trường tiền tệ có nhiều biến động như thay đổi về lãi suất trong nước và quốc tế, tình hình lạm phát, sự cạnh tranh về huy động vốn giữa các tổ chức tín dụng trong nước… gây ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các tổ chức tín dụng và phi tín dụng nói chung và PVFC nói riêng.
Trước các biến động về lãi suất vốn trên thị trường, PVFC đã chủ động áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, tích cực cải thiện chênh lệch lãi suất cho vay - huy động và chênh lệch lãi suất giữa các chi nhánh. Các biện pháp trên cùng với sự hỗ trợ vốn rất lớn của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam với thời hạn dài và lãi suất ưu đãi đã góp phần giảm thiểu tác động của thị trường đối với việc huy động vốn, nâng cao hệ số sử dụng vốn, chất lượng quản trị vốn và hiệu quả kinh doanh
Việc chiếm tỉ trọng lớn của vốn Uỷ thác đầu tư thể hiện tầm quan trọng của nguồn vốn này đối với PVFC tuy nhiên nó cũng phản ánh sự thiếu ổn định do còn phụ thuộc rất nhiều vào một số khách hàng truyền thống của công ty như PTSC, VSP, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các cá nhân riêng lẻ...
4.2.Phân loại vốn nhận Uỷ thác theo sản phẩm
Sản phẩm và dịch vụ nhận uỷ thác đầu tư của PVFC vẫn tập trung vào các dịch vụ đã có từ trước và chưa đưa ra dịch vụ nào mới trong 3 năm qua (2005-2007) . Các sản phẩm này vẫn là những sản phẩm chiến lược và hấp dẫn một số lượng khách hàng lớn.
Dịch vụ nhận UTĐT được PVFC triển khai vào cuối năm 2003 tới các khách hàng các nhân và tổ chức trong nước.Cho đến thời điểm hiện tại, các loại hình của dịch vụ đã cung ứng tới khách hàng bao gồm:
BẢNG 4: CÁC LOẠI HÌNH NHẬN UTĐT TẠI PVFC
STT
C¸c lo¹i h×nh dÞch vô
Khách hàng cá nhân
Khách hàng tổ chức
Cha ¸p dông
§· ¸p dông
Cha ¸p dông
§· ¸p dông
1
Nhận UTĐT chỉ định lĩnh vực, lãi suất cố định
x
x
2
Nhận UTĐT chỉ định chia sẻ rủi ro
x
x
3
Nhận UTĐT chỉ định, không chia sẻ rủi ro, góp vốn chậm.
x
x
4
Nhận UTĐT trước đấu giá
x
x
(Nguồn: công ty Tài chính Dầu khí)
Trong số các loại hình dịch vụ UTĐT nói trên, dịch vụ nhận UTĐT chỉ định, không chia sẻ rủi ro, góp vốn chậm và dịch vụ nhận UTĐT trước đấu giá được các khách hàng cá nhân và tổ chức trên thị trường đánh giá rất cao. Đặc biệt trong tiến trình cổ phần hoá mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, dịch vụ nhận UTĐT trước đấu giá được PVFC tung ra đã đáp ứng được những mong đợi của thị trường, riêng năm 2006 dịch vụ này đã đóng góp vào 74% tổng giá trị nhận UTĐT của PVFC
4.3.Phân loại vốn nhận Uỷ thác theo khách hàng
Trong hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư của mình, khách hàng của PVFC được chia ra thành khách hàng cá nhân và khách hàng theo tổ chức.Việc đàm phán kí kết các hợp đồng với từng loại khách hàng có những quy định nhất định. Đối với khách hàng cá nhân thì PVFC dựa trên việc nghiên cứu nhu cầu chung của thị trường để từ đó đưa ra được những sản phẩm cố định, phù hợp với nhu cầu của phần lớn khách hàng. Đối với khách hàng là các tổ chức thì PVFC tổ chức đàm phán trực tiếp, những quy định hình thức chỉ mang tính chất khung cho nghiệp vụ, những quy định cụ thể được thống nhất qua quá trình đàm phán
Từ cuối năm 2005 tới nay, các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá mạnh mẽ, nên việc đầu tư vào các chứng từ có giá đang là kênh thu hút hấp dẫn nhất những cá nhân và tổ chức Uỷ thác. Với uy tín hoạt động hiệu quả trên lĩnh vực đầu tư này việc nhận Uỷ thác đầu tư của Phòng quản lý vốn Uỷ thác đầu tư luôn trong tình trạng quá tải, số lượng khách hàng Uỷ thác tại PVFC tăng lên hàng năm. Năm 2005, khi chưa có một tổ chức nào thực hiện nghiệp vụ Uỷ thác tại PVFC thì năm 2006, PVFC đã thu hút được 5 tổ chức, đến năm 2007 con số này tăng 2,5 lần. Năm 2006, số dư nhận Uỷ thác đầu tư trước đấu giá trên toàn hệ thống của PVFC đạt 523 tỷ đồng, tăng 275% so với năm 2005, số lượng khách hàng giao dịch trong năm đạt gần 10.000 lượt khách hàng. Trong đó, nhận uỷ thác từ nhóm khách hàng cá nhân trên toàn hệ thống năm 2006 đạt 511 tỷ đồng và từ nhóm khách hàng tổ chức đạt 10,4 tỷ đồng.
Đến năm 2007, số lượng hợp đồng Uỷ thác đầu tư cá nhân tại PVFC là 22.000 trong đó có 12.891 hợp đồng phát sinh mới là trong năm này.Năm 2008 do tình hình kinh tế không được ổn định và biến động theo chiều hướng không tốt nên số lượng hợp đồng Uỷ thác tăng lên không đáng kể, chỉ đạt 24.856 hợp đồng. Số lượng về khách hàng Uỷ thác đầu tư tại PVFC thực tế nhỏ hơn số lượng hợp đồng Uỷ thác đầu tư vì một khách hàng có thể kí nhiều hợp đồng Uỷ thác đầu tư với PVFC tuỳ thuộc và thời gian cũng như sản phẩm mà PVFC đưa ra. Tuy nhiên, hiện tại PVFC vẫn chưa có một hệ thống để lọc và thống kê ra số lượng khách hàng cụ thể mà mới chỉ cộng dồn số lượng hợp đồng theo cách đơn thuần. Vì vậy, không có con số chính xác về số lượng khách hàng mới mà PVFC thu hút trong 1 năm cũng như số lượng khách hàng Uỷ thác đầu tư nhiều hợp đồng với PVFC. Đây là một hạn chế của PVFC vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc chăm sóc khách hàng của bản thân PVFC.
Xu hướng tăng lên từ vốn Uỷ thác cá nhân và tổ chức là dấu hiệu tốt cho việc bắt đầu rút dần sự phụ thuộc vào một số nguồn vốn Uỷ thác nhất định của PVFC. Nếu 2005 vốn Uỷ thác từ cá nhân và tổ chức mới là 15% và 5% thì năm 2006 là 19% và 15.5%, năm 2007 là 27.3% và 10%. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy vẫn có xu hướng giảm từ vốn Uỷ thác đầu tư tổ chức, vì thế trong phương hướng hoạt động Uỷ thác đầu tư sắp tới, các nhà hoạch định chiến lược của PVFC muốn tập trung phát triển nhiều hơn các sản phẩm liên quan đến Uỷ thác đầu tư cá nhân và tổ chức, đặc biệt là Uỷ thác đầu tư tổ chức nước ngoài, quan tâm tới kênh huy đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp cho hoạt động nhận Uỷ thác đầu tư tại Tổng công ty tài chính dầu khí Việt Nam.doc