Mục Lục
Lời mở đầu.
Chương I:
Thực trạng hoạt động Đầu tư phát triển nghành mía đường ở Việt
Nam trong thời gian qua
I.Vài nét chung về nghành mía đường ở Việt Nam
1.Về sản xuất mía của Việt Nam
1.1.Về điều kiện khí hậu
1.2.Tình hình sản xuất mía
a.Giai đoạn 1980-1994.
b.Giai đoạn từ năm 1995 đến nay
1.3.Đặc điểm vùng nguyên liệu và giống mía
2.Về chế biến đường ở Việt Nam.
2.1.Tăng trưởng của công nghiệp chế biến đường.
a.Trước năm 1995
b.Từ năm 1995.
2.2.Cơ sở sản xuất tiểu thủ công
3.Thị trường tiêu thụ đường.
3.1.Thị trường nội địa.
3.1.1.Thị trường tiêu thụ đường gián tiếp.
3.1.2.Tình hình nhập khẩu đường.
3.1.2.Xu hướng biến động giá đường.
3.2.Thị trường đường thế giới.
4.Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển nghành mía đường.
4.1.Vùng nguyên liệu trồng mía.
4.2.Điều kiện thời tiết,khí hậu.
4.3.Quan hệ cung cầu thị trường.
4.4.Giá thị trường(trong nước và quốc tế)
II.Thực trạng hoạt động Đầu tư phát triển sản xuất nghành mía đường ở
Việt Nam trong thời gian qua.
1.Vốn và cơ cấu nguồn vốn.
1.1.Quy mô và tốc độ tăng vốn trong hoạt động đầu tư phát triển nghành mía đường
ỏ nước ta trong thời gian qua.
1.2.Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển mía đường.
2.Nội dung đầu tư phát triển sản xuất nghành mía đường ở Việt Nam.
2.1. Đầu tư xây dựng vùng mía nguyên liệu.
2.1.1. Đầu tư phát triển mía nguyên liệu của các NMĐ vùng TDMNBB:
2.1.2. Đầu tư phát triển mía nguyên liệu các NMĐvùng bắc trung bộ : Vùng Bắc
2.1.3 .Đầu tư phát triển mía nguyên liệu của các NMĐ vùng DHNTB
2.1.4. Đầu tư phát triển mía nguyên liệu của các NMĐ vùng Tây Nguyên :
2.1.5.Đầu tư phát triển mía nguyên liệu của NMĐ vùng Đông Nam Bộ .
2.1.6.Đầu tư phát triển mía nguyên liệu của các NMĐ vùng ĐBSCL
2.2. Đầu tư Nhà máy đường(NMĐ), Máy móc thiết bị sản xuất đường và Cơ sở hạ
tầng kỹ thuật.
2.2.1.Các Nhà máy đường
2.2.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuât
2.2.3.Đầu tư máy móc thiết bị sản xuất nhằm cơ giới hóa các quá trình sản xuất mía
đường.
2.3.Đầu tư nguồn nhân lực phục vụ sản xuất cho các Nhà máy đường.
II.Đánh giá tác động của Hoạt động đầu tư đến phát triển nghành mía đường ở Việt Nam trong thời gian qua.
1.Về Giá trị,kết quả sản xuất.
1.1.Về sản xuất mía.
1.2.Về chế biến đương.
1.3.Sản xuất đường đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nuwocs
2.Về Doanh thu và lợi nhuận.
3.Về phát triển xây dựng vùng mía nguyên liệu.
III.Đánh giá hoạt động đầu tư phát triển nghành mía đường ở Việt Nam.
1.Những kết quả đạt được.
1.1.Về huy động vốn.
1.2.Về sử dụng vốn.
2.Hạn chế và nguyên nhân.
2.1.Những hạn chế làm ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nghành mía đường
2.1.1.Về nguyên liệu.
2.1.2.Về quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của các NMĐ
2.1.3.Về sản xuất kinh doanh của nhiều nhà máy,công ty đường thiếu hiệu quả
2.2.Nguyên nhân của những hạn chế.
2.2.1.Nguyên nhân khách quan.
2.2.2.Nguyên nhân chủ quan.
Chương II:
Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hoạt động Đầu tư phát
triển ngành mía đường Việt Nam trong thời gian tới
I. Dự báo nhu cầu tiêu thụ đường của Việt Nam:
1. Hiện trạng về mức tiêu thụ đường bình quân đầu người:
2. Dự báo nhu cầu tiêu thụ đường của Việt Nam:
3. Khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam trong bối cảnh đã hội nhập
quốc tế:
3.1. Xu hướng sản xuất đường trên thế giới tác động đến sản xuất đường của Việt
Nam:
3.2. Xu hướng biến động giá đường:
3.3. Xu hướng xuất, nhập khẩu đường trên thế giới:
3.4. Khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam:
3.4.1. Thực hiện Quyết định số 28/2004/QĐ-TTg của Chính phủ tạo cơ hội và tiền đề
để ngành mía đường Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội
nhập:
3.4.2. Lộ trình giảm thuế đường theo AFTA:
3.4.3. Tác động của tự do hoá thương mại và khả năng cạnh tranh của ngành mía
đường Việt Nam khi hội nhập quốc tế:
II. Quan điểm và mục tiêu phát triển của ngành mía đường tới năm 2010 và
tầm nhìn tới năm 2020:
1. Quan điểm phát triển:
2. Định hướng và các chỉ tiêu phát triển:
2.1. Năm 2001:
2.2. Tầm nhìn phát triển mía đường đến năm 2020:
3. Thực hiện mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm đường:
III. Phát triển sản xuất đường tới năm 2010 và tầm nhìn năm 2020:
1. Phát triển sản xuất đường tới năm 2010:
1.1. Quy mô sản xuất mía đường:
1.2. Dự kiến quy mô sản xuất đường theo vùng:
1.3. Định hướng phát triển các loại sản phẩm sau và bên cạnh đường:
2. Định hướng phát triển đường thủ công tới năm 2010:
3. Tầm nhìn phát triển các NMĐ tới năm 2020:
IV. Quy hoạch sản xuất mía nguyên liệu cho các NMĐ:
1. Mục tiêu phát triển mía nguyên liệu nhằm đáp ứng đủ khối lượng cho các NMĐ
hoạt động đạt CSTK, tạo vùng nguyên liệu ổn định.
2. Dự kiến đất trồng mía nguyên liệu:
3. Diện tích, năng suất và sản lượng mía toàn quốc năm 2010:
4. Nâng cao chất lượng mía nguyên liệu:
V. Giải pháp chủ yếu cần đầu tư để phát triển ổn định ngành mía đường:
1. Giải pháp đầu tư để ổn định vùng mía nguyên liệu:
1.1. Quan điểm chung về quy hoạch vùng mía nguyên liệu:
1.2. Dự kiến quy hoạch cụ thể đối với các nhóm NMĐ:
2. Giải pháp ứng dụng khoa học và công nghệ thâm canh mía:
3. Giải pháp đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng cho các vùng mía:
3.1. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng mía, bao gồm:
3.2. Vốn đầu tư cho vùng mía nguyên liệu:
4. Giải pháp về tổ chức thu mua mía nguyên liệu:
5. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách có liên quan tới vùng mía nguyên
liệu, bao gồm:
VI. Các giải pháp phát triển sản xuất và tiêu thụ đường:
VII.Công tác tổ chức thực hiện và xác định bước đi.
1.Tổ chưc nghành mía đường.
2.Bước đi trong từng giai đoạn.
2.1.Giai đoạn 2006-2010.
2.2.Giai đoạn 2011-2020.
3.Các Nội dung cần ưu tiên Đầu tư.
3.1.Xử lý các khó khăn về tài chính của các NMĐ,cụ thể:
3.2.Phát triển vùng mía nguyên liệu đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất cho các NMĐ:
3.3.Chỉ đạo các NMĐ đầu tư chiều sâu
79 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp Đầu tư phát triển nghành Mía đường ở Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại 37 nhà máy đường với tổng công suất trên 80 nghìn tấn mía/ngày do 1 số nhà máy ngừng sản xuất,bán,phá sản theo quyết định 28/TTg của Thủ tướng CP.Ngoài ra,có hàng trăm cơ sở sản xuất đường thủ công ở Đông Nam Bộ,Đồng bằng Nam Bộ với tổng công suất khoảng 250-300 nghìn tấn đường kính/năm.Tính chung tổng công suất chế biến đường cả nước(cả công nghiệp và thủ công) có thể đạt 1,4 triệu tấn đường kính/năm.
Tổng sản lượng đường năm 2005 đạt 1082 nghìn tấn(trong đó đường kính công nghiệp đạt 902 nghìn tấn).So với năm 2001,tăng 132 nghìn tấn,riêng đường công nghiệp tăng 252 nghìn tấn.Năm 2003 và 2004 là 2 năm mà tổng sản lượng đạt trên 1,2 triệu tấn,trong đó đường công nghiệo đạt trên 1 triệu tấn.So với chỉ tiêu kế hoạch 2001-2005,sản lượng đường thực hiện từng năm 2001-2004 đều đạt và vượt kế hoạch(chỉ tính riêng năm 2005,đạt 90% so với kế hoạch).Tính chung 5 năm,tổng sản lượng đường tăng 1,8%,riêng đường công nghiệp tăng 5,9% so với mục tiêu kế hoạch.
Bảng 1.5 Sản xuất mía của từng vùng năm 2005 của các vùng như sau:
(Đơn vị:DT-1000 ha;NS-tấn/ha;Sl-1000 tấn;Công suất-Tấn mía/ngày)
Tổng số
Tr.du
&MN
ĐB
S.hồng
Bắc
Tr.Bộ
Nam Tr.Bộ
Tây Nguyên
ĐNBộ
ĐBS
C.long
TổngDT mía
265.7
21.9
2.49
53.7
51.8
26.5
45.5
64
Năng suất
55
48
51
53
45
45
56
72
S.lượng mía
14.729
1037
128.3
2856
2320
1198
2566
4628.4
S.lượng đường
1050
40.7
283
201
64
137.6
325
Công suất NMĐ
83950
4600
23250
18300
6500
31300
16900
Nguồn:Theo Báo cáo tình hình của các Nhà Máy đường
1.3.Sản xuất đường đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
Vụ sản xuấ 2001-2002,sản lượng đường khoảng 1,07 triệu tấn mà thời điểm đó,nhiều nhà máy lao đao về tiêu thụ,giá giảm chỉ còn khoảng 3.500 đồng/kg,khi đó nhiều ý kiến cho rằng nước ta đã thừa đường.Nhưng thực tế do do lúc đó nhiều nhà máy đường đang phải khó khăn về vốn,phải bán tháo đường ngay sau khi sản xuất để tạo vốn cho sản xuất đã đột ngột tăng cung trên thi trường trong khi nhu cầu không tăng kip đã làm giá đường rớt xuống.Những năm 2003,2004 sau đó,sản lượng đường đều đạt trên 1,2 triệu tấn mỗi năm nhưng không còn tình trạng bán tháo như vụ 2001-2002,giá đường trong nước dao động ở mức 4000-4.400 đồng/kg,không còn tình trạng đường nhập khẩu tràn vào,nhu cầu trong nước đã có bản tiêu thụ hết.Và đến năm 2005,với lượng sản xuất 1,08 triệu tấn,không kể lượng tồn kho năm trước chuyển sang,tuy không quá thiếu so với nhu cầu nhưng do áp lực tâm lý đã đẩy giá thị trường tăng,đường nhập lậu xâm nhập ở các tỉnh Nam Bộ,Chính Phủ đã cho phép nhập khẩu và Bộ Thương Mại đã cấp phép,nhưng lượng nhập về cũng không quá nhiều.Qua đó chứng tỏ,nhu cầu tiêu thụ trong nước những năm qua có thể dao động từ 1,1-1,25 triệu tấn/năm và sản xuất trong nước đã cơ bản được đáp ứng.
2.Về Doanh thu và lợi nhuận.
Từ năm 2002, cả nước đã xây dựng 44 nhà máy đường, tổng công suất thiết kế là 82.950 tấn mía/ngày. Tổng số vốn đầu tư, mở rộng, xây dựng mới các nhà máy lên tới 10.050 tỉ đồng, trong đó có hơn 6.677 tỉ đồng thiết bị và hơn 3.372 tỉ đồng xây lắp. Tổng sản lượng đường đạt trên một triệu tấn.
Tuy nhiên đến thời điểm này, tình trạng tài chính của các nhà máy đường trên toàn quốc là hết sức thê thảm với số nợ khoảng trên 5.000 tỉ đồng và đa số mất khả năng chi trả.
Trong số nợ này có tới khoảng 1.000 tỉ đồng vay nước ngoài. Đa số các doanh nghiệp (DN) đã không trả được nợ nước ngoài. Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cũng đã phải đứng ra trả thay khoản nợ bảo lãnh và cho vay nhận nợ bắt buộc của 16 DN trên 17,4 triệu USD.
Từ khi bắt đầu chương trình mía đường, đại đa số các DN lâm vào tình trạng thua lỗ triền miên. Đến hết năm 2002, lỗ lũy kế của 36 DN là trên 2.000 tỉ đồng.
Rất nhiều nhà máy chỉ sau một vài năm hoạt động đã lỗ trên 50% vốn đầu tư, thậm chí có những nhà máy lỗ trên 100% vốn đầu tư. Nhà máy đường Quảng Bình lỗ 136,6 tỉ/141,1 tỉ đồng vốn. Nhà máy đường Kiên Giang lỗ 170,6 tỉ/161,1 tỉ đồng vốn đầu tư. Nhà máy đường Sơn Dương lỗ 119,6 tỉ/107,8 tỉ đồng vốn đầu tư.
Trong số 42 nhà máy đường trên cả nước, chỉ có 29 nhà máy hoạt động trên 80% công suất thiết kế; 8/42 nhà máy đạt từ 50-80% công suất; có tới 5 nhà máy (Cam Ranh, Bình Thuận, Quảng Bình Trị An, Quảng Nam) đạt dưới 50% công suất.
Trong những năm qua,nghành mía đường đã được Chính phủ cùng các nghành các cấp đã có nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ,như năm 1999 Chính phủ đã có QĐ 194/TTg tháo gỡ 1 số khó khăn cho nghành mía đường và đặc biệt tháng 3/2004 Thủ tướng Chính phủ đã có QĐ 28/TTg tổ chức và sắp xếp lại nghành mía đường gắn với việc tháo gỡ khó khăn về tài chính-thực sự đây là 1 quyết định làm hồi sinh nghành mía đường Việt Nam.Tính đến tháng 9/2005,sau hơn 1 năm thực hiện QĐ 28,các nhà máy đường trong nước cơ bản đã được Bộ Tài chính xử lý những tồn đọng về tài chính,đã hỗ trợi được 632 tỷ đồng(khoảng 40 triệu USD) gồm xóa nợ đọng thuế VAT:198 tỷ đồng;xóa nợ lãi vay ngân hàng:380 tỷ đồng;bù trượt giá ngoại tệ:54 tỷ đồng,nhờ đó mà nghành mía đượng Việt Nam đã có được những bước đi khởi sắc hơn:Năm 2004 sản xuất được 1.010.000 tấn đường.Theo báo có của 28 Công ty thì năm 2004 có 21 Công ty có lãi với số lãi là 428 tỷ đồng,6 Công ty còn lỗ 108 tỷ đồng,1 Công ty hòa vốn.25/28 Công ty đã nộp ngân sách Nhà nước 298 tỷ đồng,chỉ còn 3 Công ty không nộp Ngân sách.Năm 2005,số công ty có lãi tăng lên 23/28 công ty với số lãi là 665 tỷ đông,so với năm 2004 tăng lên 35,8%,chỉ còn 4 công ty lỗ 74 tỷ đồng,giảm 31,8% so với năm 2004,25/28 Công ty nộp ngân sách nhà nứơc 410 tỷ,tăng 36,7% so với năm 2004.
Sang năm 2006,do giá bán tăng cao,nên hiệu quả sản xuất của kinh doanh của các doanh nghiệp mía đường cũng khá hơn,tỷ lệ sản xuất kinh doanh có lãi ngày càng nhiều.Cụ thể trong tổng số 38 nhà máy đường,doanh thu và lợi nhuận của các nhà máy như sau:
+Tổng doanh thu của các doanh nghiệp là khoảng 6.600 tỷ đồng(trong đó riêng sản phẩm đường là 5000)
+Tiền đóng góp cho ngân sách Nhà nước là khoảng 300 tỷ đông(riêng sản phẩm đường là 250 tỷ đồng)ư
+Lỗ lãi của các doanh nghiệp:Trong số 38 nhà máy,công ty đường đang hoạt động,có 32 doanh nghiệp có báo cáo tìa chính.Trong đó có 24 nhà máy có lãi(chiếm 75%).Số tiền lãi là 209.132,5 triệu đồng.Còn 8 nhà máy lỗ,số tiền lỗ là 134.758 triệu đồng.
Quý I năm 2006,có 30 nhà máy báo cáo tài chính,trong dó có 26 nhà máy lãi(chiếm 93%).Số tiền lãi là 94.197 triệu đồng.Còn có 2 nhà máy lỗ,số tiền lỗ là 22.075 triệu đồng.
3.Về phát triển xây dựng vùng mía nguyên liệu.
Nhìn chung,diện tích,năng suất,sản lượng mía cũng như sản lượng mía ép công nghiệp trong 5 vụ vừa qua biến động không lớn
Bảng 1.6.Diện tích,năng suất,sản lượng mía trong 5 vu.
Niên vụ mía
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(Tấn)
Sản lượng ép CN(tấn)
2000-2001
303.000
49.8
15.100.000
7.204.610
2001-2002
309.900
49.2
15.200.000
8.539.197
2002-2003
315.000
50.1
15.800.000
9.629.079
2003-2004
287.000
50.5
14.500.000
10.610.519
2004-2005
280.000
51.8
14.500.000
9.317.000
2005-2006
265.000
50.9
13.500.000
8.500.000
Ta biết mía nguyên liệu đã liên tục được thay thế dần giống mới,thích hợp nhưng vẫn còn chênh lệch về năng suất ngay tại một vùng do quy trình canh tác và chăm sóc mía.Do không áp dụng rộng rãi quy trình thâm canh,chăm sóc mía,nhiều nơi giống mía mới nhanh thoái hoá,cho năng suất và chất lượng thấp.Trong vụ vừa qua,tuy hạn hán diễn ra trên diện rông nhưng nhờ giá bán đường cao,các doanh nghiệp thu mua mía với giá cao,nên nông dân đa tích cực chăm sóc mía.Vì thế mặc dù diện tích giảm do cây trồng khác xâm lấn,do hạn hán thiếu nước tưới nên mía bị chết,nhưng năng suất và chất lượng mía vẫn duy trì khá,bên cạnh đó cải tiến thiết bị,nâng cao hiệu suất tổng thu hồi đã đảm bảo sản lượng thu hoạch đường trên một dơn vị diện tích năm sau cao hơn năm trước.
Bộ NN&PTNT đã phối hợp với UBND và Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh nhằm rà soát quy hoạch diện tích sản xuất mía. Đến nay có 13 nhà máy đường có vùng nguyên liệu đảm bảo đủ diện tích,với năng suất chất lượng mía tốt,là Lam Sơn,Tate and Tyle,Sông Con,KCP,Ninh Hoà,An Khê,Bourbon Gia Lai,333 Đăk Lăk,Tây Ninh,Bến Tre,Trà Vinh,Phụng Hiệp và Sóc Trăng.
Có 20 nhà máy đủ diện tích đất trồng mía,nhưng phân tán,thiếu điều kiện tưới,hệ thống bờ bao,nhưng chất lượng mía nguyên liệu vẫn khá tốt, đảm bảo ép trên 70% công suất,là Cao Bằng,Tuyên Quang,Hoà Bình,Sơn Dương,Nông Cống,Sông Lam,Quảng Ngãi,Nam Quảng Ngãi,Bình Định,Tuy Hoà,Phan Rang,Kon Tum, Đăk Nông,La Ngà,Bourbon Tây Ninh,Hiệp Hoà,Nagajuna,Vị Thanh và Kiên Giang.
Vẫn còn 4 nhà máy thiếu đất trồng mía trầm trọng,hoặc phải cạnh tranh với các lò đường thủ công,như Sơn La,Việt Đài,Cam Ranh và Thới Bình.
Các công ty,nhà máy đường đã cố gắng đầu tư,hỗ trợ nông dân thực hiện Quyết Định số 80/2002/QĐ-TTg trên diện tích được địa phương quy hoạch cho đơn vị.
Số diện tích thực hiện của các nhà máy đã gần số diện tích theo quy hoạch của các địa phương,nhưng phổ biến tình trạng cự ly xa,thiếu các điều kiện về hạ tầng cơ sở vật chất,nên chi phí vận chuyển cao,diện tích ký hợp đồng đầu tư hàng năm tăng,nhưng chủ yếu được thực hiện tại miền Bắc,một phần ở miền Trung và Đông Nam Bộ. Đối với khu vực miền Tây Nam Bộ,việc ký hợp đồng với nông dân chủ yếu là bao nhiêu sản phẩm,viẹc điều hành mía chủ yếu thông qua hệ thống thương lái.Do đó việc thừa thiếu mía cục bộ thương xuyên diễn ra.Giá mua qua các vụ gần đây liên tục tăng,là động lực để người nông dân trồng mới và chăm sóc mía.
Bảng 1.7.Diện tích và giá mua mía nguyên liệu
Niên vụ mía
Diện tích QH
(ha)
Diện tích TH
(ha)
Diện tích thực hiện QĐ80(ha)
Giá mua mía
(đồng/tấn)
2000-2001
230.000
201.863
121.476
220.000-230.000
2001-2002
240.000
212.887
125.381
250.000-260.000
2002-2003
255.000
238.000
149.030
270.000-280.000
2003-2004
264.000
258.000
194.811
320.000-340.000
2004-2005
221.491
208.139
175.275
350.000-370.000
2005-2006
265.000
184.659
380.000-400.000
Còn vụ sản xuất 2005-2006, diện tích mía nguyên liệu của cả nước đạt 265 nghìn ha, giảm 15 nghìn ha; sản lượng mía đạt 13,5 triệu tấn, giảm một triệu tấn so vụ trước. Cả nước có 37 nhà máy đường hoạt động với 69,1% công suất thiết kế, giảm 11,7% so vụ trước. Vì vậy không chỉ giá mía nguyên liệu tăng mà cả giá đường cũng tăng.
Theo Hiệp hội mía đường Việt Nam, năm nay, cả nước thiếu khoảng 300 nghìn tấn đường. Mặc dù đến nay, số đường nhập khẩu mới khoảng 38% lượng đường cần nhập khẩu nhưng đường sản xuất trong nước đã không cạnh tranh nổi do xuất hiện đường nhập lậu. Lượng đường Thái-lan nhập lậu qua các tỉnh biên giới tây nam từ đầu năm đến nay liên tục tăng, có ngày nhập lậu lên tới 1.500 tấn. Trong khi đó, lượng đường tồn kho tại các nhà máy hiện còn hơn 200 nghìn tấn, nhưng các nhà máy vẫn chưa bán được do giá đường ngoài thị trường thấp.
III.Đánh giá hoạt động đầu tư phát triển nghành mía đường ở Việt Nam.
1.Những kết quả đạt được.
1.1.Về huy động vốn.
Những năm trước đây, các Ngân Hàng Thương Mại và Quy Hoạch Phát Triên cho vay xây dựng các nhà máy đường, vì mục tiêu 1 triệu tấn đường của Chính phủ vào năm 2000. Đó là cho vay theo dự án của Chính phủ, mang nội dung chỉ định. NHTM và QHTPT cùng cho một nhà máy đường vay, nhưng không kết phối hợp chặt chẽ. NHTM cho vay nhập thiết bị toàn bộ cuả Nhà máy đường và tiền công vận chuyển đến chân công trình. QHTPT cho vay phần xây lắp, trong đó có cả hàng rào. Khi nhà máy đường đi vào sản xuất, ngành tài chính cấp một phần vốn lưu động; phần vốn lưu động còn thiếu, chi nhánh NHTM cho vay. Bởi vậy, mục tiêu 1 triệu tấn đường vào năm 2000 của Chính phủ đã đạt được như dự kiến. Nhưng, NHTM và QHTPT cho vay không thu hồi được nợ, vì nhiều nhà máy đường sản xuất không hiệu quả. Đến cuối năm 2003, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, hơn 2000 tỷ đồng trong số 3.881 tỷ đồng cho một số nhà máy đường vay, chưa thu hồi được nợ theo kỳ hạn đã thoả thuận. Một số nhà máy đường do địa phương quản lý, còn đề nghị NHTM kéo dài thời gian thu nợ đến 20 năm, trong khi thời hạn huy động vốn dài hạn của NHTM chỉ có 5 năm (trái phiếu ngân hàng). Phải chăng, khâu thẩm định của dự án xây dựng một số Nhà máy đường không đạt yêu cầu?
Chúng ta biết, cuối năm 2003, Nhà máy đường Việt Trì (Phú Thọ) là nhà máy đường quốc doanh, xây dựng từ thời bao cấp ở miền Bắc ngừng hoạt động cuối cùng. Trước đó, các nhà máy đường đã giải thể là: Nhà máy đường Vĩnh Trụ tỉnh Hà Nam do địa phương quản lý; Nhà đường Tam Hiệp (Hà Tây) do địa phương quản lý và Nhà máy đường Vạn Điểm (Hà Tây) do Trung ương quản lý. Tại sao, NHTM Nhà nước và QHTPT lại tiếp tục cho vay để xây dựng Nhà máy đường Hoà Bình; Nhà máy đường Sơn La, nhà máy đường Tuyên Quang...
Đến nay, một số lớn nhà máy đường mới xây dựng, kinh doanh bị thua lỗ nặng. Đơn cử Nhà máy đường tỉnh Sơn La, từ ngày vay đến cuối năm 2003, hầu như không có trả nợ vốn vay của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) tỉnh Sơn La một đồng nào. Sau mỗi niên vụ sản xuất đường nhà máy đường tỉnh Sơn La lỗ khoảng trên 30 tỷ đồng. Năm 2003, chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Sơn La chỉ thu được 25 triệu đồng tiền lãi, trong khi đó lãi treo luỹ kế đến nay là 44 tỷ đồng. Nếu cộng cả số nợ gốc và lãi của QHĐTPT cho Nhà máy đường Sơn La vay sẽ lên đến con số 200 tỷ đồng. Bởi vậy, trong nhiều năm nay, chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Sơn La ngừng quan hệ cho vay với Nhà máy đường Sơn La.
Trong số hơn 30 nhà máy đường mới xây dựng, chỉ có nhà máy đường liên doanh với nước ngoài như: Nhà máy đường Việt - Đài (Việt Nam và Đài Loan cùng góp vốn), tại Bỉm Sơn, Thanh Hoá; phía Việt Nam có 2 cổ đông; phía Đài Loan có 3 cổ đông và Nhà máy đường 100% vốn nước ngoài gồm: Nhà máy đường Bourbon tỉnh Tây Ninh và tỉnh Gia Lai của người Pháp; Nhà máy đường của người Än Độ... kinh doanh có lãi.
Tuy nhiên,các nhà máy đường có vốn đầu tư nước ngoài, kinh doanh có lãi, ngoài điều hành sản xuất giỏi của người nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ xây dựng nhà máy đường kính mía từ miền Trung trở vào. Có lẽ họ nghiên cứu kỹ khí hậu Việt Nam. Miền Bắc khi thời tiết khô hanh, cây mía mới cho tỷ lệ đường nhiều nhất. Nhưng, thời tiết khô hanh ở miền Bắc rất ngắn, khoảng 3 tháng - bắt đầu từ tháng 10 âm lịch đến Tết Nguyên đán. Đầu năm âm lịch, trời mưa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, chữ đường trong cây mía lại bắt đầu giảm. Bởi vậy người nước ngoài không đầu tư sản xuất đường kính mía ở miền Bắc. Trong khi đó, NHTM và QHTPT cho vay xây dựng nhà máy đường Hoà Bình, Nhà máy đường Tuyên Quang; nhà máy đường Sơn La... dẫn đến hậu quả không thu hồi được nợ là phải.
Năm 2000, nước ta đã đạt sản lượng đường 1 triệu tấn, với dân số khoảng 81 triệu người, thì bình quân đường mía trên đầu người đã hơn 12kg/năm. Con số này quá cao, vượt mức tiêu dùng của nhân dân ta. Thời bao cấp, phiếu mua đường của cán bộ trung cấp chỉ có 0,5kg/tháng, tức 6kg/năm.
Trong vòng 20 năm trở lại đây, giá đường kính mía trên thế giới không bao giờ vượt 0,2USD/kg, giao tại cảng nước nhập khẩu, quy đổi ra VND chưa đến 3.000đ/kg.
Chống đỡ với cung vượt quá cầu về đường kính mía, năm 2003, Tổng công ty mía đường Việt Nam làm một việc khó chấp nhận: xuất khẩu đường kính mía với giá rẻ, rồi để bán đường trong nước với giá cao nhằm bù lỗ cho việc xuất khẩu đường. Một số nhà máy đường còn liên kết, thống nhất với nhau, không bán đường ra thị trường trong một thời gian, nhằm tạo ra cung không đủ cầu giả tạo về đường kính mía, để nâng giá bán đường. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn còn dùng biện pháp chỉ định sản xuất đường từng niên vụ cho mỗi nhà máy, nhằm hạn chế sản lượng đường của nước ta.
1.2.Về sử dụng vốn.
Nói chung,với những sự đầu tư và sử dụng hợp lý vốn đầu tư,sản xuất mía đường ở nước ta phát triển mạnh. Ðến năm 2000, chương trình đã đạt được những mục tiêu cơ bản: Sản xuất một triệu tấn đường, bảo đảm tiêu dùng trong nước, thay thế nhập khẩu; mở vùng nguyên liệu mía lên 300 nghìn ha, trong đó có hơn 170 nghìn ha là đất hoang hóa ở vùng sâu, vùng xa. Ðã hình thành ngành công nghiệp chế biến đường gắn với sản xuất nông nghiệp, nông thôn; tạo việc làm cho hơn một triệu lao động nông nghiệp, hàng chục vạn lao động công nghiệp, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nhiều vùng. Ðã mở rộng, nâng công suất tám nhà máy, xây dựng mới 34 nhà máy, đưa tổng số nhà máy đường lên 44 nhà máy (nay là 38 nhà máy), đủ năng lực chế biến 12-15 triệu tấn mía, sản xuất 1-1,2 triệu tấn đường/năm trở lên. Bước đầu phát triển một số cơ sở chế biến các sản phẩm cạnh đường và sau đường; doanh thu từ sản phẩm này đạt 2.000 tỷ đồng/năm. Các công ty, nhà máy đường nộp ngân sách khoảng 350 tỷ đồng/năm. Hầu hết các nhà máy đường mới xây dựng ở trung du, miền núi, vùng sâu, vùng xa, phân bổ đều ở cả ba miền, thu hút đáng kể vốn đầu tư nước ngoài. Năm năm lại đây sản lượng đường đã đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước, chấm dứt cảnh hằng năm Nhà nước bỏ ra hàng trăm triệu USD để nhập khẩu đường. Những thành tựu nêu trên là to lớn, góp phần đáng kể phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều vùng đất nước.
2.Hạn chế và nguyên nhân.
2.1.Những hạn chế làm ảnh hưởng đến đầu tư phát triển nghành mía đường
2.1.1.Về nguyên liệu.
-Vùng mía nguyên liệu phát triển còn mang nhiều yếu tố tự phát,không theo quy hoạch và kế hoạch,đã làm ảnh hưởng dây truyền tới hiệu quả sản xuất và chế biến đường.
-Những tồn tại trong thâm canh mía nguyên liệu còn khá phổ biến ở nhiều nơi,nhiều vùng,nên sản lượng mía thấp và hiệu quả sản xuất mía không cao.
-Năng suất và chất lượng mía nguyên liệu còn thấp và phổ biến ở đa số các vùng,bình quân chung cả nước đạt khoảng 51-55 tấn/ha,chữ đường đạt khoảng 10,1 CCS.
Năng suất và chữ đường mía nguyên liệu của nước ta thấp hơn nhiều so với các nước sản xuất mía lớn như Braxin,Ấn Độ,Úc,Thái Lan.Công tác tổ chức quản lý,xây dựng vùng mía nguyên liệu còn bộc lộ nhiều yếu kém,hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển không đồng bộ và tương xứng với sự phát triển của vùng nguyên liệu và nhà máy.
-Mối quan hệ giữa NMĐ và người trông mía chưa thật chặt chẽ cả về cơ chế lẫn lợi ích.Phương thưc thu mua mía và giá cả chưa linh hoạt,chưa tạo được động lực khuyến khích nông dân trồng mía bán cho NMĐ.
2.1.2.Về quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của các NMĐ
Còn nhiều tồn tại và hạn chế,nhìn chung quản lý còn yếu kém,chậm đổi mới về năng lực lãnh đạo,thiếu năng đông,công tác đào tạo cán bộ,đào tạo lao động lành nghề không được chú ý,chậm phát triển và mở rộng quy mô các loại sản phẩm sau đường và bên cạnh đường,công tác tiếp thị và xúc tiến thương mại còn yếu, đưa tới hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp,có nhiều NMĐ thua lỗ.
2.1.3.Về sản xuất kinh doanh của nhiều nhà máy,công ty đường thiếu hiệu quả Do 1 số nhà máy thường vào vu sớm trong khi mía chưa chín,nên gây ra lãng phí nguyên liệu,giảm hiệu suất thu hồi đường.Việc tranh mua nguyên liệu đã đẩy giá thu mua nguyên liệu lên cao nhất ở khu vực ĐBSCL,Phú Yên,Đăk Lăk,Nghệ An
Hiệu suất ép,hiệu suất tổng thu hồi đường của nhiều nhà máy còn thấp.Một số NMĐ chưa làm chủ thiết bị nối hơi,dẫn đến số lần hư hỏng nhiều,kinh phí phải sửa chữa tốn kém.Thiết bị máy móc vận hành chưa tối ưu.Chất lượng sản phẩm đường chưa cao(như ở Sơn La,Thới Bình) thể hiện qua cỡ hạt,độ ẩm và màu,nên giá bán thường thấp hơn giá bán sản phẩm cùng loại,hiệu quả kinh tế thấp.
Các nhà máy đường,nhất là các NMĐ nhỏ và thiếu vốn lưu động,phải bán đường vào thời điểm giá thấp.Khi nhà máy ngừng sản xuất,giá bán đường tăng thì không còn đường để bán.
Hệ thống đại lý bán sản phẩm của các NMĐ tại các điểm nhỏ ít được triển khai,chủ yếu vẫn bán buôn đường cho các Công ty thương mai,nhiều khi dễ xảy ra đầu cơ,tăng giá,thiệt hại cho người tiêu dung,nhưng NMĐ và nông dân cũng không được hưởng lợi.Công tác quảng cáo,tiếp thị sản phẩm yếu,đường đóng túi lẻ cũng chưa được quan tâm.
Hiện tượng sử dụng bao bì,hóa đơn của nhà máy để quay vòng,đóng đường nhập lậu còn diễn ra tại nhiều nơi,gây khó khăn cho công tác quản lý thị trường.
Giai đoạn 2001-200,phần lớn các NMĐ đều thua lỗ,do giá bán đường xuống thấp(có thời gian khoảng 3000 đ/kg thấp hơn cả giá thành).Mặt khác,do lãi suất vay tín dụng cao,khấu hao thiết bị lớn,nên nhiều nhà máy đường thua lỗ kéo dài.
Từ năm 2004 đến nay,do được xử lý các khó khăn tài chính theo QĐ 28 của Thủ tướng CP nên giá bán đường tăng và giữ ở mức cao,nhiều nhà máy đường đã có lãi.Tuy nhiên,phần lãi chỉ bù đắp 1 phần số lỗ do các vụ trước để lại,vẫn còn nhiều nhà máy lỗ do thiều nguyên liệu cho sản xuất.Số tiền lỗ lũy kế của các nhà máy vẫn còn nhiều.
2.2.Nguyên nhân của những hạn chế.
2.2.1.Nguyên nhân khách quan.
-Các NMĐ đa số là đặt ở những vùng nông thôn,ở vùng sâu,vùng xa,hạ tầng cơ sở còn kém,nên chi phí cao,thiếu vốn đầu tư,ruộng đất còn manh mún,nông dân còn nghèo.
-Biến động của điều kiện khí hậu,thời tiết bất lợi và giá mía nguyên liệu thấp,không ổn định đã gây nhiều khó khăn cho người trồng mía và các NMĐ.
-Cơ cấu vốn của các NMĐ chưa hợp lý,toàn bộ vốn đầu tư là vốn vay.Vốn sản xuất vay với lãi cao,vì thế khấu hao và lãi phải trả chiếm tỷ trong lớn,làm giá thành sản xuất ngày 1 cao.
-Thị trường tiêu thụ có quá nhiều biến động bất lợi,giá đường thế giới giảm mạnh,không ổn định,hậu quả là nhiều nhà máy đường bị thua lỗ lớn.
2.2.2.Nguyên nhân chủ quan.
-Quy hoạch của 1 số nhà máy và vùng nguyên liệu chưa phù hợp với điều kiện thực tế.Một số nhà máy không có quy hoạch vùng nguyên liệu dẫn đến phân tán và tranh chấp mua mía nguyên liệu giữa các NMĐ.
-Công tác nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật về trồng và thâm canh mía,cũng như cải tiến thiết bị chế biến đường chưa ngang tầm với yêu cầu đặt ra.
-Chậm đổi mới công tác tổ chức điều hành,chưa kịp thời đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật,quản lý và tổ chức sản xuất kinh doanh còn nhiều tồn tại và yếu kém;quan hệ giữa nhà máy và nông dân chưa chặt chữ,đặc biệt là về lợi ích kinh tế,tỷ lệ sử dụng công suất máy thấp.
-Thiếu sự điều hành chặt chẽ và thống nhất trong sản xuất,tiêu thụ và dự báo thị trường của nghành mía đường.
Ngoài ra,còn 1 nguyên nhân quan trọng đó là công tác quản lý nguồn vốn vay chưa thực sự hợp lý,dẫn đến tình trạng sư dụng nguồn vốn vay mua săm thiết bị phục vụ cho đầu tư mới hoặc đầu tư lại chưa phát huy hết tác dụng,tình trạng tham nhũng vốn của nhà nước còn xảy ra nhiều.Sự biến chất của 1 số cán bộ quản lý trong các công ty nhằm trục lợi,làm giàu cho bản thân,xin vốn vay,tham nhũng tiền của Nhà nước.Đề xuất 1 số ví dụ ở các nhà máy đường trong những năm qua về tình trạng này.
Đưa dự án vào nhóm bộ, ngành quản lý rồi xin “bổ sung” hàng trăm tỷ đồng vốn Nhà nước!
Chương trình “1 triệu tấn mía đường” là một trong những chương trình kinh tế lớn của Chính phủ. Nhưng do thực hiện thiếu đồng bộ, thiếu kế hoạch, quy hoạch tổng thể, thiếu sự phối hợp nên đã xảy ra sai phạm ở rất nhiều khâu của quá trình đầu tư. Kết quả kiểm tra của các cơ quan chức năng cho thấy, trong quá trình thực hiện đầu tư, tình trạng sai phạm phổ biến và nghiêm trọng đã diễn ra. Nhiều chủ đầu tư đã không thực hiện đấu thầu các hạng mục hoặc chỉ đấu thầu một cách hình thức để tiến tới hợp pháp hoá việc chỉ định thầu. Dù là chương trình kinh tế lớn của Chính phủ, nhưng việc triển khai đã không có kế hoạch, quy hoạch tổng thể. Lợi dụng việc này, lãnh đạo nhiều địa phương đã xin làm dự án mía đường và để được các cơ quan có thẩm quyền thuộc Chính phủ chấp nhận, họ đã tìm cách tính giảm tổng mức đầu tư của dự án, tính toán khấu hao trong một thời gian ngắn để “xếp” dự án vào nhóm B, C, là nhóm dự án do cấp Bộ và UBND các tỉnh có thẩm quyền phê duyệt. Sau khi được duyệt, các địa phương mới tiến hành xin điều chỉnh tăng vốn bổ sung. Mánh khoé lách luật này xảy ra tương đối phổ biến. Kết cục là, tiền Nhà nước “tuôn” như suối chảy, rất nhiều dự án nhà máy đường phải điều chỉnh nhiều lần, tăng đến 60, thậm chí 100% tổng vốn đầu tư. Ví dụ, Nhà máy đường Phụng Hiệp, tăng từ 134,2 tỷ đồng lên đến hơn 210,362 tỷ đồng; Nhà máy đường Linh Cảm tăng từ 98,4 tỷ lên đến 122,6 tỷ; Nhà máy đường Vị Thanh tăng từ 81,3 tỷ lên đến 173,6 tỷ; Nhà máy đường Trị An tăng từ 97,3 tỷ đồng lên đến 161,1 tỷ đồng; Nhà máy đường Bến Tre từ 95,2 tỷ tăng lên 157 tỷ đồng
Cùng với thua lỗ triền miên là món nợ khổng lồ!
Trong tổng số nợ khổng lồ, có tới khoảng 1.000 tỷ đồng vay nợ nước ngoài và dù đã đi vào “sản xuất kinh doanh”, đa số các doanh nghiệp vẫn không trả được nợ nước ngoài, buộc hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên toàn quốc phải đứng ra trả thay khoản nợ bảo lãnh và cho vay nhận nợ bắt buộc của 16 doanh nghiệp với số nợ vượt trên 17,4 triệu USD. Có thể nói, triển khai thực hiện chương trình mía đường, đại đa số các doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ triền miên. Đến hết năm 2002, lỗ luỹ kế của 36 doanh nghiệp vượt con số 2.000 tỷ đồng. Rất nhiều nhà máy sau một số năm hoạt động đã lỗ trên 50% vốn đầu tư, thậm chí nhiều nhà máy lỗ trên 100% vốn đầu tư. Trong số đó, Nhà máy đường Kiên Giang lỗ 170,6 tỷ trên tổng vốn đầu tư 161,1 tỷ; Nhà máy đường Quảng Bình lỗ 136,6 tỷ/141,1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4888.doc