MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC KÍCH CẦU ĐẦU TƯ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 4
I. LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ 4
1. Khái niệm về đầu tư 4
1.1 Khái niệm chung 4
1.2. Khái niệm đầu tư trên góc độ tài chính 5
1.3. Khái niệm đầu tư dưới góc độ tiêu dùng 6
2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư 7
2.1. Đầu tư là hoạt động đòi hỏi huy động các nguồn lực rất lớn 7
2.2. Thời gian đầu tư kéo dài 9
2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài 10
2.4. Các kết quả đầu tư có ảnh hưởng lớn và nó cũng chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố kinh tế, xã hội 10
2.5. Đầu tư là lĩnh vực có độ rủi ro cao 11
II. LÝ THUYẾT VỀ SUY THOÁI KINH TẾ 12
1. Khái niệm suy thoái kinh tế 12
2. Quá trình suy thoái kinh tế 15
3. Những hệ quả mang lại của suy thoái kinh tế 17
III. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ 19
1. Khái niệm về kích cầu đầu tư 19
2. Những nhân tố tác động đến kích cầu đầu tư 21
2.1. Những nhân tố của nền kinh tế 21
2.2. Nhân tố kinh tế xã hội 22
2.3. Hệ thống pháp luật và hiệu quả của quản lý nhà nước về đầu tư 23
2.4. Tình hình kinh tế quốc tế và trong nước 24
3. Những lý thuyết kinh tế là cơ sở cho kích cầu đầu tư 26
3.1. Lý thuyết về số nhân đầu tư: 26
3.2. Lý thuyết tân cổ điển: 27
3.3. Mô hình của Keynes về tăng trưởng kinh tế: 29
3.4. Mô hình Harrod Domar: 30
4. Vai trò của kích cầu đầu tư trong khắc phục suy thoái kinh tế 32
4.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu 32
4.2. Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế 35
4.3. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 38
4.4. Tác động của đầu tư đến khoa hoc và công nghệ 42
5. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu trong tình hình thực tế nước ta 44
5.1. Tình hình kinh tế chung 44
5.2. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 50
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LAI CHÂU 51
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH LAI CHÂU VÀ VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LAI CHÂU 51
1. Khái quát chung về Tỉnh Lai Châu 51
2. Những nét khái quát về Ngân hàng đầu tư và phát triển Tỉnh Lai Châu 54
II. THỰC TRẠNG KÍCH CẦU ĐẦU TƯ CỦA BIDV LAI CHÂU 56
1. Những nhận xét chung 56
2. Những giải pháp kích cầu đầu tư của BIDV Lai Châu trong những năm gần đây 57
2.1. Chuyển đổi mô hình hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng 57
2.2. Chủ động trong việc hỗ trợ cho doanh nghiêp nhất là DNN&V 60
2.3. Thực hiện hỗ trợ cho vay đầu tư. 63
2.4. Liên kết chặt chẽ với các ngân hàng trên địa bàn trong cho vay đầu tư của doanh nghiệp 64
2.5. Hỗ trợ lãi suất cho vay theo chương trình kích cầu của chính phủ 66
III. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 69
1. Thành tựu 69
1.1 Trong việc cho vay vốn đầu tư 69
1.2 Trong việc cho vay vốn đầu tư với DNN&V 70
1.3 Trong việc thực hiện hỗ trợ lãi suất theo chương trình kích cầu của chính phủ 71
2. Những hạn chế 72
2.1 Trong việc hỗ trợ vay vốn cho DNN&V 72
2.2 Trong việc thực hiện liên kết với các ngân hàng trên địa bàn cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư. 73
2.3 Trong việc thực hiện hỗ trợ lãi suât theo chương trình kích cầu của chính phủ 74
3. Nguyên nhân 74
3.1 Nguyên nhân của những thành tựu 74
3.2 Nguyên nhân của những hạn chế 75
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LAI CHÂU 78
I. ĐỊNH HƯỚNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA LAI CHÂU ĐẾN NĂM 2020 78
1. Về kinh tế: 78
1.1 Về nông nghiệp và phát triển nông thôn. 79
1.2. Về công nghiệp - xây dựng 80
1.3.Về thương mại - dịch vụ. 81
2. Về phát triển kết cấu hạ tầng 81
2.1 Giao thông 81
2.2 Thủy lợi. 81
2.3 Cấp nước sinh hoạt, cấp điện 81
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN LAI CHÂU 82
1. Hoàn thiện công tác hỗ trợ cho vay với DNN&V 82
2. Tiếp tục thực hiện và mở rông đối tượng cho vay thuộc chương trình hỗ trợ lãi suất 83
3. Hoàn thiện hệ thống thông tin 85
4. Nâng cao hợp tác với các NHTM 86
5. Tăng cường huy động vốn phục vụ cho việc đầu tư 86
6. Những biện pháp khác 87
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ 90
1. Kiến nghị đối với Nhà nước. 90
1.1.Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý 90
1.2.Kiện toàn tổ chức hệ thống quản lý nhà nước về đầu tư 91
1.3.Hoàn thiện chính sách hỗ trợ đầu tư, đặc biệt với DNN&V 91
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 92
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 92
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp kích cầu đầu tư trong giai đoạn suy thoái kinh tế tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Lai Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở giai đoạn này là đầu tư cùng lúc cả hai khu vực nhằm múc đích khi rút lao động ra khỏi nông nghiệp mà không ảnh hưởng đến sản lượng của ngành này đồng thời nhờ đó giảm bớt sức ép lên công nghiệp. Điều này cho thấy đầu tư không những tác động làm tăng sản lượng mỗi ngành mà còn tác động vào mỗi quan hệ qua lại giữa các ngành và làm thay đổi vai trò tương quan giữa các ngành đó trong tổng thể nền kinh tế nói chung.
4.4. Tác động của đầu tư đến khoa hoc và công nghệ
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia
Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng, phần mềm, yếu tố con người, yếu tố tổ chức. Muốn có công nghệ, cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành.
Trong mỗi thời kì, các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển. Trong giai đoạn đầu, các nước đang phát triển, do có nhiều lao động và nguyên liệu, thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiêu lao động và nguyên liệu, sau ddó giảm đần hàm lượng nguyên liệu và lao động trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tang hàm lương tri thức chiếm ưu thế tuỵêt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang giai đoạn đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư.không có vốn đầu tư lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị linh kiện và lắp đặt, mua bằng sáng chế, thực hiện liên doanh…công nghệ do tự nghiên cứu và triển khai được thực hiện qua nhiều giai đoạn,từ nghiên cứu đến thí nghiệm, sản xuất thử,sản xuất thương mại,mất nhiều thời gian rủi ro cao. Dù nhập hay từ nghiên cứu cũng đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi thích hợp để lụă chọn công nghệ phù hợp. Trên cơ sở đó đầu tư có hiệu quả để phat huy lợi thế so sánh cho tưng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của khoa học công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ / tổng vốn đầu tư.Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít qua mỗi thời kì.
- Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị / Tổng vốn đầu tư thực hiện.Chỉ tiêu này cho thấy tỉ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khai khoáng,chế tạo,lắp ráp tỉ lệ náy phải lớn
- Tỷ trọng vốn đâù tư theo chiều sâu / Tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều sâu gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức độ đầu tư đổi mới công nghệ càng cao.
- Tỷ trọng của vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn trọng điểm. Các công trình trọng điểm, mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn, công nghệ hiện đại mang tính đầu tư mồi, tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công trình khác. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ.
Vấn đề phát triển khoa học công nghệ là một trong những chiến lược của nước ta hiện nay cũng như trong giai đoạn sau này. Với việc duy trì những lợi thế sẵn có cũng như phát huy hơn nữa vai trò của Việt Nam với sự phát triển của kinh tế thế giới thì việc kích cầu đầu tư, đặc biệt là cho phát triển khoa học công nghệ là chiến lược cấp thiết càn phải thực hiện nhằm tạo dựng cơ sở vững chắc cho việc duy trì và phát triển ổn định nền kinh tế.
Như vậy, chúng ta thấy rằng thông qua việc kích cầu đầu tư thì chúng ta có thể tác động đến tổng cung và tổng cầu, đến cơ cấu ngành kinh tế… Qua đó, thì việc dự đoán những tác động của chính sách kích cầu đầu tư đến đầu tư nói riêng và đến kinh tế nói chung ở mức độ nào để có thể giúp cho việc ra quyết định có nên thực hiện chính sách đó hay không.
5. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu trong tình hình thực tế nước ta
5.1. Tình hình kinh tế chung
5.1.1. Tình hình kinh tế thế giới
Thế giới đang rơi vào cuộc suy thoái toàn cầu lần đầu tiên kể từ Thế chiến II khi khủng hoảng kinh tế Mỹ nhấn chìm các quốc gia đang phát triển, buộc họ phải đối mặt với thâm hụt tài chính. Khó khăn về kinh tế có thể làm chậm lại tiến trình xoá đói giảm nghèo trong một vài năm. Đây là cảnh báo của Ngân hàng Thế giới.
Ngân hàng Thế giới cũng cảnh báo rằng ngân sách để hỗ trợ các quốc gia nghèo có thể vượt quá nguồn lực tài chính hiện nay của các ngân hàng quốc tế. Những khoản hỗ trợ như vậy có vai trò then chốt đối với sự ổn định chính trị khi lo ngại gia tăng về tình trạng mất ổn định xảy ra tại các quốc gia nghèo, đặc biệt là ở Đông Âu. Tình trạng mất ổn định xảy ra do sự đảo lộn tài sản khi các khoản đầu tư tư nhân bốc hơi và thương mại toàn cầu sụp đổ.
Theo hãng tin WP(west point news), trong báo cáo công bố trước hội nghị thượng đỉnh các bộ trưởng tài chính tại London trung tuần tháng 3/2009, Ngân hàng Thế giới kêu gọi các quốc gia phát triển đóng góp 0,7% khoản tiền họ dành cho các chương trình kích cầu kinh tế vào Quỹ Tổn thương (Vulnerability Fund) để hỗ trợ các quốc gia đang phát triển.
Báo cáo dự báo rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ suy giảm lần đầu tiên kể từ thập kỷ 40. Dự báo này dập tắt các dự đoán trước đây rằng các quốc gia đang phát triển sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu ngay cả khi nền kinh tế Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản suy yếu.
Dự báo này nhấn mạnh điều mà nhiều người gọi là khủng hoảng lan tràn khi sự suy thoái kinh tế bắt đầu ở các quốc gia giàu có phương Tây lan rộng sang các quốc gia đang phát triển do giảm sút về đầu tư, thương mại và tín dụng.
Mặc dù nước Mỹ nằm ở tâm chấn động của cuộc khủng hoảng nhưng các nhà đầu tư vẫn thu vào đồng đô la Mỹ, đẩy các quốc gia đang phát triển ra khỏi thị trường tín dụng toàn cầu.
Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Robert B. Zoellick cho rằng “Chúng ta cần phản ứng kịp thời với cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng ảnh hưởng nghiêm trọng đến người dân ở các quốc gia đang phát triển.” Các chính phủ và ngân hàng quốc tế cần hành động ngay để “ngăn chặn tình trạng bất ổn về xã hội và chính trị.”
Báo cáo nói rằng 94 trong số 116 quốc gia đang phát triển bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế. Ngân hàng Thế giới dự đoán rằng khủng hoảng kinh tế sẽ đẩy khoảng 46 triệu người vào cảnh nghèo trong năm 2009 do làn sóng cắt giảm nhân công và sự suy giảm lượng tiền lao động nước ngoài gửi cho người thân.
Dòng chảy vốn tư nhân tới các thị trường đang phát triển có xu hướng giảm, dự đoán giảm tới 165 tỷ đô la trong năm nay – hay giảm 17% so với năm 2007. Nhu cầu suy giảm ở phương Tây dẫn đến sự suy giảm đột ngột của thương mại thế giới trong 80 năm qua, đẩy doanh thu của các hàng hoá và sản phẩm của các nước nghèo tụt dốc.
Sự suy giảm này gắn liền với làn sóng mất việc làm. Campuchia mất 30.000 việc làm trong ngành may mặc. Ở Ấn Độ, hơn nửa triệu việc làm biến mất trong ba tháng cuối năm 2008 trong các lĩnh vực như đá quý, trang sức, xe hơi và dệt.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới ước tính rằng ít nhất 98 quốc gia có thể gặp khó khăn trong việc chi trả 268 tỷ đô la tiền nợ công và tư trong năm nay. Báo cáo cho rằng tình trạng đi xuống của thị trường có thể đẩy khoản nợ đó lên tới 700 tỷ đô la.
Bên cạnh đó, chỉ một phần tư các quốc gia đang phát triển dễ bị tổn thương có khả năng tự triển khai các chương trình kích cầu hoặc chủ động tiến hành các biện pháp như tạo việc làm hoặc các chương trình trợ cấp.
Để hỗ trợ các quốc gia này, các ngân hàng quốc tế cần huy động được nguồn vốn lớn. Ngân hàng Thế giới hiện vẫn duy trì được nguồn tài chính ổn định và có khả năng tăng gấp ba khoản chi trong năm nay khoảng 35 tỷ đô la. Nhưng Ngân hàng cũng cảnh báo rằng nhu cầu vay của các quốc gia đang phát triển có thể vượt quá năng lực đáp ứng của các ngân hàng quốc tế lớn. Ngân hàng Thế giới kêu gọi các chính phủ các nước lớn và khu vực tư nhân bơm thêm vốn.
5.1.2. Tình hình kinh tế Việt Nam
Trước tình hình kinh tế thế giới có những suy giảm nhất định dẫn đến những ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế Việt Nam. Cụ thể trong 6 tháng cuối năm 2008 kinh tế nước ta đã tăng trưởng chậm lại, số người mất việc làm do việc đóng cửa của các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài đã khiến hàng chục nghìn người mất việc làm tại các khu công nghiệp.
Trước tình hình đó, ngày 11/12 Chính phủ ra Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giảm pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội.
Theo Nghị quyết, từ tháng 10/2008 đến nay, tình hình kinh tế thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước, làm cho sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút.
Trước tình hình đó, Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành, địa phương tập trung triển khai ngay các biện pháp cấp bách ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội và phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế năm 2009 ở khoảng 6,5%.
Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là một trọng tâm của Nghị quyết số 30, trong đó Chính phủ xác định 12 giải pháp mà các bộ ngành liên quan phải triển khai.
Thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan ra soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu tư, xây dựng để sửa đổi ngay những bất cập làm ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư; khẩn trương xây dựng luật sửa đổi, bổ sung các luật về đầu tư, xây dựng để trình Quốc hội tại kỳ họp sắp tới.
Thứ hai, đối với các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cho phép tiếp tục giải ngân số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng 6/2009. Đối với các dự án, công trình quan trọng, cấp bách nhưng chưa bố trí được nguồn vốn, trong đó có dự án tái định cư các khu kinh tế, các bộ ngành và địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục đầu tư và chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xử lý nguồn vốn, kể cả việc tạm ứng ngân sách nhà nước để thực hiện.
Thứ ba, tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009, trừ các khoản đã tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong năm 2008. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ngay trong tháng 12 này danh mục các dự án và mức vốn được hoãn thu hồi.
Thứ tư, đối với các dự án, công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ, cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án đã có trong danh mục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ giao; trên cơ sở đó thực hiện việc điều hòa vốn giữa các dự án, công trình và được thanh toán theo đúng tiến độ. Đồng thời, cho phép tiếp tục giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của năm 2008 trong năm 2009.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan hoàn thành phương án phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009 trước ngày 31/12/2008; bổ sung các dự án cấp bách khác trong các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục để triển khai thực hiện.
Tạm ứng từ nguồn trái phiếu Chính phủ khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư, xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão vùng đồng bằng sông Hồng…
Thứ năm, Bộ Kế hoạch Đầu tư chủ trì ban hành các biện pháp cụ thể nhằm tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân cách nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn, những dự án giải quyết việc làm; phấn đấu năm 2009 thực hiện giải ngân các nguồn vốn trên không thấp hơn mức thực hiện trong năm 2008.
Thứ sáu, Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 12/2008 cho phép cấp quyết định đầu tư được chỉ định thầu các dự án có mức vốn tối đa không quá 5 tỷ đồng/dự án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Thứ bảy, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án, công trình có quy mô lớn được tạo điều kiện tối đa về đất đai, tiếp cận nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lãi suất…
Các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chủ động tham gia các dự án, công trình đầu tư hạ tầng quan trọng như cảng biển, điện, đường cao tốc, thủy lợi, trường học, cơ sở y tế… để góp phần đẩy nhanh tiến độ và kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của đất nước.
Thứ tám, trong tháng 12/2008, Bộ Xây dựng trình Chính phủ Đề án xây dựng quỹ nhà ở xã hội giai đoạn 2009 – 2015; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ ban hành cơ chế phù hợp để đảm bảo khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp.
Đối với kích cầu tiêu dùng, Chính phủ xác định 4 giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành giá theo cơ chế thị trường đối với các mặt hàng điện, than, nước sạch, cước vận chuyển xe buýt… Trong tháng 1/2009, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ về lộ trình thực hiện cụ thể.
Thứ hai, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan trình Thủ tướng đề án phát triển hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu, trong đó tập trung các mặt hàng lương thực, xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng và thuốc chữa bệnh; chống gian lận, đầu cơ, gây mất ổn định thị trường.
Thứ ba, các bộ ngành liên quan tăng cường các biện pháp quản lý thị trường, giá cả, chất lượng hàng hóa…; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là kinh doanh trái phép, trốn thuế, liên kết độc quyền…
Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các đợt hạ giá bán hàng để kích thích tiêu dùng, trước mắt là trong dịp Tết nguyên đán 2009.
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tể vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Nhờ thế, dù trong điều kiện khó khăn nhưng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, cán cân thanh toán cân đối, cán cân thương mại có xuất siêu, điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp, giữ được an toàn hệ thống ngân hàng.Hệ thống các giải pháp kích cầu và đầu tư được chỉ đạo triển khai tích cực, tạo sự đồng thuận xã hội, bước đầu đi vào cuộc sống với hàng loạt cơ chế, chính sách về tài chính như: miễn giảm, giãn thuế, bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách tập trung, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng ưu đãi, vốn doanh nghiệp…Chính phủ cũng đã ban hành chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc trong các doanh nghiệp do suy giảm kinh tế. Hiệu quả các chính sách kịp thời và chỉ đạo linh hoạt của Chính phủ đã bước đầu có hiệu quả: Giá trị sản xuất một số ngành trọng điểm đã tăng lên, nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội được tăng cường; giải ngân xây dựng trường học, bệnh viện bằng trái phiếu Chính phủ được đẩy nhanh, việc hỗ trợ nhanh và bền vững cho bà con nghèo ở các huyện nghèo trong cả nước đã được khẩn trương triển khai thực hiện, được nhân dân đồng tình và tin tưởng.
5.2. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Như vậy trước tình hình nền kinh tế, chính phủ cá nước nói chung và chính phủ Việt Nam nói riêng đã và đang thực hiện các giải pháp để ngăn chặn suy thoái kinh tế. Trong lúc này vấn đề kích cầu đầu tư không còn là một vấn đề của riêng một tổ chức, cá nhân nào cả mà nó thực sự đã là vấn đề toàn dân.
Với thực tế như vậy, trong lúc này việc đánh giá quá trình thực hiện kích cầu và đề xuất những giải pháp phù hợp là rất cần thiết, với chung ý tưởng như vật đề tài nghiên cứu này mong muốn có thể giúp một phần nhỏ cho quá trình đánh giá việc thực hiện kích cầu và đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả kích cầu tại BIDV Lai Châu – một trong những đơn vị đầu mối thực hiện giải pháp kích cầu của chính phủ lần này.
Cá nhân tôi hi vọng rẳng những nghiên cứu của tôi có thể giúp cho việc kích cầu đầu tư của BIDV Lai Châu nói riêng, của tỉnh Lai Châu nói chung đạt được những kết quả tốt nhất.
Qua chương I, chúng ta đã xem xét những lý thuyết liên quan đến đầu tư, kích cầu đầu tư… đồng thời với đó là những đánh giá về tác động của chính sách kích cầu đến đàu tư như thế nào và qua đó gián tiếp tác động đến nền kinh tế.
Hiện nay trong giai đoạn kinh tế nước ta gặp nhiều yếu tố bất lợi tư cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thì việc thực hiện kích cầu là hoàn toàn cần thiết.
Tôi hi vọng những lý thuyết trên sẽ là nền tảng vững chắc cho chúng ta xem xét những vấn đề của những chương tiếp sau.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KÍCH CẦU ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LAI CHÂU
Trong chương này tôi xin đưa ra những việc mà BIDV Lai Châu đã và dang tích cực thực hiện nhằm kích cầu đầu tư trên địa bàn tỉnh. Cùng với đó là những thành công và hạn chế đã đạt được để có thẻ từ đó đánh giá nguyên nhân nhằm đưa ra những biện pháp kịp thời để có thể thực hiện thành công những chủ trương chính sách mà chính phủ đã đề ra để ổn định và phát triển nền kinh tế
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH LAI CHÂU VÀ VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH LAI CHÂU
1. Khái quát chung về Tỉnh Lai Châu
Bản đồ địa giới hành chính tỉnh Lai Châu
Trong việc nghiên cứu chuyên đề thì mục đích lớn nhất của tôi là phải làm sao cho chuyên đề của mình có tính thực tiễn, từ đó có thể đem những kết quả nghiên cứu phục vụ cho quá trình kích cầu đầu tư, phát triển kinh tế của tỉnh Lai Châu nói riêng và của nước ta nói chung. Chính vì thế những thông tin về tình hình kinh tế xã hội của Lai Châu là vô cùng quý báu giúp cho tôi trong việc nghiên cứu việc kích cầu đầu tư với thực tế của tỉnh Lai Châu
Tình hình chung:
Thực hiện Nghị Quyết 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 4 về việc “Chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh; trong đó chia tách tỉnh lai Châu thành hai tỉnh: tỉnh Lai Châu và tỉnh Điện Biên”.
Lai Châu là một tỉnh miền núi phía Tây bắc Việt Nam, mới được chia tách và đi vào hoạt động từ 01/01/2004; Có đường biên giới Việt Trung dài 273 km, có 5 huyện, 1 thị xã gồm 90 xã, thị trấn, 24 xã biên giới, diện tích tự nhiên 9.065 km2, dân số 313.511 người, mật độ dân số bình quân 35 người/km2. Có 20 dân tộc anh em cùng chung sống, dân tộc thái chiếm khoảng 35%, dân tộc Mông chiếm khoảng 21%, dân tộc kinh chiếm khoảng 19%, còn lại là các dân tộc khác.
Thuận lợi
Năm 2008, tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục có chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, cơ cấu kinh tế chuyển biến nhanh, hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được cải thiện, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên. Tình hình chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội được giữ vững, quan hệ đối nội, đối ngoại tiếp tục được mở rộng.
Tỉnh Lai châu đó được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xó hội thời kỳ 2006 - 2020 tại Quyết định số 87/2006/QĐ - TTg ngày 20/4/2006 và phê duyệt Đề án "Phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lai Châu đến năm 2010" tại Quyết định số 192/2006/QĐ - TTg ngày 21/8/2006. Trên cơ sở đó, một số dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng của tỉnh đó được triển khai, một số cơ sở công nghiệp đó được hình thành, mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển tương đối nhanh, các thành phần kinh tế nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển và hoạt động có hiêụ quả..
Một số chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đó được Quốc hội thảo luận, chỉnh sửa kịp thời và thông qua phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Điều đó đó tạo thuận lợi để các thành phần kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng ngày càng phát triển về quy mô và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Tỉnh năm 2008 đạt như sau:
- Tổng sản phẩm xã hội đạt 418,77 tỉ đồng.
- Cơ cấu GDP:
Nông, Lâm nghiệp 60,48%;
Công nghiệp xây dựng 15,16%;
Thương mại dịch vụ 24,36%.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15%.
Khó khăn:
Lai Châu là một tỉnh miền núi cao phía tây bắc Việt Nam mới được chia tách từ ngày 01 tháng 01 năm 2004, có đường biên giới Việt - Trung dài 273 Km, có 5 huyện, 1 thị xã gồm 90 xã, thị trấn (trong đó có 76 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn và 24 xã biên giới). 10 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã. Là một tỉnh khó khăn nhất cả nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt thấp (do điểm xuất phát ban đầu thấp) hàng năm Trung ương vẫn phải hỗ trợ 80% chi ngân sách địa phương.
Đặc trưng kinh tế của tỉnh chủ yếu là thuần nông, chưa có các DNNN lớn, địa bàn hoạt động rộng, địa hình phức tạp hiểm trở, trình độ dân trí không đồng đều, tỷ lệ các xã đặc biệt khó khăn cao (76/90). Tỷ lệ hộ đói nghèo 51.63%. Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thiếu bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của bộ phận đồng bào thiểu số vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, tình trạng tự di canh, di cư còn tự do, lợi dụng tự do tín ngưỡng còn diễn biến phức tạp, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.
Cơ sở hạ tầng nhìn chung còn yếu kém. đặc biệt là giao thông đường xá ở các huyện vùng cao như: Mường tè, Sìn Hồ… đi lại hết sức khó khăn, hầu hết từ trung tâm huyện đi các xã chủ yếu vẫn phải đi bộ. Trình độ dân trí thấp so với mặt bằng chung của cả nước, nên sản xuất chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, đời sống nhân dân các dân tộc còn rất nhiều khó khăn. Thiên tai vẫn thường xuyên xảy ra như: mưa đá, lũ quét, gió lốc trên diện rộng ... đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tác động của biến động giá cả trên thị trường thế giới và trong nước (đặc biệt là diễn biến bất thường của giá vàng, giá USD và giá dầu mỏ) đó làm cho giá cả các mặt hàng liên tục tăng cao, trong khi lãi suất huy động tăng không đáng kể nên đó hạn chế việc tăng trưởng nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư.
Tất cả những thuận lợi và khó khăn về kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua có những tác động, ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng trên địa bàn nói chung và của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lai Châu nói riêng.
Bởi sự phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển của hoạt động Ngân hàng. Khi địa bàn có nền kinh tế phát triển, thu nhập cũng như trình độ nhận thức của người dân được nâng cao thì nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng càng được mở rộng, tạo nên thị trường cũng như các cơ hội và thách thức cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Với những khó khăn trên, ngay từ những ngày đầu đi và hoạt động trên cơ sở các mục tiêu, kế hoạch đã được xác định. Chi nhánh luôn nhận được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, NHNN tỉnh, sự chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và hợp tác, hỗ trợ của các Ban, Ngành , các Bạn hàng, với sự nỗ lực của tập thể CBNV chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lai Châu đã xây dựng được những chương trình, chiến lược kinh doanh nhằm khắc phục những khó khăn phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, chỉ tiêu kế hoạch cả về số lượng và chất lượng.
2. Những nét khái quát về Ngân hàng đầu tư và phát triển Tỉnh Lai Châu
Quá trình hình thành và phát triển
Thực hiện Nghị Quyết 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 4 về việc “Chia tách và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh; trong đó chia tách tỉnh lai Châu thành hai tỉnh: tỉnh Lai Châu và tỉnh Điện Biên”.
Chi nhánh NHĐT&PT tỉnh Lai Châu được thành lập theo Quyết định số 5360/QĐ-HĐQT ngày 25/12/2003 của Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chi nhánh NHĐT&PT tỉnh Lai Châu bắt đầu đi vào hoạt động từ 01/01/2004. Do điều kiện hoạt động trên địa bàn một tỉnh miền núi, mới chia tách trụ sở làm việc, cơ sở vật chất trong công tác và sinh hoạt còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, cán bộ vừa thiếu, vừa yếu. Tổng số cán bộ được điều động sang là 22 CBNV, phần lớn là cán bộ mới ra trường chưa có kinh nghiệm thực tế trong quá trình xử lý nghiệp vụ và chưa quen với công việc điều hành ở tầm vĩ mô.
Thực trạng đó đặt ra cho NHĐT&PT tỉnh Lai Châu nhiệm vụ hàng đầu là nhanh chóng ổn định công tác tổ chức, chuyển đổi cơ chế hoạt động kinh doanh, huy động vốn và cho vay phải được mở rộng.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Lai Châu đó được Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam phê duyệt theo mô hình tổ chức mới phự hợp với chức năng nhiệm vụ của chi nhánh khi triển khai áp dụng dự án Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Đây là điều kiện rất thuận lợi để chi nhánh chủ động bố trí, sắp xếp cán bộ, quy định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể tới từng phòng, tổ và chi nhỏnh trực thuộc để sớm ổn định, kiện toàn bộ máy tổ chức hoạt động.
Xác định cán bộ là gốc của công việc, là nhân tố quyết đị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21760.doc