Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3
I. Sự cần thiết khách quan phải có bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3
1.Lịch sử hình thành bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3
1.1. Vai trò của ngành giao thông vận tải trong nền kinh tế. 3
1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tai nạn xe cơ giới. 4
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 8
2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 8
2.2.Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 11
II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 13
1.Đối tượng tham gia bảo hiểm. 13
2. Phạm vi bảo hiểm. 16
2.1. Rủi ro được bảo hiểm. 16
2.2. Rủi ro loại trừ. 17
3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. 19
3.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH) và số tiền bảo hiểm (STBH). 19
3.2. Phí bảo hiểm. 21
4. Hoạt động giám định và bồi thường tổn thất. 26
4.1. Quy trình xử lý tai nạn, giám định và xét bồi thường bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. 26
4.2.Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. 33
5. Hợp đồng bảo hiểm. 37
6. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 38
6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ kinh tế. 39
6.2 Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ xã hội. 39
6.3. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo khâu công việc. 40
Chương 2 . Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại phòng bảo hiểm cầu giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội (giai đoạn 1994-2007). 42
I. Giới thiệu về công ty bảo hiểm Hà Nội và phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 42
1. Sự hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt Hà Nội. 42
2. Vài nét về phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 43
II. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 47
1. Công tác khai thác. 47
2. Công tác giám định và bồi thường tổn thất. 59
3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. 64
4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. 65
Chương 3.Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 70
I. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 70
1. Thuận lợi. 70
2. Khó khăn 72
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 77
1. Đối với công tác khai thác. 77
2. Đối với công tác giám định. 80
3. Đối với công tác bồi thường. 82
KẾT LUẬN 84
88 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyên viên giám định xác định được số tiền thiệt hại do tổn thất gây ra và lập biên bản giám định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc thanh toán bồi thường, chi trả đòi hỏi thời hạn dài, khiến khách hàng phật ý, thậm chí công phẫn.
Truy đòi người thứ ba: Cuối cùng, bộ phận thanh toán bồi thường phải áp dụng các biện pháp để tiến hành truy đòi người thứ ba nếu họ có liên đới trách nhiệm trong trường hợp tổn thất xảy ra hoặc với các nhà bảo hiểm khác trên thị trường tái bảo hiểm. Thực hiện truy đòi cũng phải nhanh chóng, kịp thời để quản lý tốt các nghiệp vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan đến kết quả truy đòi. Khi thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, Bảo Việt bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ, chứng từ có liên quan và hợp tác chặt chẽ với Bảo Việt đòi lại người thứ ba trong phạm vi số tiền đã được Bảo Việt bồi thường.
Bảo Việt miễn trừ đòi bên thứ ba (bên gây thiệt hại) bồi thường trong trường hợp các xe liên quan đến tai nạn đều bảo hiểm vật chất xe toàn bộ , đủ giá trị tại Bảo Việt.
5. Hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng thỏa mãn những điều kiện trên và được ký kết giữa chủ xe và công ty bảo hiểm. Trong đó, giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cung cấp theo yêu cầu bảo hiểm của chủ xe là bằng chứng văn bản và cũng là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa công ty và chủ xe.
Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới bao gồm:
Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới: Là điều khoản quy định quyền lợi, trách nhiệm của chủ xe, Bảo Việt và được Bảo Việt cấp khi chủ xe cơ yêu cầu.
Giấy yêu cầu bảo hiểm (theo mẫu in sẵn): Để chủ xe yêu cầu bảo hiểm và thiết lập hợp đồng bảo hiểm. Là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Khi yêu cầu bảo hiểm, chủ xe phải kê khai đầy đủ và trung thực những nội dung trong Giấy yêu cầu bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm: Được Bảo Việt cấp cho chủ xe, là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Các điều khoản bảo hiểm bổ sung cho hợp đồng (chỉ áp dụng đối với bảo hiểm vật chất ô tô): Là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm được thỏa thuận bổ sung nếu chủ xe có yêu cầu.
Các thỏa thuận khác được lập thành văn bản giữa chủ xe và Bảo Việt.
Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Chủ xe phải thanh toán đủ phí bảo hiểm trước khi công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, trừ khi có thỏa thuận khác bằng văn bản. Trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm theo định kỳ mà không thông báo với công ty bảo hiểm, thỏa thuận ấn định lại thơi hạn đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên chấm dứt hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục đóng phí bảo hiểm.
Khi chủ xe yêu cầu chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn, phải thông báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm trước 15 ngày kể từ ngày định chấm dứt hợp đồng. Nếu hợp đồng được hai bên thỏa thuận chấm dứt thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại, trừ trường hợp trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nếu trong trường hợp công ty bảo hiểm yêu cầu chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn thì công ty phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe trước 15 ngày và hoàn lại phí bảo hiểm cho chủ xe tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
6. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Xét trên phương diện thống kê, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, không thể dùng một chỉ tiêu mà phải dùng một hệ thống các chỉ tiêu. Bởi vì, nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và rất phức tạp.
Nếu kí hiệu một chỉ tiêu chí phí nào đó là C và một chỉ tiêu kết quả nào đó là K, thì chỉ tiêu hiệu quả H được tính từ hai chỉ tiêu trên sẽ là:
H=K/C hoặc H=C/K
Như vậy, về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh tính theo chiều thuận K/C hoặc chiều ngược lại C/K.
6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ kinh tế.
Xét trên góc độ này, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ.
Hd = D/C hoặc Hd = C/D (1)
Hln = L/C hoặc Hln = C/L (2)
Trong đó:
Hd, Hln : Hiệu quả kinh doanh cảu doanh nghiệp bảo hiểm tính theo doanh thu và lợi nhuận.
D : Doanh thu trong kỳ.
L : Lợi nhuận thu được trong kỳ.
C : Tổng chi phí chi ra trong kỳ.
Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ, tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc để có được một đồng doanh thu doanh nghiệp đã phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí. Còn chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm hay muốn có được một đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp cần phải chi ra bao nhiêu đòng chi phí. Các chỉ tiêu Hd = D/C và Hln = L/C càng lớn càng tốt, vì với chi phí nhất định, doanh nghiệp sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng. Và ngược lại, đối với các chỉ tiêu Hd = C/D và Hln = C/L thì càng nhỏ càng tốt.
6.2 Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ xã hội.
Trên góc độ xã hội, hiệu quả kinh doanh của daonh nghiệp bảo hiểm được thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
Hx = Ktg/Cbh (3)
Hx = Kbt/Cbh (4)
Trong đó:
Hx : Hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm.
Cbh : Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong kỳ.
Ktg : Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ.
Kbt : Số khách hàng được bồi thường trong kỳ.
Chỉ tiêu (3) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ đã thu hút được bao nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm. Còn chỉ tiêu (4) nói lên cùng với đồng chi phí đó đã góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên cứu. Tất cả các chỉ tiêu trên đều phản ánh tổng hợp nhất mọi mặt kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm.
6.3. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo khâu công việc.
Mỗi ngiệp vụ bảo hiểm khi triển khai thường phải trải qua một số khâu công việc cụ thể như: khâu khai thác, khâu giám định và bồi thường, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất...Để nâng cao hiệu quả hoạt động cảu nghiệp vụ, đòi hỏi phải nâng cao hiệu qủa hoạt động cảu từng khâu công việc.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khai thác.
Hiệu quả khai thác bảo hiểm =
Kết quả khai thác trong kỳ
Chi phí khai thác trong kỳ
Kết quả kinh doanh trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm hoặc cũng có thể là số lượng hợp đồng, số đơn bảo hiểm cấp trong kỳ...còn chi phí khai thác có thể là tổng chi phí trong khâu khai thác hoặc cũng có thể là số đại lý khai thác trong kỳ.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khâu giám định.
Kết quả giám định trong kỳ
Hiệu quả giám định bảo hiểm =
Chi phí giám định trong kỳ
Tử số của chỉ tiêu trên có thể là số vụ tai nạn rủi ro đã được giám định hoặc số khách hàng đã được bồi thường trong kỳ. Còn mẫu số là tổng chi phí giám định.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất.
Hiệu quả đề phòng và hạn chế tổn thất =
Lợi nhuận bảo hiểm trtrong kỳkỳkỳ
Chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất
Kết qủa chỉ tiêu nói lên cứ một đồng chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất chi ra trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, chỉ tiêu này có tác dụng rất lớn khi phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm.
Chương 2 . Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại phòng bảo hiểm cầu giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội (giai đoạn 1994-2007).
I. Giới thiệu về công ty bảo hiểm Hà Nội và phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Sự hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt Hà Nội.
Nền kinh tế thị trường ra đời và phát triển đã mở ra nhiều cơ hội và cả những thách thức cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. Sự mở rộng nhiều ngành nghề kinh doanh, mô hình sản xuất và những loại hình doanh nghiệp được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Trong đó, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cũng đang nằm trong vùng sôi động này. Thị trường bảo hiểm Việt Nam đã và đang bắt đầu được hoàn thiện và mở rộng.
Công ty Bảo Việt Hà Nội được thành lập năm 1980 theo quyết định 1125/QĐ – TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài Chính và trực thuộc Tổng Công ty Bảo Hiểm Việt Nam (Bảo Việt), với nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Khi mới thành lập có tên là Chi nhánh bảo hiểm Hà Nội đến 17/02/1989, Bộ Tài Chính đã ra quyết định chuyển Chi nhánh Bảo hiểm Hà Nội thành Công ty Bảo Hiểm Hà Nội. Là một đơn vị thành viên của một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, Bảo Việt Hà Nội có chức năng thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh và mọi thành viên khác trong xã hội nhằm bồi thường cho những người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ gây thiệt hại, giúp các cá nhân, tổ chức đó mau chóng ổn định sản xuất và đời sống.
Trải qua thời gian hơn 25 năm liên tục, Công ty đã không ngừng lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ lúc thành lập chỉ có 10 cán bộ với 01 phòng nhỏ làm trụ sở đến nay Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế hùng mạnh với đội ngũ gần 200 cán bộ bảo hiểm, trụ sở chính khang trang với 13 phòng tại công ty, có 14 phòng bảo hiểm ở tất cả các Quận Huyện cùng với mạng lưới đại lý, cộng tác viên phủ kín các địa bàn dân cư của Thành phố, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân và các đơn vị. Hoạt động của các phòng này không chỉ giúp cho Bảo Việt Hà Nội triển khai tốt công tác bảo hiểm trên toàn thành phố mà còn hình thành một mạng lưới phục vụ sâu sát trong những đơn vị chủ lực của Tổng Công Ty Bảo Hiểm Việt Nam.
Trong suốt quá trình phát triển, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ điều kiện nào, cán bộ Bảo Việt Hà Nội luôn luôn đoàn kết, nhất trí, trên dưới một lòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty và Nhà nước giao cho, năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích lũy, đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam và ngành bảo hiểm nói chung. Tính đến 31 tháng 12 năm 2007, doanh thu chung của Công ty là 238,60 tỷ đồng, đạt 104,65% kế hoạch Bảo Việt Việt Nam giao, tăng trưởng 18,05% so với năm 2006 tương ứng với 36,5 tỷ đồng.
Vài nét về phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Nghị định 100/CP của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm ra đời ngày 18/12/1993 đã chấm dứt thế độc quyền về kinh doanh bảo hiểm của Bảo việt, khởi đầu cho sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm khác như Bảo Minh, PJICO, Bảo Long…Ngoài ra còn một số văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài, các công ty môi giới bảo hiểm. Điều này đã làm cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường Hà Nội đã và đang xuất hiện sự cạnh tranh gay gắt. Nếu như trước đây Bảo Việt độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm thì bây giờ phải chấp nhận cạnh tranh và chấp nhận chia sẻ.
Chuẩn bị cho tình hình mới và cũng là để có mạnh lưới bảo hiểm rộng khắp phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, hiệu quả, Công ty bảo hiểm Hà Nội đã được Bộ Tài Chính và Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam cho phép tổ chức thành lập các văn phòng đại diện tại các quận, huyện nội và ngoại thành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Theo đó văn phòng đại diện quận Cầu Giấy cũng được thành lập.
Phòng bảo hiểm khu vực Cầu Giấy- Bảo Việt Hà Nội là một chi nhánh nằm trong mạng lưới kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội, địa bàn hoạt động là quận Cầu Giấy, được quyết định thành lập ngày 13/4/1992 chỉ với 3 cán bộ gồm 01 trưởng phòng, 01 phó phòng kiêm thủ quỹ và 01 kế toán. Từ buổi đầu thành lập, với doanh thu năm đầu tiên là 700 triệu đồng, cho tới nay, qua 4 lần di chuyển địa điểm, quy mô và tầm hoạt động của phòng đã phát triển một cách vượt bậc so với những ngày đầu thành lập. Số nghiệp vụ mà phòng triển khai đã đáp ứng được hầu hết nhu cầu thị trường của địa bàn hoạt động, kết quả kinh doanh của phòng năm sau luôn cao hơn so với năm trước, tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm từ 10% - 15% năm, cho tới năm 2007, doanh thu của Phòng đã là 8,61 tỷ đồng. Từ chỗ chỉ có 3 cán bộ khi thành lập, tới nay biên chế chính thức của phòng đã là 07 người bao gồm:
+ 01 Trưởng phòng.
+ 01 Phó trưởng phòng.
+ 01 Cán bộ kế toán.
+ 01 Cán bộ thống kê kiêm cán bộ giám định.
+ 01 Cán bộ giám định.
+ 02 Cán bộ khai thác.
Và một đội ngũ 15 đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp hoạt động rất hiệu quả. Không chỉ giới hạn trong địa bàn quận Cầu Giấy mà phòng hiện nay đã mở rộng địa bàn kinh doanh của mình ra hầu hết các quận trong thành phố Hà Nội. Với cơ chế hoạt động linh hoạt, sự năng động của các cán bộ và đại lý trong phòng, theo thời gian kết quả kinh doanh của Phòng ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ, đóng góp phần không nhỏ tạo nên sự hùng mạnh của hệ thống các công ty trực thuộc Bảo Việt.
Hiện nay, phòng bảo hiểm quận Cầu Giấy có trụ sở tại tầng 1 tòa nhà N06 – Dịch Vọng – Hà Nội, là một trong những đơn vị trực tiếp tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải. Mặc dù được giao chức năng như một “công ty nhỏ” thực hiện triệt để từ khâu khai thác cho đến giám định bồi thường nhưng phòng vẫn chịu sự chỉ đạo và quản lý của Công ty bảo hiểm Hà Nội về các chế độ và các chính sách trong hoạt động kinh doanh. Do đó, phòng bảo hiểm quận Cầu Giấy cũng như các văn phòng đại diện khác không thực hiện việc hạch toán độc lập nhưng có toàn quyền quyết định các hoạt động của mình ở mức độ phân cấp cho phép và được hưởng lương cũng như các chế độ khác theo doanh thu và hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh của phòng bảo hiểm quận Cầu Giấy gồm các nghiệp vụ như :
BH hàng hóa xuất khẩu
BH hàng hóa nhập khẩu
BH thân tàu
BH mọi rủi ro xây dựng – CAR
BH hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt
BH vật chất xe cơ giới
BH tai nạn con người 24h/24h
BH TNDS chủ xe ô tô, mô tô bắt buộc
BH Trợ cấp nằm viện, phẫu thuật
BH sinh mạng cá nhân
BH tai nạn học sinh
BH tai nạn du lịch
BH tai nạn hành khách....
Hiện tại, phòng đang triển khai 22 nghiệp vụ bảo hiểm bao gồm cả phi nhân thọ và nhân thọ. Một số nghiệp vụ đã đem lại cho phòng doanh thu khá lớn trong tổng doanh thu của cả phòng như:
+ Bảo hiểm TNDS của chủ xe ô tô bắt buộc có doanh thu chiếm 30,61% tổng doanh thu cả phòng.
+ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới chiếm 22,69%.
+ Bảo hiểm toàn diện học sinh chiếm 16,65%.
Bảng 6: Kết quả kinh doanh của văn phòng bảo hiểm quận Cầu Giấy
(giai đoạn 2003 – 2007)
Năm
Doanh thu kế hoạch (tỷ đồng)
Doanh thu thực hiện (tỷ đồng)
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%)
2003
5.978
6.011
100.600
2004
6.112
6.265
102.512
2005
6.320
6.874
108.766
2006
6.954
7.137
102,632
2007
7,240
8,612
118.950
(Nguồn: Báo cáo hàng năm của Bảo Việt Hà Nội)
Nhìn vào bảng trên ta thấy doanh thu phí bảo hiểm của cả phòng đều tăng qua các năm và từ năm 2003 đến năm 2007, năm nào văn phòng đều vượt kế hoạch mà Bảo Việt Hà Nội giao cho. Và nhìn chung, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch của phòng bảo hiểm Cầu Giấy trong giai đoạn này đều tăng qua các năm. Năm 2007 là năm có tỷ lệ hoàn thành cao nhất đạt 118.950%, tăng trưởng 23,84% so với năm 2006 tương ứng với 286 triệu đồng.
Với con số cụ thể và những hành động, phương châm phục vụ rõ ràng “Phục vụ tốt nhất để phát triển”, phòng bảo hiểm Cầu Giấy đã dần khẳng định được vị trí của mình đối với các văn phòng khác trên địa bàn Hà Nội, uy tín của phòng ngày càng tăng lên và được nhiều người biết đến. Riêng đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, trong thời gian vừa qua phòng cũng đã đạt được nhiều thành tích đáng khen ngợi. Phòng bảo hiểm Cầu Giấy triển khai các nghiệp vụ : bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm vật chất xe cơ giới; bảo hiểm tai nạn hành khách; bảo hiểm lái, phụ xe; bảo hiểm thiệt hại hàng hóa trên xe. Trong đó, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ khá quan trọng vì nó đóng góp một phần không nhỏ vào doanh thu chung của cả phòng. Qua các công tác cụ thể như: thủ tục, hồ sơ bồi thường được tiến hành giải quyết một cách đơn giản và nhanh chóng, thời gian giải quyết bồi thường ngày càng được rút ngắn, có nhiều trường hợp giải quyết ngay sau khi hồ sơ có đầy đủ giấy tờ và hợp lệ…Chính điều này đã tạo được lòng tin trong nhân dân, tạo động lực khuyến khích họ tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới, góp phần tăng doanh thu phí và nâng cao được hình ảnh của văn phòng nói riêng và công ty Bảo Việt Hà Nội nói chung.
Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Công tác khai thác.
Khai thác là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ, đưa sản phẩm đến với khách hàng, là yếu tố quyết định phần lớn sự thành bại của nghiệp vụ vì không có khách hàng thì không có các khâu tiếp theo và chỉ có tiến hành khai thác tốt thi mới thực hiện được nguyên tắc “số đông bù số ít” - nguyên tắc hoạt động cơ bản trong kinh doanh bảo hiểm, đồng thời nó là nhân tố quyết định đến lợi nhuận của Công ty. Một thực tế hiện nay ở nước ta đó là : sự hiểu biết của người dân về bảo hiểm còn hạn chế vì đây là một ngành kinh doanh còn khá mới mẻ, phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường khá cao. Mặt khác, sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một loại hình sản phẩm tự nguyện nên việc làm cho các chủ xe hiểu và tham gia bảo hiểm là điều có ý nghĩa và cũng hết sức khó khăn đối với công ty bảo hiểm. Vì vậy cần phải có những biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này - một lĩnh vực bảo hiểm đang có tiềm năng rất lớn ở nước ta. Cũng như các công ty bảo hiểm khác, một mặt đảm bảo hoạt động theo nguyên tắc đã đề ra, mặt khác Bảo Việt Hà Nội rất chú trọng đến các chính sách khai thác, không vì số lượng mà bỏ qua chất lượng của công tác này. Hiện nay, Bảo Việt Hà Nội đang áp dụng một số chính sách sau:
Chính sách khai thác thận trọng.
Đây là chính sách rất quan trọng trong việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới - nghiệp vụ rất dễ phát sinh hiện tượng trục lợi bảo hiểm từ phía khách hàng. Vì vậy, khi triển khai việc bán bảo hiểm cho các chủ xe, lái xe, việc đầu tiên mà các nhà bảo hiểm cần quan tâm đó là tìm các thông tin về chủ xe và phương tiện của chủ xe muốn được bảo hiểm. Khi khai thác viên tiếp cận được với các chủ xe có nhu cầu tham gia bảo hiểm cho chiếc xe của mình, công việc đầu tiên là khai thác viên là thu thập các thông tin liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm để đánh giá rủi ro mà chủ xe đem đến. Khai thác viên của Bảo Việt Hà Nội thường nắm bắt thông tin qua cách tiếp cận với chủ xe (lái xe) và kết hợp trực tiếp quán sát đánh giá các yếu tố sau:
+ Loại và mục đích sử dụng xe.
+ Tên và năm sản xuất.
+ Hồ sơ các vụ tai nạn đã gặp phải.
+ Bảo hiểm toàn bộ hay thân vỏ.
Do yêu cầu về mặt thời gian khi tiếp xúc với chủ xe, lái xe, những thông tin trên nhiều khi khai thác viên không nắm hết được. Lúc này khai thác viên nên sử dụng đến giấy yêu cầu bảo hiểm. Khai thác viên sẽ căn cứ vào những thông tin thu thập được ở trong đơn yêu cầu bảo hiểm để quyết định có chấp nhận rủi ro hay không chấp nhận ở mức nào. Công việc này đòi hỏi khai thác viên phải có những kiến thức tổng hợp về nghiệp vụ nói chung và lĩnh vực xe cơ giới nói riêng. Có như vậy họ mới có thể nhận thức được các loại rủi ro và kiểm soát chúng. Việc chấp nhận rủi ro ở mức độ nào kết hợp với các điều khoản mở rộng đặc biệt sẽ phục vụ đắc lực cho công việc xác định điều kiện và phạm vi bảo hiểm.
Chính sách tăng cường chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm đối với loại hình bảo hiểm vật chất ce cơ giới là một khái niệm trừu tượng, có thể hiểu là sản phẩm bảo hiểm này khi đã được bán cho khách hàng thì người bảo hiểm phải quan tâm, chăm sóc khách hàng sau khi bán cũng như trước khi bán, có như vậy mới tạo được lòng tin của họ, đảm bảo uy tín của công ty.
Chính sách duy trì khách hàng.
Duy trì và giữ khách hàng, mục đích là để khách hàng tái tục hợp đồng bảo hiểm đã ký kết, đồng thời là một trong những cách truyền bá tốt nhất về sản phẩm của Công ty, giảm được chi phí quảng cáo, tìm kiếm khách hàng. Có như vậy khách hàng cũng sẽ không ngần ngại khi phải bỏ ra một khoản phí lớn khi cán bộ khai thác có những thái độ quan tâm, chăm sóc khách hàng…Có thể nói chính sách này luôn được các khai thác viên của các công ty Bảo hiểm áp dụng một cách triêt để, qua đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Chính sách thiết lập các mối quan hệ với các cơ quan hữu trách.
Để đề phòng hạn chế rủi ro, tổn thất, giảm thiểu rủi ro và chống gian lận trong các hồ sơ của khách hàng, công ty bảo hiểm phải có một mối quan hệ mật thiết với các cơ quan hữu trách như : cảnh sát giao thông, các giám định bồi thường là cơ quan chuyên trách…
Bảo hiểm xe cơ giới được chia thành hai mảng đó là bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe đối với người thứ 3 và bảo hiểm vật chất xe. Hiện nay, Bộ Tài Chính đã quy định bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe là một loại hình bảo hiểm bắt buộc, còn loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tự nguyện và hoàn toàn phụ thuộc vào phía khách hàng.
Đối với mô tô do giá trị của xe không lớn cộng với thu nhập của chủ xe không lớn nên rất ít người tham gia bảo hiểm vật chất xe. Còn đối với ô tô, phí tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe chỉ vào khoảng 200.000 – 800.000 đồng/xe, trong khi đó phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe khoảng 2 triệu đến 6 triệu đồng/xe, tùy thuộc vào số tiền bảo hiểm. Giá trị của xe càng lớn thì STBH càng cao. Đây là những khoản tiền tương đối lớn mà các chủ xe và lái xe thường không muốn bỏ ra, điều này đã gây rất nhiều khó khăn trong công tác khai thác nghiệp vụ. Bên cạnh đó, công ty Bảo Việt Hà Nội đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của nhiều công ty bảo hiểm khác đóng tại địa bàn Hà Nội như : PTI, PJICO, PVIC, Bảo Minh…làm cho doanh thu của công ty từ nghiệp vụ này bị chia sẻ bớt với các công ty trên. Trước tình hình đó, Bảo Việt Hà Nội nói chung và phòng bảo hiểm Cầu Giấy nói riêng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực để khắc phục mọi khó khăn đặc biệt trong khâu khai thác. Chính vì vậy mà doanh thu phí nghiệp vụ không ngừng tăng lên qua các năm và liên tục chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí của phòng.
Bảng 7: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới của phòng bảo hiểm Cầu Giấy giai đoạn 2003 – 2007
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1. Số xe ô tô lưu hành(Chiếc)
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
1.635.747
__
1.674.662
2.38
1.741.648
4,00%
1.863.564
7,00%
2.049.920
10%
2. Số xe cơ giới tham gia bảo hiểm vật chất xe tại phòng (chiếc)
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
226
__
255
23.00
233
-16.19
431
84.98
435
0.93
3. Tỷ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm tại phòng (%)
0.014
0.015
0.013
0.023
0.021
4. Doanh thu phí nghiệp vụ(trđ).
Tốc độ tăng liên hoàn (%)
967.6
__
1185
22.47
1224
3.29
1903
55.47
1954
2.68
5. Doanh thu phí bình quân 1 xe (trđ/chiếc)
4.28
4.26
5.25
4.42
4.49
(Nguồn : Phòng bảo hiểm Cầu Giấy)
Qua bảng 3 ta thấy số xe cơ giới lưu hành trên địa bàn thành phố Hà Nội liên tục tăng từ năm 2003 đến năm 2007. Nếu như năm 2003 mới chỉ 1.635.747 chiếc xe cơ giới lưu hành thì đến năm 2004 đã tăng lên 2,38 % thành 1.674.662 chiếc. Năm 2006, số lượng xe cơ giới lưu hành là 1.863.564 chiếc tăng 7 % so với năm 2005 tương ứng với 121.916 chiếc và năm 2007 là năm có tốc độ tăng cao nhất về số lượng xe cơ giới tham gia giao thông trến địa bàn Hà Nội, đó là 10% (186.356 chiếc). Như vậy từ năm 2003 đến năm 2007, số xe cơ giới lưu hành trên địa bàn Hà Nội tăng 1,25 lần. Có thể thấy nền kinh tế nước ta đang đi vào ổn định và trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng năm 2007 là 8,44 % vượt mức kế hoạch đặt ra ( từ 7,5 – 8%). Mặt khác, Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường đầu tư an toàn vào loại bậc nhất thế giới, tạo điều kiện thu hút sự quan tâm, giúp đỡ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hà Nội, trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cả nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng của thủ đô năm 2007 là 12,7%. Mặc dù chỉ chiếm 3,9% về dân số và khoảng 0,3% diện tích lãnh thổ, song Hà Nội đã đóng góp 8,4% vào GDP cả nước, 8,3% giá trị kim ngạch xuất khẩu, 8,2% giá trị sản xuất công nghiệp, 9,6% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, 10,2% vốn đầu tư xã hội, 14,1% vốn đầu tư nước ngoài đăng ký và 14,9% thu ngân sách nhà nước. Diện mạo của Hà Nội đang thay đổi. Các công trình xây dựng làm Hà Nội trở nên khang trang hơn. Đầu tư tăng cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, mở rộng các tuyến đường, nút giao thông quan trọng. Chính vì vậy mà số lượng xe cơ giới trên địa bàn thành phố ngày càng tăng và khả năng sẽ còn tăng nhanh trong những năm tớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11365.doc