Lao động là nguồn nhân lực quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và của trang trại nói riêng, đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Các chủ trang trại thường chọn những người có sức khoẻ, chịu khó, không có thói xấu, có kinh nghiệm và kiến thức thực tế. Nếu biết quản lý và sử dụng tốt, biết quan tâm thoả đáng đến lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động thì nó sẽ là nhân tố quan trọng làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho chủ trang trại.
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1718 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Phương hướng sản xuất kinh doanh của trang trại
Với mục đích tìm ra mô hình sản xuất có hiệu quả nhất, phù hợp nhất với tình hình kinh tế của huyện, tôi tập trung nghiên cứu phân tích đánh giá theo hình thức phân loại này.
BẢNG 2.6: Phương hướng sản xuất kinh doanh của các MH KTTT
Mô hình
Số lượng
Cơ cấu (%)
1. MH1
5
33,34
2. MH2
6
40
3. MH3
2
13,33
4. MH4
2
13,33
Tổng số
15
100
Qua bảng 2.6, số lượng trang trại mô hình 2 lớn nhất với 6 trang trại chiếm 40% tổng số trang trại điều tra. Các trang trại này chủ yếu là chăn nuôi lợn, ngoài ra còn chăn nuôi gia cầm, mô hình này cần có nguồn vốn đầu tư lớn và có kỹ thuật tốt.
Mô hình 1, với 5 trang trại chiếm 33,34% tổng số trang trại điều tra. Số trang trại chủ yếu trồng các loại cây có giá trị cao như: vải, nhãn, xoài…
Mô hình 3, là mô hình trang trại nuôi trồng thuỷ sản, với số trang trại điều tra là 2 trang trại, ở trang trại này chủ yếu là chăn thả cá trắm, trôi, mè…
Mô hình 4 là mô hình trang trại tổng hợp với số lượng là 2 trang trại, mô hình này phát triển sản xuất đa dạng vừa kết hợp chăn nuôi, trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản.
Tóm lại, các trang trại ở huyện Phù ninh đã phát triển nhanh, phản ánh đúng tình hình phát triển sản xuất của huyện, chuyển nền sản xuất tự túc tự cấp sang phát triển sản xuất hàng hóa, phù hợp với yêu cầu của thị trường.
- Lao động
Lao động là nguồn nhân lực quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và của trang trại nói riêng, đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Các chủ trang trại thường chọn những người có sức khoẻ, chịu khó, không có thói xấu, có kinh nghiệm và kiến thức thực tế. Nếu biết quản lý và sử dụng tốt, biết quan tâm thoả đáng đến lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động thì nó sẽ là nhân tố quan trọng làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho chủ trang trại.
Qua bảng 2.7, ta thấy số lao động làm việc trong các trang trại là khá cao, bình quân là 4,47 lao động / trang trại. Do yêu cầu của sản xuất nông nghiệp đồng thời việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế, lao động đa số phải làm việc trực tiếp bằng những công cụ thô sơ như cuốc, xẻng, liềm… trong các việc như: dãy cỏ, phun thuốc, thu hoạch… Bình quân các trang trại có 4,91 người / hộ, cao hơn mức bình quân chung của toàn huyện là 4,19 người / hộ (2006).
Qua bảng 2.7, số lao động cao nhất thuộc về MH4 với 5,25 lao động / trang trại, trong đó lao động gia đình là 2 lao động, lao động thuê thường xuyên là 3 lao động và 0,25 lao động thuê thời vụ (quy đổi). Bởi đây là trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp với khối lượng công việc, diện tích khá lớn đòi hỏi cần nhiều nhân công, mà đặc biệt đến mùa thu hoạch là rất lớn. Công việc ở đây khá vất vả với nhiều loại cây trồng vật nuôi… Tiền công đối với người lao động thường xuyên được chủ trang trại trả với 2 mức đó là 350.000đồng / tháng (nuôi ăn) và 650.000đồng / tháng (không ăn). Công việc mà các lao động thuê thời vụ thường làm là khi chủ trang trang trại thu hoạch hoa quả, hái chè, phát cây… và tiền công được trả bình quân là 30.000đồng / ngày công.
Mô hình 3 có tổng số lao động tham gia sản xuất là 4,2 lao động / trang trại, ở loại hình này, lao động chủ yếu là lao động gia đình đảm nhiệm, tính bình quân là 3 lao động / trang trại, lao động thuê thường xuyên với 1lao động, thuê thời vụ (quy đổi) là 2 lao động. Mô hình này là chuyên về thuỷ sản là thả cá nên chăm sóc không cần nhiều người, chỉ bận rộn nhất là khi thả và thu hoạch nên mới cần thuê. Đối với lao động thường xuyên được trả bình quân là 630.000đồng / tháng.
Mô hình 2 với tổng lao động tham gia sản xuất là 4,57 lao động / trang trại, trong đó lao động gia đình là 2,33 lao động, lao động thuê thường xuyên là 2,17 lao động và lao động thời vụ (quy đổi) với số lượng ít nhất là 0,067 lao động. Với mô hình chăn nuôi, khi thu hoạch thì cũng không quá bận rộn nên tỷ lệ thuê lao động ngoài là không cao. Đối với lao động thuê thường xuyên thì trang trại thuê 1 người đã học qua trung cấp chăn nuôi để đảm bảo chăm sóc, vì đây là những người có kiến thức, chuyên môn. Tiền công chủ trang trại trả là 650.000đồng / tháng / lao động.
Mô hình 1 có tổng số lao động là 4,14 lao động / trang trại. Trong đó, lao động gia đình với 1,8 lao động / trang trại, lao động thuê là 2,34 lao động / trang trại, số lượng lao động thuê thời vụ (quy đổi) là cao nhất với 0,34 lao động / trang trại, lao động thuê thường xuyên với 2 lao động. Mô hình này vào thời gian thu hoạch là lúc cần đến nhiều lao động nhất vì sản xuất cây ăn quả cần thu hoạch nhanh, đúng vụ để tránh ảnh hưởng đến chất lượng và phẩm cấp của sản phẩm.
Các trang trại khi có khối lượng công việc lớn, lao động gia đình không đảm đương hết nhiệm vụ thì các chủ trang trại đều phải thuê mướn thêm lao động vào lúc đó và luôn có lao động thường xuyên từ 1 - 5 lao động. Mặc dù là một chỉ tiêu đánh giá trực tiếp công việc của trang trại, nhưng qua điều tra được các chủ trang trại cho biết vấn đề lao động không phải là vấn đề cấp thiết của họ, một mặt do quy mô sản xuất chưa đủ lớn mặt khác do lao động nông thôn hiện nay đang dư thừa cho nên việc thuê thêm lao động đối với các chủ trang trại không phải là điều khó khăn.
- Đất đai
Nguồn diện tích đất được sử dụng là một tư liệu đặc biệt và là yếu tố hàng đầu đối với nhu cầu của một tran trại, sự hình thành và phát triển của KTTT đồng nghĩa với quá trình tích tụ và tập trung đất đai. Tuy nhiên, quy mô đất đai lại tuỳ thuộc vào từng loại hình trang trại mà có diện tích đất và sử dụng đất khác nhau.
Qua bảng 2.8, đối với mô hình 1 có diện tích trung bình là 4,75ha / trang trại thì đây là trang trại trồng cây ăn quả là chính như vải, xoài, hồng, bưởi… vì vậy nên diện tích dùng cho cây lâu năm chiếm lớn nhất là 4,56ha (chiếm 98,28%), còn lại 0,08 ha (chiếm 1,72%) dùng chủ yếu để trồng các loại cây ngắn ngày như đu đủ, chuối…
Mô hình 2 là loại hình có ngành sản xuất chính là chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi lợn, bên cạnh đó còn chăn nuôi gà, vịt,ngan. Mô hình này có quy mô diện tích đất nhỏ nhất trong các mô hình trang trại ở Phù ninh. Với mô hình này không cần diện tích quá lớn, tính bình quân thì diện tích của loại hình này là 0,73 ha / trang trại. Trong đó, dùng cho chăn nuôi là 0,62ha / trang trại, ngoài ra 0,04ha trồng rau và một số hoa màu khác, còn lại 0,06ha trồng cây lâu năm.
Mô hình 3 là mô hình chuyên về nuôi trồng thuỷ sản, quy mô diện tích trung bình là 3,602ha / trang trại, trong đó diện tich dùng cho nuôi trồng thuỷ sản chiếm 3,48ha / trang trại còn lại là diện tích đất trồng cây hàng năm và cây lâu năm là 0,11ha (chiếm 3,05%).
Mô hình 4 là mô hình trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp bao gồm chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và cây ăn quả. Với tổng diện tích bình quân là 4,77ha / trang trại thì đây là mô hình có diện tích bình quân lớn nhất trong các mô hình trang trại mà tôi nghiên cứu trên địa bàn. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp chiếm 3,9ha / trang trại (chiếm 81,76% tổng diện tích), diện tích chăn nuôi là 0,24ha / trang trại (chiếm 5,03%), mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 0,62ha / trang trại (chiếm 13%) còn lại là diện tích đất khác. Mô hình này sử dụng một cách linh hoạt các sản phẩm của nhau, như sử dụng thức ăn xanh cho gia súc, mặt khác sử dụng phân của gia súc cho cá và bón cho cây trồng.
Chủ trang trại được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, ngoài ra phần còn lại là do đấu thầu và chuyển quyền sử dụng đất, đối với mô hình chăn nuôi thì diện tích được giao chiếm tới 93,15% tổng diện tích đất, còn đất chuyển nhượng chiếm phần rất nhỏ.
Quy mô đất đai của các trang trại trong huyện là tương đối ổn định, diện tích của các trang trại là rất cao so với diện tích của một hộ thông thường, đây là điều kiện thuận lợi cho các trang trại mở rộng kinh doanh, mạnh dạn đầu tư vốn, lao động và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và kinh doanh. Mặc dù vậy, các trang trại còn chưa yên tâm về chính sách đất đai, đến nay trong tổng số trang trại được điều tra chỉ có 6 trang trại được cấp giấy chứng nhận trang trại, vì vậy mà các trang trại còn lại có phần chưa yên tâm khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Vốn
Để khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai và lao động, các chủ trang trại cần có vốn, vốn là yếu tố quan trọng nhưng lại bị hạn chế đối với hộ nông dân và các chủ trang trại.
Qua bảng 2.9, tổng số vốn các trang trại đầu tư cho sản xuất là tương đối cao. Mô hình 1 có tổng số vốn bình quân là 98,08 triệu đồng / trang trại. Trong đó, vốn của chủ trang trại là 64,5 triệu đồng (chiếm 65,76%tổng số vốn), vốn vay bình quân là 33,58triệu đồng (bằng 34,24%). Vốn vay ngân hàng bình quân là 20triệu đồng / trang trại (bằng 59,56% vốn vay), vay dự án bình quân là 5triệu đồng / trang trại (bằng 14,89% vốn vay), còn lại là vốn vay khác bình quân là 8,58triệu đồng / trang trại (bằng 15,55% vốn vay).
Mô hình 2 với lượng vốn đầu tư lớn nhất trong các mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện, với lượng vốn bình quân là 594,68triệu đồng / trang trại. Trong đó vốn của chủ trang trại là 318,27triệu đồng (chiếm 53,52% tổng số vốn), còn lại là vốn vay. Vay ngân hàng là lớn nhất với 193,01triệu đồng (chiếm 69,83% tổng vốn vay), dự án phát triển chăn nuôi lơn xuất khẩu hỗ trợ bình quân trung bình mỗi hộ 30triệu đồng còn lại là vay mượn của bạn bè… Với sản xuất là chăn nuôi lợn là chính nên các trang trại này đầu tư vốn rất lớn về giống, kỹ thuật, tổng số vốn / lao động là 130,12 triệu đồng / lao động, và 814,63triệu đồng / ha canh tác, mô hình 2 có tổng số vốn đầu tư cao nhất trong tất cả các mô hình nghiên cứu.
Mô hình 3 là mô hình nuôi trồng thuỷ sản với lượng vốn đầu tư bình quân là 89,32triệu đồng / trang trại, mô hình này có tổng số vốn đầu tư thấp nhất trong các mô hình KTTT nghiên cứu. Trong đó, vốn của chủ trang trại là 52,4 triệu đồng (chiếm 58,67% tổng số vốn), còn lại là vốn vay. Trong số vốn vay, vay ngân hàng là 20triệu đồng (chiếm 54,17% tổng số vốn vay), còn lại là vay ngoài.
Mô hình 4 có tổng vốn đầu tư là 403,16triệu đồng / trang trại, đây là mức đầu tư khá cao chỉ đứng sau mức đầu tư vào mô hình 2. Trong đó, vốn của chủ trang trại là 231,05triệu đồng (chiếm 57,31% tổng số vốn), còn lại là vốn đi vay, trong vốn vay, vay ngân hàng là 107,86triệu đồng (chiếm 62,67% vốn vay), vay dự án là 15triệu đồng (chiếm 8,71% vốn vay), vay khác là 49,25triệu đồng.
Các trang trại trên địa bàn huyện nhà được các chủ trang trại đầu tư cho sản xuất khá cao, cao hơn rất nhiều so với khả năng thực có của họ. Trong đó, vốn của chủ trang trại thường chiếm tỷ trọng quá bán so với tổng số. Họ đã mạnh dạn vay vốn đầu tư thể hiện sự tin tưởng lớn vào mô hình kinh tế trang trại, cái sẽ đem lại cho họ lợi nhuận lớn hơn nhiều so với kinh tế hộ nông dân.
- Trình độ quản lý
Trình độ quản lý là yếu tố rất quan trọng trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh của trang trại. Người chủ quản lý có kiến thức, có trình độ, kinh nghiệm, nhạy bén với thị trường, am hiểu khoa học kỹ thuật…là yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của trang trại.
Bảng 2.10: Trình độ quản lý của các chủ trang trại
Chỉ tiêu
Số lượng
Cơ cấu(%)
Tiểu học - THCS
6
40
THPT
5
33,33
Sơ cấp, trung cấp
3
20
Cao đẳng, ĐH
1
6,67
Tổng số
15
100
Qua bảng 2.10: Nhóm 1 chiếm một tỷ lệ rất lớn là 40% trong tổng số điều tra. Đây là một tỷ lệ cao, đa phần là ít hiểu biết về khoa học kỹ thuật, thị trường , họ chỉ có kinh nghiệm từ thực tế mà họ đã từng làm.
Đối với nhóm thứ 2 là THPT với 5 người (3,33%) đứng thứ 2 trong nhóm điều tra. Đối với nhóm này, trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật cao hơn nhóm trước nhưng đối với trình độ sản xuất đòi hỏi thì vẫn là còn thấp.
Còn hai nhóm còn lại, chiếm tỷ lệ 26,67% đó là những chủ trang trại có trình độ học vấn, hiểu biết khoa học kỹ thuật, có trình độ quản lý. Đó là các thành phần tham gia công tác trong bộ máy chính quyền hay thuộc thành phần lao động phi nông nghiệp có trình độ quản lý về mặt nhân sự, đầu tư, am hiểu thị trường nhưng họ lại thiếu về kỹ thuật chăm bón, thu hoạch, thực tiễn kinh nghiệm sản xuất kinh doanh.
Qua phân tích bảng 2.10 ta nhận thấy trình độ quản lý của các chủ trang trang trại trên địa bàn huyện còn yếu về trình độ, về hiểu biết thông tin thị trường, đầu tư… nên cần có sự thường xuyên trao đổi kiến thức về kỹ thuật sản xuất, về thị trường, chính sách… giữa các chủ trang trại và chính quyền địa phương để cho các trang trại từng bước nâng cao được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
- Độ tuổi chủ hộ
Chủ hộ có vai trò quan trọng, quyết đình với toàn gia đình. Đối với kinh tế trang trại thì chủ trang trại không những mang lại kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà còn cần có trình độ quản lý, kỹ thuật nhất định.
Chủ trang trại thường là người năng động, nhiệt tình và có ham muốn làm giàu, là những người có trình độ, kỹ thuật quản lý, có sức khoẻ và khả năng trong sản xuất…
Qua bảng 2.11, ta thấy chủ trang trại có độ tuổi dưới 35 với 3 người chiếm 20% trong tổng số trang trại được điều tra. Những chủ trang trại này là những người có khát vọng làm giàu, năng động… Tuy nhiên, họ chưa đúc rút những kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh vì tuổi đời cũng như tuổi nghề đang còn rất trẻ. Với những chủ trang trại này cần có sự giúp đỡ để họ phát triển những điểm mạnh, khắc phục điểm yếu.
Bảng 2.11: Độ tuổi của chủ trang trại
Diễn giải
Số lượng
Cơ cấu(%)
Dưới 35 tuổi
3
20
36 - 45 tuổi
5
33,33
46 -55 tuổi
6
40
Trên 55 tuổi
1
6,67
Tổng số
15
100
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra)
Với 5 chủ trang trại có độ tuổi 35 - 45 chiếm 33,33% tổng số chủ trang trại được điều tra. Đây là độ tuổi có khát vọng làm giàu, có kinh nghiệm sản xuất, nhạy bén với thị trường, họ hòan toàn có khả năng phát triển trang trại theo định hướng của họ.
Độ tuổi chiếm lớn nhất là từ 46 -55 với 6 người (chiếm 40%) đây là độ tuổi đỉnh cao nhất và thành công nhất trong đời người. Họ có kinh nghiệm, kỹ thuật, hiểu biết nhưng ở họ đã thiếu đi tính linh hoạt, táo bạo trong kinh doanh. Họ là những người trung hoà, ít dám chấp nhận rủi ro, ít chấp nhận cái mới.
Chiếm phần còn lại đó là một chủ trang trại có độ tuổi trên 55, chủ trang trại chỉ đứng tên còn công việc sản xuất kinh doanh đã được chuyển cho con cháu.
Như vậy, ta thấy số lượng chủ trang trại còn trẻ tuổi chiếm số lượng không lớn, vì vậy cần có biện pháp khuyến khích những người trẻ tuổi lập nghiệp vào quá trình phát triển kinh tế trang trại trên quê hương để tận dụng được thế mạnh của họ, đồng thời cần tăng cường và bổ sung kiến thức cũng như kinh nghiệm cho chủ trang trại trẻ.
2.3.2. Đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các MH KTTT.
Trên cơ sở đất đai được giao, hoặc nhận thầu, kết hợp với nguồn vốn và sức lao động, các chủ trang trại đã lựa chọn hướng sản xuất kinh doanh kết hợp chuyên môn hoá, phát triển tổng hợp theo phương châm lấy ngắn nuôi dài, khai thác tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, kinh tế trang trại ở huyện Phù ninh có bước phát triển đáng kể, phần lớn các trang trại này đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, nhưng với sự nhạy bén, tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất và nhiều loại hình sản xuất phù hợp nên các trang trại đã thu được kết quả khá tốt.
* Tổng giá trị sản xuất (GO)
Là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mà các trang trại thu được trong một năm. Đây là chỉ tiêu trực tiếp quan trọng nhất, phản ánh quy mô sản xuất đồng thời phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
Qua bảng 2.12, tổng giá trị sản xuất (GTSX) lớn nhất thuộc về trang trại chăn nuôi với 725,5triệu đồng / trang trại. Chăn nuôi đóng góp 723,66triệu đồng (bằng 99,75% GO). Trong đó, chăn nuôi đại gia súc đóng góp 55,41triệu đồng, chăn nuôi gia súc lớn nhất với 651,4triệu đồng (bằng 90,01% giá trị chăn nuôi) chủ yếu là các trang trại chăn nuôi lợn xuất khẩu, gia cầm đóng góp 72,26triệu đồng (bằng 2,33% giá trị chăn nuôi). Trồng cây ăn quả góp 1,84triệu đồng (bằng 2,5% GO).
Mô hình 4 là mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp, với mô hình kinh tế này GO tính bình quân cho 1 trang trại đạt 435,4triệu đồng / trang trại, mô hình này là mô hình đứng thứ 2 về GO của mô hình kinh tế trang trại. Trong đó, chăn nuôi đạt giá trị là 376,25 triệu đồng / trang trại (bằng 86,41% GO), nuôi trồng thuỷ sản đạt 16,8triệu đồng / trang trại (bằng 3,86% GO), cây ăn quả đạt 42,35triệu đồng (bằng 9,73% GO). Trong giá trị chăn nuôi, chăn nuôi đại gia súc đạt 48,25triệu đồng (bằng 12,83% giá trị chăn nuôi), chăn nuôi gia súc đạt giá trị 298,07triệu đồng (bằng 7,95% giá trị chăn nuôi). Đây là mô hình sản xuất có độ rủi ro thấp, phát triển hài hòa, đa dạng sản phẩm tận dụng được các sản phẩm dư thừa làm thức ăn cho ngành khác, tiết kiệm được rất nhiều chi phí đầu vào cho trang trại.
Mô hình 3 là trang trại nuôi trồng thuỷ sản với GO tính bình quân cho 1 trang trại là 91,1triệu đồng. Trong đó, giá trị nuôi trồng thuỷ sản đem lại là 86,4triệu đồng / trang trại (bằng 94,84% GO), còn trồng cây ăn quả đạt 4,7triệu đồng / trang trại (bằng 5,16% GO). Đây là mô hình sử dụng vốn đầu tư không lớn nhưng đạt GO khá cao.
Mô hình 1 có GO tính bình quân cho 1 trang trại đạt 80,4triệu đồng, trang trại này chủ yếu là trồng cây ăn quả lâu năm như vải Lục Ngạn, vải Thanh Hà, vải Hùng Long, nhãn Hương Chi, xoài Vân Du, hồng không hạt Gia Thanh. Đây là những cây ăn quả cho giá trị kinh tế cao, là những đặc sản của địa phương. Một số chỉ tiêu bình quân đạt được, GO / lao động là 19,42triệu đồng, GO / ha canh tác là 16,93triệu đồng, GO / vốn sản xuất là 0,82 lần. Mô hình cây ăn quả là mô hình có giá trị sản xuất thấp nhất trong các mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện nhà, đầu tư chưa đạt hiệu quả cao.
Tóm lại chúng ta thấy rằng các mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn huyện Phù ninh đều cho GO khá cao, trong đó mô hình chăn nuôi đạt giá trị cao nhất, trang trại trồng cây ăn quả bước đầu đạt giá trị khá, bởi các trang trại còn trong giai đoạn xây dựng cơ bản, cần phải đầu tư lớn.
* Giá trị sản phẩm hàng hóa của các trang trại
Sản xuất hàng hoá là đặc trưng của kinh tế trang trại. Từ hộ nông dân tự cung tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá, các hộ nông dân phải chuẩn bị về vốn mà chủ yếu là tích luỹ, tập trung đất đai, chuẩn bị kiến thức, tìm hiểu kinh nghiệm về sản xuất hàng hoá. Chỉ tiêu giá trị sản phẩm hàng hóa có ý nghĩa quan trọng được thể hiện qua biểu 14.
Bảng 2.13: Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hóa của mô hình KTTT
(Tính bình quân cho 1 trang trại)
Chỉ tiêu
MH
TT
GTSX
GTSPHH
Tỷ suất
hàng hoá (%)
SL
(triệu đồng)
SL
(triệu đồng)
MH1
80,4
72,26
89,87
MH2
725,5
672,42
92,68
MH3
91,1
82,6
90,67
MH4
435,4
368,46
84,63
Bình quân chung
387,2
353,196
91,22
(Nguồn: Tổng hợp điều tra)
Qua bảng 2.13 cho thấy tỷ suất hàng hoá của các trang trại trên địa bàn huyện nhà là khá cao, tỷ suất hàng hóa giao động từ 84,63% - 92,68%. Với mức sản lượng làm ra, các trang trại để lại một phần nhỏ trong tiêu dùng, một phần để tái sản xuất, còn lại trở thành hàng hoá và được bán trên thị trường. Trên biểu ta nhận thấy tỷ suất hàng hoá của MH2 là trang trại chăn nuôi đạt cao nhất với 92,68%, bình quân chung của các trang trại là 91,22%.
Nhìn chung, các trang trại trên địa bàn huyện Phù ninh đi vào sản xuất hàng hoá, thể hiện tính ưu việt của kinh tế hàng hoá so với kinh tế hộ nông dân.
* Tổng chi phí sản xuất (TC)
Chi phí sản xuất của trang trại bao gồm tất cả các khoản chi phục vụ cho sản xuất, bao gồm về vật chất: giống, thức ăn, phân bón, thuốc trừ sâu, lao động, dịch vụ… Tuy nhiên, tiền công lao động gia đình, tư liệu sản xuất tự tạo không được tính vào TC.
Các trang trại đã giảm được khá nhiều chi phí bằng việc tận dụng sản phẩm của ngành này phục vụ cho sản xuất ngành kia, như chăn nuôi lấy phân bón cho cây hoặc cho cá, sản phẩm thuỷ sản lại phục vụ cho chăn nuôi… Cho nên chi phí vật chất có tỷ lệ gần tương đương hơn so với chi phí lao động trong TC.
Qua bảng 2.14 cho thấy TC của các MH KTTT khá cao. Trong đó:
MH1 có TC: 57,73 triệu đồng / trang trại
MH2 có TC: 604,83triệu đồng / trang trại
MH3 có TC: 53,75triệu đồng / trang trại
MH4 có TC: 329,65triệu đồng / trang trại
Đối với MH1 có TC bình quân cho 1 trang trại là 57,73 triệu đồng. Trong đó, chi phí trung gian (IC) chiếm tới 34,41 triệu đồng (chiếm 59,61% TC), tiền công cho lao động với 18,54triệu đồng (chiếm 32,11% TC), chi phí tài chính 4,28triệu đồng (chiếm 0,87% TC). MH1 có TC không cao so với các MH KTTT khác trên địa bàn huyện nhà, MH này có IC chiếm lớn nhất trong TC của trang trại, chiếm tới 59,61% TC.
MH2 có TC cao nhất trong các MH KTTT với 604,83triệu đồng / trang trại. IC có giá trị cao nhất với 543,95triệu đồng (chiếm 89,93% TC). Trong đó, chi phí vật chất sử dụng lớn nhất với 521,11 triệu đồng (chiếm 95,8% IC), chi phí dịch vụ và chi phí khác chiếm không đáng kể.
MH2 trả công thuê lao động là 21,62triệu đồng (chiếm 3,57% TC), chi phí tài chính chiếm 24,26triệu đồng, khấu hao tài sản cố định(TSCĐ) là 15triệu đồng. Đây là mô hình chuyên chăn nuôi nên có lượng vốn đầu tư cao, sử dụng vốn vay ngân hàng và dự án lớn do vậy chi phí tài chính cao nhất trong cac MH KTTT.
MH3 có tổng chi phí 53,75triệu đồng / trang trại, trong đó IC là 37,59triệu đồng (chiếm 69,93% TC), chi phí lao động đi thuê là 9,24triệu đồng (chiếm 17,19% TC), chi phí tài chính là 3,42triệu đồng (chiếm 6,36% TC), khấu hao TSCĐ là 3,5triệu đồng (chiếm 6,52% TC). MH3 có TC thấp nhất trong các MH nghiên cứu trên địa bàn, trong đó IC chiếm lớn nhất sử dụng vào chi phí vật chất như giống và thức ăn.
MH4 có TC chỉ đứng sau MH2 với 329,65triệu đồng / trang trại. Trong đó, IC là 271,16triệu đồng (chiếm 82,26% TC), chi phí lao động đi thuê với 28,5triệu đồng (chiếm 8.65% TC), chi phí tài chính là 15,74triệu đồng (chiếm 4,77% TC), khấu hao TSCĐ là 14,25triệu đồng (chiếm 4,32% TC).
Như vậy, qua bảng 2.14 cho ta thấy TC tiến hành sản xuất kinh doanh của các trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh là khá cao. MH chăn nuôi cho thu hoạch từ 2 - 3 lứa / năm, còn trang trại nuôi trồng thuỷ sản và trồng cây ăn quả chỉ cho thu hoạch có 1 vụ / năm, do vậy lượng vốn đầu tư và chi phí sử dụng cho chăn nuôi phải rất lớn, đảm bảo cho sản xuất diễn ra liên tục.
* Kết quả đạt được của các MH KTTT
+ Giá trị gia tăng (VA)
Là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ do các ngành sản xuất tạo ra trong một chu kỳ sản xuất sau khi khấu trừ chi phí trung gian. Đây là một chỉ tiêu quan trọng trong nền kinh tế thị trường mà người sản xuất rất quan tâm bởi vì nó thể hiện kết quả của quá trình đầu tư.
Qua bảng 2.15, MH2 đạt được VA cao nhất trong các MH KTTT trên địa bàn huyện, đạt 181,55triệu đồng / trang trại, tiếp theo là MH4 đạt 164,24triệu đồng / trang trại, MH3 đạt 53,51triệu đồng / trang trại, đạt thấp nhất đó là MH1 với 45,99triệu đồng / trang trại.
Bảng 2.15: Kết quả đạt được của các trang trại ở huyện năm 2006
(Tính bình quân cho 1 trang trại)(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
MH1
MH2
MH3
MH4
TB
Tổng giá trị SX (GO)
80,4
725,5
91,1
435,4
387,2
Tổng chi phí sản xuất (TC)
57,73
604,83
53,75
329,65
312,29
Tổng chi phí trung gian (IC)
34,41
543,95
37,59
271,16
270,22
Giá trị gia tăng (VA)
45,99
181,55
53,51
164,24
116,98
Thu nhập (MI)
27,45
159,93
44,27
135,74
97,12
Lãi gộp (GPr)
23,17
135,67
40,85
120
83,44
Lợi nhuận ròng (NPr)
22,67
120,67
37,35
105,75
74,9
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra)
+ Thu nhập hỗn hợp (MI)
Qua bảng 2.15, thu nhập hỗn hợp của các MH KTTT trên địa bàn huyện đạt cao, MH2 đạt cao nhất với 159,93triệu đồng / trang trại, MH4 đạt 135,74triệu đồng / trang trại, MH3 đạt 44,27 triệu đồng / trang trại, thấp nhất là MH1 với 27,45triệu đồng.
+ Lợi nhuận ròng (NPr)
Đây là chỉ tiêu phản ánh thu nhập của chủ trang trại đạt được, chỉ tiêu mà người sản xuất rất quan tâm, nó thể hiện hiệu quả, kết quả sản xuất kinh doanh của trang trai.
Lợi nhuận ròng tính bình quân các trang trại đạt 74,9triệu đồng / trang trại. Trong đó MH1 đạt 22,67triệu đồng / trang trại đạt thấp nhất trong các MH, MH2 đạt 120,67triệu đồng / trang trại, đây là mô hình cho giá trị cao nhất, MH3 có NPr thu được 37,35triệu đồng / trang trại, MH4 đạt 105,75triệu đồng / trang trại.
Nhìn chung, các MH KTTT trên địa bàn huyện Phù ninh đạt kết quả cao trong sản xuất kinh doanh, thể hiện sự đầu tư lớn, dám nghĩ dám làm, từng bước nâng cao đời sống.
* Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường, tiêu thụ sản phẩm là một trong những giai đoạn tối quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại đã bước đầu hình thành mối quan hệ liên kết, liên doanh giữa các cơ sở trang trại với doanh nghiệp, cơ sở chế biến tiêu thụ sản phẩm. Một số trang trại đã ký được các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm ổn định, nhưng nhìn chung thì mối quan hệ tác động qua lại giữa kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác đối với các trang trại chưa nhiều, nhất là trong giao dịch cung ứng vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm.
Sơ đồ 1: Kênh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32111.doc