Phần 1: Lời mở đầu 1
Phần 2: Nội dung 3
Chương I: Những nét khái quát về xuất khẩu, thị trường thuỷ sản Mỹ, vị trí ngành thuỷ sản Việt Nam trong chiến lược hướng về xuất khẩu. 3
I – Những nét khái quát và vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế
Việt Nam 3
II – Hiệp định thương mại Việt Mỹ trong tiến trình nhập kinh tế quốc tế: 5
III - Thị trường thuỷ sản Mỹ, cơ hội và thách thức đối với ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ 6
1. Thị trường thuỷ sản Mỹ 6
2. Ngành thuỷ sản Việt Nam, cơ hội và thách thức 8
2.1. Chủ trương phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu 8
2.2. Khái quát ngành thuỷ sản Việt Nam 11
2.2.1. Sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản 11
2.2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 12
2.2.3. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 13
2.3. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
vào thị trường Mỹ 13
Chương II: Thực trạng xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ thời
gian qua 16
I - Đánh giá chung tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào một số
thị trường lớn 16
II – Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản củaViệt Nam vào Mỹ 17
1. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ 17
2. Về cơ cấu 18
30 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chỉ tiêu định hướng của ngành thuỷ sản đến năm 2010 được hoạch định như sau:
Không tăng sản lượng khai thác trong các thời kỳ 2003- 2010, giữ mức dao động xung quanh 1.400.000 tấn/ năm( ở đây chỉ tính riêng cho cá mực). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10%-15%.
Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng 10%-15%/ năm , trong giai đoạn 2000 – 2005 tăng khoảng 12%-15%, giai đoạn 2005-2010 tăng khoảng 10%-12%/năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0-3,5 tỷ USD( năm 2005) và 4,5 –5 tỷ USD năm 2010.
Thể hiện ở bảng 1:
Bảng 1
Năm
Đề mục
2003
2005
2010
I.Tổng sản lượng (tấn)
Trong đó:
Sản lượng nuôi ( tấn)
Thuỷ sản nước ngọt
Tôm
Cá biển
Nhuyễn thể
Thuỷ sản khác
sản lượng khai thác( tấn)
Khai thác gần bờ.
Khai thác xa bờ.
Bao gồm:
Sản lượng cá.
Sản lượng mực.
Sản lượng tôm
II. Kim ngạch xuất khẩu( nghìn USD)
2.490.000
1.090.000
568.720
213.270
53.057
175.355
79.598
1.400.000
700.000
700.000
1.230.000
120.000
50.000
2.300
2.550.000
1.150.000
600.000
225.000
56.000
185.000
84.000
1.400.000
700.000
700.000
1.230.000
120.000
50.000
3.000
3.400.000
2.000.000
870.000
420.000
200.000
380.000
130.000
1.400.000
700.000
700.000
1.230.000
120.000
50.000
4.500
Để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao cho các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển tăng khả năg phục hồi tự nhiên của các nguồn lợi biển nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển cao, phát triển ngành thuỷ sản hướng về xuất khẩu cần tiến hành các hoạt động sau:
- Đánh bắt thuỷ sản: để phát triển lâu dài và ổn định nguồn nguyên liệu đánh bắt, Việt nam cần tăng cường đầu tư vào điều tra có hệ thống các nguồn lợi thuỷ sản, xây dựng bản đồ phân bố biến động các đàn cá trên các ngư trùng, phát triển các đội tàu công suất lớn, trnag thiết bị và đào tạo kx thuật đánh bắt cá đại dương làm cơ sở cho đánh xa bờ, kỹ thuật bảo quản, mở rộng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho đánh bắt.
- Nuôi trồng thuỷ sản:phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản nước lợ với việc ưu tiên chiến lược cho nuôi phục vụ xuất khẩu, nhất là nuôi tôm, cá biển và nhuyễn thể. áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, tăng giá trị xuất khẩu. Cần chú ý xây ựng các trại giống thuỷ sản,nhà máy sản xuất thức ăn, cải tạo và hiện đại hoá các vùng nuôi trồng quảng canh và bán thâm canh, phát triển cacs vùng nuôi trồng công nghiệp, phát triển công nghệ và đa dạng hoá nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, nước mặn , nước lợ, phòng chống sẽ là những trọng điểm mà ngành thuỷ sản cần quan tâm trong vài năm tới.
- Chế biến thuỷ sản xuất khẩu: Đa dạng hoá các mặt hàng chế biến cho xuất khẩu, đồng thời phải đầu tư cho chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn quốc tế (HACCP). Việc xây dựng các nhà máy chế biến hiện đại phải theo kịp tốc độ phát triển sản lượng thuỷ sản nhằm nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu, phải giảm dần tỷ lệ xuất khẩu thuỷ sản thô tránh hiện tượng lãng phí nguồn lợi thuỷ sản do yếu kém trong khâu này.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu: Việt nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tranh thủ sự hợp tác giup đỡ về vốn, công nghệ, trong các lĩnh vực khai thác, chế biến thuỷ sản,đào tạo và chuyển giao kinh nghiệm quản lý và phát triển thị trường Công tác Marketing quốc tế cho lĩnh vực thuỷ sản luôn càn có sự tham gia tích cực của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ thương mại như tổ chức và tham gia các hội chợ thương mại về thuỷ sản tại Việt nam hay tại các thị trường tiềm năng (EU, Mỹ, Nhật bản, Trung Quốc) nhằm giới thiệu các sản phẩm thuỷ sản Việt nam.
- Các chính sách của Chính phủ: Chính phủ cần sớm hoàn thiện các luật và chính sách bảo vệ nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ môi trường và phát triển lĩnh vực thuỷ sản; các chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm xuất khẩu
Với lợi thế tự nhiên to lớn và sự quan tâm của chính phủ cùng sự năng động chung của toàn bộ nền kinh tế, ngành thuỷ sản Việt nam có đủ khả năng để đứng trong hàng ngũ 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới vào năm 2010
2.2. Khái quát ngành thuỷ sản Việt Nam:
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông, lạch và 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo vịnh đảm bảo cho nguồn tài nguyên thuỷ hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt Nam có khả năng tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi trường biển tương đối sạch. Do đó, hải sản Việt Nam được đánh giá là an toàn cho sức khoẻ – một ưu điểm hàng đầu trên thị trường thuỷ sản thế giới hiện nay.
Trong vùng biển đặc quyền kinh tế rộng lớn khoảng 1 triệu km, tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu, trong đó có nhiều loại hải sản quý có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá ngừ, sò huyết...
2.2.1. Sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản:
Tổng sản lượng thuỷ Việt Nam tăng 2,2 lần giai đoạn 1985 – 1999, trong đó hải sản đánh bắt tăng hơn 2 lần và thuỷ sản nuôi trồng tăng 2,6 lần. (Bảng 2)
Bảng 2: Sản lượng thuỷ sản Việt Nam
Đơn vị: 1000 tấn
1985
1990
1995
1999
Đánh bắt
580
710
930
1200
Nuôi trồng
230
310
415
610
Tổng sản lượng
810
1020
1345
1810
Nguồn: Bộ Thuỷ sản
Trong năm qua tổng thu nhập ngành thuỷ sản tăng với tốc độ trung bình 8%, giải quyết việc làm cho hơn 3,5 triệu lao động trong đó có 650 nghìn ngư dân.
Nếu như năm 1986 Việt Nam mới chỉ có 385 ngàn ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thì đến năm 1999 đã tăng lên 630 ngàn ha trong đó 340 ngàn ha mặt nước ngọt và 290 ngàn ha mặt nước lợ, mặn với nhiều loại thuỷ sản phong phú: tôm,cá, nhuyễn thể, cua, rong biển... và với nhiều hình thức nuôi đa dạng: nuôi ao, hồ, ruộng trũng, lồng trên sông, trong đầm nước lợ, rừng ngập mặn...Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển Nam Bộ (gần 80%).
Kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 1999 đạt 985 triệu đô la (chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam hay gần 2% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới) tăng gần 10 lần so với năm 1986.
Bảng 3: Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 1986 – 2000
1986
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch (tr. USD)
102
205
262
305
368
458
550
670
780
858
985
1000
Tốc độ tăng trưởng (%)
101
28
16
20
24
20
21
15
10
14
Nguồn: Bộ thuỷ sản.
Năm 1999, tổ chức lương thực thế giới đã xếp Việt Nam vào vị trí thứ 29 trên thế giới và thứ 4 trong các nước ASEAN về xuất khẩu thuỷ sản. Hiện nay, thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới 64 nước trên thế giới. Ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng và cạnh tranh mạnh mẽ với Thái Lan,Inđônêxia và Malayxia tại hầu hết các thị trường truyền thống của những nước này nhờ những ưu thế về sản phẩm sạch ít bị ô nhiễm, giá cả thấp...
2.2.2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu:
Nhật Bản – thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới – là thị trường số 1 của ngành thuỷ sản Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản trong 10 tháng đầu năm 2000 đã tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm 1999, đưa thị phần xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản chiếm 45% tổng kim ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trưòng châu A khác như Trung Quốc (Hồng Kông), Hàn Quốc, Đài Loan cũng tăng nhanh và chiếm gần 21% thị phần xuất khẩu. Thi trqờng xuất khẩu đứng thứ 3 là Mỹ tiếp tục Tăng trưởng nhanh chóng trong 3 năm qua và chiếm hơn 14% tổng kim ngạch vào năm 1999. Trong những tháng đầu năm 2000, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào EU đã giảm khoảng 8% giá trị so với cùng kỳ năm 1999 và chỉ chiếm gần 6% tổng kim ngạch. Tuy nhiên, với việc được công nhận trong danh sách một trong các nước xuất khẩu vào EU, buôn bán thuỷ sản Việt Nam sang thị trường này sẽ có những thuận lợi lớn trong thời gian tới.
Biểu 1: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm 2000
2.2.3. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu:
Mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là tôm các loại như: tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1999, Việt Nam xuất khẩu 80 ngìn tấn tôm các loại đạt 520 triệu đô la). Mực và cá chiếm 17% và 15,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Biểu 2: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 1999
Sự gia tăng mức sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua là nhờ sự năng động của khu vực tư nhân và những chính sách khuyến khích rất có hiệu quả của chính phủ Việt Nam.
2.3. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ:
Qua việc phân tích những đặc điểm thị trường Mỹ và ngành thuỷ sản Vịêt Nam cho ta thấy ngành XKTS Việt Nam sang Mỹ đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp XKTS Việt Nam phải hết sức cố gắng để phát huy lợi thế, vượt qua khó khăn cho một thời kỳ phát triển.
Thứ nhất, khi hiệp định thực thi có hiệu lực, Việt nam sẽ được hưởng ưu đãi thương mại, có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường. Chúng ta đều biết Mỹ là một thị trường hấp dẫn đối với nhiều quốc gia, thu hút sự qua tâm của nhiều nhà xuất khẩu. Trước thời điểm Hiệp định thương mại chưa được ký kết, doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá Việt nam xâm nhập thị trường Mỹ rất khó khăn, phải cạnh tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp của các nước khác cùng có mặt tại thị trường Mỹ, đặc biệt là hàng hoá Việt nam phải chịu mức thuế rất cao. Khi Hiệp định có hiệu lực, các trở ngại trên bị rỡ bỏ,các doanh nghiệp Việt nam được bình đẳng với các doanh nghiệp khác khi tiếp cận thị trường Mỹ bởi lẽ Việt nam có được đối xử Tối huệ quốc (được hưởng điều kiện thương mại bình thường) từ phía Mỹ trong đó quan trọng là các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được cắt giảm đáng kể .
Thứ hai, tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cao từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng xuất lao động hạ giá thành sản phẩm. Nhiều nước và trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật, Singapo, Thái Lansẽ tăng cường đầu tư vào Việt nam vì hàng hóa sản xuất tại Việt nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Bản thân các nhà đầu tư Mỹ cũng sẽ vào Việt nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường này sản xuất ra hàng hoá rồi xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ và các nước khác.
Thứ ba, tạo điều kiện tiền đề cho Việt nam trong quá trình hội nhập quốc tế và gia nhập WTO. Việc Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đặc biệt là hiệp định thương mại có những điểm khá tương đồng về mục tiêu, nguyên tắc và lộ trình. Đó là sự thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia với nguyên tắc: thương mại không phân biệt đối xử dưới hai hình thức đãi ngộ Tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, thương mại tự do hơn, tăng cường cạnh tranh bình đẳng, công bằng khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế .
Thứ tư, thúc đẩy quá trình đổi mới đất nước đặc biệt là đổi mới cơ chế và hành chính. Chính việc thực hiện các cam kết và mở cửa thị trường Việt nam theo lộ trình của Hiệp định đã ký sẽ là chất xúc tác thúc đẩy quá trình điều chỉnh, đổi mới cơ chế chính sách, luật pháp và thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước làm cho các hoạt động này trở nên năng động, mềm dẻo hơn thích ứng với thông lệ và tập quán quốc tế, cũng như các nguyên tắc, quy định của Mỹ.
Bên cạnh những cơ hội mà hiệp định thương mại Việt- Mỹ mở ra, nó còn đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Thứ nhất, việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi đặc biệt đối với các nước chậm phát triển nhưng Việt nam chưa được hưởng chế độ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhưng nếu được hưởng ưu đãi thì mức thuế này tiến tới 0%.
Thứ hai, tiêu chuẩn chất lượng các mặt hàng Việt nam xuất vào các nước công nghiệp phát triển đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO hoặc tiêu chuẩn tương đương của các nước Đức ,Nhật, Hoa Kỳ, đây là một khó khăn lớn đối với các mặt hàng thuỷ sản Việt nam không những thế hàng hoá Việt nam sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa cùng loại của các nước Châu á khác, đặc biệt là Indonesia và Canada, trong khi đó sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam về cả ba phương diện: chất lượng, giá cả và mẫu mã hầu như còn rất yếu.
Thứ ba, khi thực hiện NTR (quan hệ thương mại bình thường), các doanh nghiệp Mỹ sẽ thuận lợi hơn khi đầu tư vào Việt nam, được hưởng các ưu đãi về nhập khẩu những nguyên liệu để sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu. Khi đó các doanh nghiệp Mỹ và hàng hoá do Mỹ sản xuất ra sẽ có ưu thế hơn các doanh nghiệp Việt nam và hàng hoá do Việt nam sản xuất ra bởi Mỹ có vốn lớn, công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến...
Thứ tư, để doanh nghiệp và hàng hoá Việt nam vào được thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt nam phải làm quen với các tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Mỹ. Đây là một quốc gia có hệ thống pháp luật, chích sách thương mại khá rắc rối và phức tạp .
Bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 1994, với những cơ hội và thách thức như vậy, trải qua môt thời gian dài, ngành thuỷ sản Việt Nam thực tế đã đạt được những thành tựu nhất định và cũng gặp một số vướng mắc cần giải quyết. Ta hãy xem xét tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Mỹ thời gian qua để thấy rõ điều này.
Chương II
Thực trạng xuất khẩu của thủy sản Việt Nam
vào thị trường Mỹ thời gian qua
I - Đánh giá chung tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào một số thị trường lớn:
Ngành thuỷ sản Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển và phát triển mạnh từ năm 1995 trở lại đây. Sản lượng khai thác được ngày càng tăng, nhịp độ phát triển trung bình giai đoạn 1996 - 2000 là 12,3% với sự xuất hiện của nhiều nhà máy chế biến có năng lực đủ khả năng xuất khẩu sang các nước trên Thế giới. Đến nay, thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam có mặt trên 60 nước trên Thế giới. Trước đây thị trường Nhật Bản thường chiếm 50 - 60% xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, nay chỉ còn dưới 30% và Hoa kỳ vươn lên thay thế Nhật Bản, trở thành thị trường thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. Thị trường Trung Quốc nổi lên là thị trường thứ ba đầy hứa hẹn đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Năm 1999 thị trường Trung Quốc chiếm 12,4% xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, năm 2000 tăng lên 15% và 2001 đạt 18%). Thị trường EU là khu vực thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất Thế giới hiện nay, nhưng là thị trường khó tính nên mặc dù những nỗ lực xúc tiến xuất khẩu rất lớn từ cả phía Nhà Nước và Doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đến nay mới chỉ có 68 doanh nghiệp đủ điều kiện để xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
Trong số các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, Tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản hàng năm của Việt nam nhưng đang có xu hướng giảm và tăng các sản phẩm thuỷ sản khác lên.
Ngoài ra, Cá Tra, Cá BaSa.... của Việt Nam đã giành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu sang Mỹ. Đây là một lợi thế lớn.
Nhìn chung, thời gian qua xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất khả quan: Tăng trung bính 20% từ năm 1990 đến nay, là một trong số 20 nước đánh bắt thuỷ sản lớn nhất Thế giới và đứng thứ 25 trong hàng ngũ các nước xuất khẩu thuỷ sản trên Thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam còn bộc lộ một số tồn tại như: Thị trường xuất khẩu ( tiều tụy, tuy có khả năng nhưng không ổn định), mặt hàng chủ yếu ở dạng sơ chế, giá cả mạng lưới phân phối...
II – Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ:
1 - Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ:
Bắt đầu từ năm 1994, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, những lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam đẫ có mặt trên thị trường Mỹ với kim ngạch 6 triệu USD. Từ đó trở đi cho đến tháng 7/2000, mặc dù chưa ký kết được hiệp định Thương maị Việt - Mỹ, nhưng giá trị xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vẫn tăng đều đặn qua các năm và tăng đột biến vào những năm 1995, 2000. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu lên tới 80 triệu USD (tăng gấp 14 lần so với năm 1994) và đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong số các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập từ Việt Nam 130 triệu USD thuỷ sản các loại.
Sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường Mỹ rất mạnh. Năm 2000 giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ đạt 298,22 triệu USD (tăng gấp 2,32 lần năm 1999). Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vào Mỹ là 523,6 triệu USD (gấp 3,62 lần năm 1999 và tăng 35,66% so với năm 2000). Năm 2001 Mỹ đã vượt Nhật Bản và trở thành nước nhập khẩu hàng thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam. Cho đến năm 2002 xuất khẩu thuỷ sản của chúng ta đã trải qua một cuộc bứt phá ngoạn mục với kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản ra Thế giới là 2 tỷ USD trong đó xuất khẩu sang Mỹ là 631,2 triệu USD.
Tóm lại, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm từ trước Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến nay. Điều đó được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4:
Năm
Kim ngạch xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng
Kim ngạch XK
Tỷ lê (%)
1994
5,78
-
-
1995
19,498
13,71
237,2
1996
33,988
14,49
74,3
1997
39,83
5,85
17,2
1998
80,20
40,39
101,3
1999
129,50
49,30
61,5
2000
298,22
168,72
130,2
2001
523,6
225,58
75,6
2002
631,2
107,6
20,5
(Nguồn: Bộ thuỷ sản)
2 - Về cơ cấu:
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhiều loại thuỷ sản khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú về mặt hàng thủy sản ở Mỹ. Trong đó Tôm vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất. Theo số liệu thông báo của Hải quan Mỹ thì năm 2001 Việt Nam chỉ đứng thứ nhì sau Thái Lan với khối lượng trên 32.000 tấn và đạt giá trị là 417,8 triệu USD. Kế đến là mặt hàng cá BaSa, cá Tra, đứng thứ ba là cá Ngừ và thứ tư là các "sản phẩm khác",bao gồm cá PhiLê đông, Cua tươi, Cá biển đông, cá nước ngọt...Cơ cấu giá trị xuất khẩu bốn loại thuỷ sản trên đây của Việt Nam vào Mỹ năm 2001 tương ứng như sau:
Tôm: 79,8%;
Cá Tra, cá Ba Sa: 4,5%;
Cá Ngừ: 4,1%;
Các sản phẩm khác: 11,6%;
Theo thống kê của Mỹ, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đa dạng về chủng loại, có tới 135 loại sản phẩm khác nhau và những mặt hàng trên là những thế mạnh của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ.
Mặt hàng Tôm của Việt Nam đang xuất khấu vào Mỹ vừa có khối lượng lớn vừa có giá trị cao, nó có ưu thế so với một số nước về kích cỡ sản phẩm, có uy tín về chất lượng đối với người tiêu dùng. Hiện nay, nhu cầu xuất khẩu Tôm vào Mỹ còn rất lớn, nước ta có thể tăng xuất khẩu vào Mỹ bằng cách: Các cơ sở chế biến trong nước không ngừng nâng cao năng lực chế biến phục vụ xuất khẩu. Chuyển dịch khối lượng đang xuất khẩu vào những thị trường có giá trị xuất khẩu bình quân thấp hơn sang thị trường Mỹ, nơi có giá trị xuất khẩu cao hơn.
Cá Tra và cá ba sa đã dành được thị phần không nhỏ trong tổng khối lượng xuất khẩu loại cá này vào Mỹ. cùng với chất lượng cá chắc chắn lượng cá Tra, cá Ba Sa của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
Việt Nam có vùng đồng bằng Sông Cửu Long có điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho sự phát triển của cá Ba Sa. Theo Bộ thủy sản, mặc dù xảy ra tranh chấp thương hiệu cá Ba sa giữa Mỹ và Việt Nam nhưng năm 2001 sản lượng cá xuất khẩu vào Mỹ vẫn tăng gấp đôi so với năm 2000, từ 14.000 tấn (trị giá 42 triệu USD) lên 31.000 tấn (trị giá 78 triệu USD). Đây là một con số rất đáng mừng của của xuất khẩu cá Ba sa trên thị trường Thế giới của nước ta. Tuy nhiên ta cũng nhận thấy một thực trạng là cơ cấu hàng thủy sản Vịêt Nam xuất khẩu vào Mỹ đang vẫn tồn tại tình trạng mất cân đối. Mỹ là thị trường có nhu cầu lớn các mặt hàng cao cấp tinh tế (Tôm luộc, Tôm bao bột, Tôm Hùm, cá Phi Lê đóng hộp...), trong khi hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng sơ chế tỷ lệ giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm 30% giá trị xuất khẩu của Việt Nam).
Ngay cả Tôm là mặt hàng quan trong nhất thì vẫn có đến 80% xuất khẩu dưới dạng sơ chế. Bên cạnh đó, thủy sản mà Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là thủy sản thực phẩm, còn các loại thủy sản phi thực phẩm như: Thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá... còn rất ít trong khi nhu cầu những sản phẩm này trên thị trường Mỹ là rất lớn.
3 - Về chất lượng và giá cả:
Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các sản phẩm thủy sản của ta là có chất lượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị Tôm ngọt tự nhiên ngon hơn Tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Inđônêsia, nên thường được bán với giá cao hơn. Thí dụ năm 2000, mặc dù Việt Nam chỉ xuất khẩu 15.000 tấn Tôm nhưng giá trị rất cao 224 triệu USD. Trong khi đó Ân Độ xuất khẩu những 26.000 tấn mà chỉ thu được 223 triệu USD. Tính ra thì 1kg Tôm của Việt Nam được bán với giá: 14,935 USD.
Của Mêhicô là: 13,961 USD.
Của Thái Lan là: 11,895 USD.
Của ấn Độ là: 8,076 USD.
4 - Về phương thức xuất khẩu:
Các lô hàng thủy sản của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu bán cho các nhà thương mại bán buôn của Mỹ (giá FOB). Sau đó mới được cung cấp cho các nhà chế biến và hệ thống kinh doanh bán lẻ của Mỹ.
5 - Những hạn chế, khó khăn trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ.
Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc đặc biệt là năm 2001. Tuy nhiên thị trường tiềm năng này cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, các mặt hàng thuỷ sản của ta xuất khẩu vào Mỹ chủ yếu vẫn ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao trong khi với hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu Mỹ có nhu cầu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế (tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá philê, hộp thuỷ sản ). Cụ thể, với mặt hàng cá ngừ hiện nay Việt nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ (chiếm 90% giá trị xuất khẩu cá ngừ), trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt hàng được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt nam không đáng kể ( 5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản (thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá ), ngọc trai, cá cảnh(giá trị nhập khẩu của Mỹ năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta chỉ mới chú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói là chưa có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ.
Thứ hai, tuy hàng hoá Việt nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường, nhưng hàng thuỷ sản Việt nam vẫn gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức đối với nhiềi địch thủ trên thị trường Mỹ. Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như: Thái Lan (tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản) Trung Quốc ( tôm đông, cá rô phi), Canada ( tôm hùm, cua), Indonesia (cua,cá ngừ, cá rô phi), Philippin (hộp cá ngừ, cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển) nên sự cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt nam còn rất yếu, theo phòng thông tin và công nghiệp Việt nam thi trong hai ngành mà Việt nam có khả năng thâm nhập vào thị trường Mỹ là dệt may và thuỷ sản thì tỷ lệ doanh nghiệp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ là thấp: chỉ có khoảng 50 trong tổng 3000 thành viên của hiệp hội dệt may và 60 –70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực cạnh tranh này. Không những thế các sản phẩm về cá của thuỷ Việt nam lại gặp phải sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt đó là các loại cá nheo hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt xuất khẩu của ta. Hơn nữa thị trường Mỹ qúa xa Việt nam nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm chuyên trở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kinh doanh từ Mỹ sang Việt nam tăng lên, không những thế thời gian vận chuyển đã làm cho hàng tươi sống giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng lên, đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạnh tranh của hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ so với các nước Châu Mỹ la tinh. Điều đó đã làm cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam bị giảm sút nhiều và không đạt được hiệu quả như mong muốn vì giá thấp.
Thứ ba, thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên họ đã đặt ra những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này: hàng rào phi thuế quan của Mỹ khắt khe hơn so với nhiều thị trường khác, từ sau 18-12-1997 Mỹ áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. Theo quy định này hàng nhập vào Mỹ phải có chứng chỉ của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận lô hàng được sản xuất tại cơ sở đã ứng dụng HACCP. Nội dung HACCP của Mỹ tập chung vào việc đảm bảo an toàn thực phẩm, các yếu tố chất lượng được gắn với hệ thống quy phạm sản xuất ( GMP ) và các yếu tố vệ sinh (SSOP). Luật quy định về nhãn hiệu lực từ 8-05-1994 áp dụng các quy định về dán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV073.doc