MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN II: NỘI DUNG 6
CHƯƠNG I: Vai trò của tín dụng đối với GD đại học và kinh nghiệm quốc tế của các nước 6
I. Mối quan hệ giữa vốn và GD 6
1. Cầu giáo dục và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu giáo dục đại học. 6
2. Vốn trong giáo dục đại học: 8
II. Sự cần thiết của tín dụng ưu đãi cho SV 9
III. Kinh ngiệm quốc tế trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV 12
1. Các nước lựa chọn để lấy kinh nghiệm: 12
2. Bài học kinh nghiệm cho VN 13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG ƯU ĐÃI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM 15
I. Tổng quan về chính sách, tín dụng ưu đãi cho sinh viên. 15
II. Đánh giá khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi của SV 19
1. Kết quả 19
2. Tồn tại và nguyên nhân: 22
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG ƯU ĐÃI CHO SINH VIÊN 26
I. Những thách thức trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV 26
1. Thu hồi nợ 26
2. Nguy cơ thiếu vốn: 28
II. Giải pháp cải thiện khả năng tiếp cận 28
III. Kiến nghị: 32
PHẦN III: KẾT LUẬN 35
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của sinh viên: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh nhất là khi vấn đề chạm tới ở đây lại là giáo dục.Và trong trường hợp này chương trình tín dụng cho sinh viên lại là một cứu cánh!
III. Kinh ngiệm quốc tế trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV
1. Các nước lựa chọn để lấy kinh nghiệm:
Để giải quyết bài toán công bằng xã hội trong giáo dục đại học, chương trình cho sinh viên vay vốn với quy mô ngày càng lớn hiện đã phổ biến ở hơn 50 nước trên thế giới, Đã có nhiều nước như Anh, Úc, các nước Nam Mỹ và Thái Lan… Trong những năm gần đây họ đã thực hiện chính sách cho sinh viên vay vốn có tài trợ của nhà nước từ một quỹ cho vay theo kiểu đặc biệt, vay vốn không chỉ để trả học phí mà còn để trang trải chi phí ăn học, kèm theo chính sách học bổng và tài trợ cho SV con các gia đình nghèo.
Ví dụ kiểu cho vay gọi là income contigent repayment đã được áp dụng ở nhiều nước. Theo chính sách này, nguồn ngân sách nhà nước chi bình quân cho một SV không tăng, phần lớn chi phí đó là do SV gánh chịu nhưng sự gánh chịu ở trong tương lai (trả nợ) chứ không phải trong hiện tại.
Còn ở Đức, chúng ta có thể tham khảo quy trình cho vay của họ như sau:
Mỗi sinh viên du học được yêu cầu mở một tài khoản (loại giới hạn, chỉ dành cho SV) tại ngân hàng. Sau đó, tiền của người đi học sẽ được chuyển vào tài khoản này với số lượng nhất định (thông thường 6600 euro/năm).
Số tiền có thể rút được từ tài khoản này: 550 euro/tháng không được nhiều hơn, nó bằng với chi phí tối thiểu hàng tháng của mỗi SV.
Với số tiền đóng ban đầu 6600 euro thì luôn đảm bảo cho người chủ tài khoản có thể đủ chi tiêu trong 1 năm. Ngoài ra, số tiền trong tài khoản còn được dùng để chứng minh tài chính khi gia hạn visa.
Đây sẽ là những bài học vô cùng quý báu khi thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi ở Việt Nam.
2. Bài học kinh nghiệm cho VN
Từ quy trình của Đức và kinh nghiệm của các nước trên thế giới, VN có thể thực hiện theo quy trình sau:
Bước 1: Xác định mức chi tiêu tối thiểu cho một SV trong 1 học kỳ hay 1 năm, chẳng hạn 1,2 triệu/tháng.
Bước 2: Mỗi SV có yêu cầu vay vốn bắt buộc phải mở một tài khoản loại giới hạn tại ngân hàng (bất kỳ, đây là loại tài khoản ưu đãi không thu phí dành cho SV). SV ký hợp đồng vay nợ với ngân hàng, nơi cho vay sẽ chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản đó. Khoản cho vay cơ bản sẽ gồm: tiền học phí và chi phí sinh hoạt, học tập.
Bước 3: Về học phí, ngân hàng cho vay có thể chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản của nhà trường nơi SV theo học, SV chỉ cần đem biên lai nộp học phí đến ngân hàng và yêu cầu chuyển tiền. Còn khoản chi phí thì ngân hàng sẽ chuyển trực tiếp vào tài khoản của SV.
Bước 4: Điều kiện bắt buộc cho vay là SV phải xuất trình phiếu đăng ký môn học của mỗi học kỳ kèm theo biên lai thu học phí của nhà trường. Ngân hàng chỉ giải ngân cho từng học kỳ.
Như vậy, cách làm này có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, hạn chế tối đa SV sử dụng tiền cho vay đóng học phí không đúng mục đích, học phí luôn đến được nơi cần thu (nhà trường), SV luôn có tiền để đảm bảo các chi tiêu tối thiểu.
Thứ hai, trường hợp khi tiền rút nhiều đến mức giới hạn, SV sẽ không rút được nữa, 1 hoặc 2 lần như vậy sẽ giúp cho SV có ý thức chi tiêu. Trong trường hợp SV đi làm thêm có thêm các nguồn thu nhập, họ có thể để trong tài khoản này và có quyền chi tiêu ở số dư trên ngưỡng giới hạn.
Thứ ba, hầu hết các trường đại học đều tập trung tại các đô thị lớn tập trung nhiều các ngân hàng, do vậy có thể đáp ứng nhu cầu rút tiền của SV.
Thứ tư, biện pháp này cũng bắt buộc nhà trường nâng cao nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt, tiến tới cho phép tất cả SV đóng học phí qua ngân hàng theo xu thế tất yếu của thị trường. Nhà trường phải được đặt trong sức ép bắt buộc đổi mới phương pháp làm việc.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TIẾP CẬN VỐN TÍN DỤNG ƯU ĐÃI CHO SINH VIÊN VIỆT NAM
I. Tổng quan về chính sách, tín dụng ưu đãi cho sinh viên.
Chính sách ưu đãi tín dụng cho sinh viên là một chính sách đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của sinh viên hiện nay. Trong đó phải kể đến 3 Quyết định về vấn đề này của Thủ Tướng chính phủ, bao gồm:
Quyết định 51/1998/QĐ-TTG của Thủ tướng chính phủ ra ngày 2 tháng 3 năm 1998 về việc lập “Quỹ Tín Dụng dành cho sinh viên”.
Quyết Định 107/2006/QĐ-TTG ra ngày 18 tháng 5 năm 2006 về tín dụng với học sinh, sinh viên
Quyết Định 157/2007/QĐ-TTG ra ngày 27 tháng 9 năm 2007 về tín dụng đối với học sinh sinh viên
Về việc lập “Quỹ Tín Dụng dành cho sinh viên”.
Có thể thấy ngay từ năm 1998 đã có những chính sách ban đầu về hỗ trợ sinh viên vay vốn cho học tập, bằng việc thành lập Quỹ tín dụng dành cho sinh viên nhưng thực sự hoạt động của nó vẫn không mang lại hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là việc tiếp cận với nguồn vốn vay trong giai đoạn này vẫn gặp rất nhiều khó khăn và ngân sách dành cho nó không nhiều, không đủ đáp ứng những nhu cầu của sinh viên . Theo thống kê ngân sách ban đầu là 100 tỷ trong đó ngân sách Nhà Nước chỉ đóng góp 30%, phần còn lại huy động từ các nguồn khác như đóng góp của các ngân hàng thương mại, của các tổ chức...do vậy không thể đáp ứng được các nhu cầu của sinh viên. Mặt khác Nghị Định này cũng yêu cầu giao cho một ngân hàng Thương Mại hoặc ngân hàng Quốc Doanh nên không tạo được động lực cho các ngân hàng này triển khai một cách tích cực hoạt động này, sở dĩ như vậy là do các khoản vay này mang tính rủi ro rất cao và với mức lãi suất cho vay tối đa của Quỹ bằng 50% mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn hoặc lãi suất cho vay thông thường bình quân do Ngân hàng Nhà nước công bố. Trong giai đoạn này một trong những lý do làm cho sinh viên khó tiếp cận với Quỹ này là do các hướng dẫn không cụ thể, việc tuyên truyền vẫn chưa phổ biến rộng rãi, khi vay phải thế chấp và đối tượng vay cũng giới hạn trong những sinh viên nghèo phải được chứng minh. Chính vì vậy Quỹ này hoạt động không hiệu quả trong suốt một thời gian dài. Trên thực tế nhu cầu vay vốn của sinh viên là rất lớn mà hoạt động của Quỹ lại bị đình trệ một thời gian do không đủ nguồn vốn hoạt động đã gây ra rất nhiều khó khăn cho sinhviên nghèo theo học tại các trường Đại Học
Trong khi đang chờ chính sách tín dụng mới thay thế Quyết định số 51/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về lập quỹ tín dụng đào tạo, bắt đầu từ ngày 1.2.2006, Ngân hàng Chính sách xã hội cho sinh viên vay thông qua hộ gia đình, gia đình trực tiếp nhận nợ và chịu trách nhiệm trả nợ. Mỗi gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, có con đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp được vay vốn tối đa 3 triệu đồng/năm học, với lãi suất ưu đãi như cho vay đối với hộ nghèo. Tuy nhiên, việc thực hiện vay vốn thông qua hộ gia đình này chỉ được áp dụng cho các sinh viên vay vốn lần đầu tiên. Còn đối với những sinh viên đang tiếp tục hợp đồng tín dụng thì họ chỉ tiếp tục thực hiện quản lý, thu hồi nợ, phía ngân hàng sẽ không tiếp tục giải quyết để sinh viên chuyển hình thức vay vốn thông qua các hộ gia đình.
Vào năm 2002, Chính phủ có ban hành một Nghị Định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4 tháng 10 năm 2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong đó tại điều 2 của chương 1 quy định rõ về đối tượng được vay vốn ưu đãi là học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề. Tiếp sau đó là Nghị Định Số 107/2006/QĐ-TTG về chính sách tín dụng cho sinh viên, nghị định này là một bước chuyển đổi mạnh mẽ trong vấn đề tín dụng dành cho sinh viên. So với Nghị Định về thành lập Quỹ Tín dụng dành cho sinh viên thì nghị định này đã có những thay đổi trong cách thức huy động và quản lý vốn cũng như nới lỏng các quy định về cho vay đối với sinh viên. Cụ thể ở đây, Ngân hàng chính sách được giao nhiệm vụ để đảm bảo cung cấp các khoản vay cho sinh viên, nguồn chủ yếu lấy từ ngân sách Nhà Nước, đối tượng vay cũng được quy định rõ ràng trong các văn bản, chỉ thị hướng dẫn, trong đó đối tượng vay vốn chỉ cần là các sinh viên đang theo học tại các trường Đại học, cao đẳng và trung cấp dạy nghề có hoàn cảnh khó khăn. Trong quá trình vay vốn cũng không cần thế chấp tài sản và mức lãi suất cho vay được ấn định là 0,65%/tháng, trong thời gian học chưa cần trả ngay vốn và lãi. Tuy nhiên mức vay quy định của chính sách này là quá thấp: 300.000 đồng/tháng. Với mức sống vào thời kỳ đó thì mức cho vay như vậy chỉ có thể đáp ứng được ¼ nhu cầu sinh hoạt của sinh viên hiện nay. Chính vì thế mà sinh viên không mấy mặn mà với cách vay tín dụng ưu đãi như thế này. Mặt khác vấn đề thiếu vốn và giải ngân chậm cũng là một thách thức không nhỏ đối với hiệu quả của chính sách. Đây là chính sách cho vay ưu đãi nên nguồn vốn chỉ có một tỷ lệ nhỏ là thu nợ để tái cho vay tiếp, còn chủ yếu phải được cân đối từ Ngân sách Nhà nước, hàng năm cấp cho Ngân hàng chính sách để cho vay. Tuy nhiên đến hết tháng 7 - 2007 đã đạt gần 70% kế hoặch cả năm, trong khi đó số lượng sinh viên, học sinh trúng tuyển và năm học mới tại các trường Đại học, cao đẳng trong cả nước tăng mạnh, lại bắt đầu vào năm học mới, nên nhu cầu vay cũng rất lớn.
Về phối hợp thực hiện cho vay vốn cũng còn rất nhiều vướng mắc. Tại nhiều địa phương, chính quyền không sẵn sàng xác nhận hoàn cảnh khó khăn cho gia đình học sinh, sinh viên. Đặc biệt là, tại hầu hết các xã, phường, với bệnh “ thành tích” nên không ít địa phương không đưa gia đình có hoàn cảnh khó khăn vào diện hộ nghèo, vì như vậy tỷ lệ hộ nghèo của địa phương bị cao, ảnh hưởng đến thành tích của địa phương. Đó là chưa kể tình trạng hành chính, quan liêu hay tiêu cực khác trong việc xác nhận hoàn cảnh khó khăn cho học sinh, sinh viên để được vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội. Đặc biệt là tại số đông các trường đại học, cao đẳng, việc tạo điều kiện hỗ trợ cho học sinh, sinh viên vay vốn lại coi không phải là chức năng, nhiệm vụ của họ. Do đó nhiều trường thờ ơ với công việc này.
Về phương thức cho vay, theo quy định hiện hành thì Ngân hàng Chính sách xã hội giải ngân trực tiếp cho gia đình học sinh, sinh viên ở địa phương. Sau đó gia đình chuyển tiền cho con em học tập tại trường, nếu chuyển qua Ngân hàng chính sách xã hội thì không phải trả phí chuyển tiền. Đẩy mạnh cho vay, hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội không những được thành tích trong, mà còn được hưởng cơ chế tài chính theo quy định của Bộ Tài chính, nên họ tích cực và chủ động triển khai, song sự thiếu hụt về nguồn vốn và thiếu sự phối hợp chặt chẽ đang là vướng mắc lớn trong triển khai chính sách tín dụng ưu đãi học tập.
Để thay đổi cũng như giải quyết các vấn đề còn tồn đọng thì vào ngày 27 tháng 9 năm 2007 Chính Phủ ra một nghị định mới thay thế cho Nghị định 107/2007/QĐ-TTG trong đó đã có nhiều điều khoản rõ ràng, cụ thể và hợp lý hơn trước. Ví dụ như tăng số tiền cho sinh viên vay từ 300.000 đồng lên 800.000 đồng 1 tháng và lãi suất là 0,5%/ tháng. Ngoài ra cũng quy định rõ thời gian trả nợ là 9 năm (đối với sinh viên học hệ đại học 4 năm), bên cạnh đó Chính phủ cũng đã có những văn bản quy định, hướng dẫn việc thực hiện quá trình cho vay vốn và giải ngân vốn tại các địa phương thông qua Ngân hàng chính sách. Các thủ tục vay vôn rất đơn giản, không cần thế chấp: Sinh viên chỉ cần giấy chứng nhận là sinh viên của trường và đơn xin vay vốn là có thể vay vốn tại các ngân hàng chính sách tại các địa phương. Về vấn đề thiếu vốn thì chưa thể giải quyết ngay nhưng theo thông tin mới nhất: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại QĐ số 319/QĐ-TTg ngày 25/3/2008 về việc bố trí đủ vốn cho thực hiện chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên, ngày 1/4/2008 Bộ Tài chính đã chuyển 1.500 tỷ đồng vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay đối với HSSV trong học kỳ II năm học 2007 – 2008 theo kế hoạch đã đề ra.
Trước đó, ngày 15/2/2008 Bộ Tài chính đã tạm ứng 1.000 tỷ đồng tiền chuyển Ngân hàng chính sách. Ngoài ra, để kịp thời thực hiện chỉ đạo TTCP tại công văn số 122/TTg-QHQT ngày 22/1/2008 về việc cấp vốn điều lệ cho Ngân hàng chính sách từ chương trình PRSC6, trong khi chờ Ngân hàng Nhà nước mua ngoại tệ của chương trình, Bộ Tài chính đã tạm ứng 1.000 tỷ đồng bổ sung nguồn vốn hoạt động cho Ngân hàng chính sách thực hiện cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách, trong đó có việc cho vay học sinh sinh viên
Như vậy có thê thấy ró những thay đổi, những chuyển biến tích cực trên thị trường vốn vay trước và sau Nghị Quyết 157 của chính phủ. Sinh viên đã có thể tiếp cận tốt hơn với nguồn tín dụng quan trọng này, giúp giảm bớt những khó khăn trước mắt, thực hiện công bằng xã hội và các mục tiêu về xóa đói giảm nghèo. Tuy còn nhiều những hạn chế cũng như những khó khăn trước mắt nhưng nghị định này thật sự là một bước thay đổi quan trọng trong các chính sách hỗ trợ và cải cách giáo dục của chính phủ trong thời gian tới.
II. Đánh giá khả năng tiếp cận tín dụng ưu đãi của SV
1.Kết quả
Chương trình tín dụng ưu đãi cho sv được biết tới từ năm 1998nhưng hoạt động khá trầm lắng và chưa trở thành người bạn đồng hành thực sự của sv nghèo.Do nhiều qui định khắt khe về đối tượng cũng như thủ tục cho vay nên số lượng sv đã tiếp cận với nguồn vốn này là chưa nhiều.Còn về phía ngân hàng thì cho rằng sv ra trường không có ý thức trả nợ,tỷ lệ nợ quá hạn của việc cho HS_SV vay rất cao lên đến 13%. Ý nghĩa xã hội của chương trình vì thế cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.theo số liệu thống kê thì Số sinh viên đi vay ở các trường ĐH hầu như không đáng kể. Chẳng hạn như tại Học viện Ngân hàng, ĐH Kinh tế quốc dân, ĐH Hà Nội, ĐH Mở TPHCM, ĐH Nông lâm TPHCM, ĐH Kinh tế TPHCM, số sinh viên đi vay chỉ lẻ tẻ ở con số... vài chục, nhiều lắm cũng chỉ đến trên dưới 200 triệu.
Thống kê về số sinh viên đi vay tại ĐH Kinh tế TPHCM năm 2003-2004 chỉ có 121 sinh viên, năm 2004-2005 là 243 sinh viên trong khi tổng số sinh viên của trường lên đến hàng vạn sinh viên.
-Nhưng kể từ ngày 27/9/2007 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 157/2007/QĐ -TTg về tín dụng đối với HSSV thay thế cho Quyết định số 107/2006/QĐ-TTg theo hướng mở rộng đối tượng cho vay thì đây đã thực sự trở thành một quyết sách đi vào trong cuộc sống. Tính trong 3 tháng từ khi Quyết định 157 có hiệu lực thi hành. NHCSXH đã cho vay đạt 2.504,6 tỷ đồng với 596.534 HSSV đang vay vốn đối với các cấp đào tạo. Trong đó có 425.313 HSSV đại học, cao đẳng vay với số tiền 1930 tỷ đồng; 157.447 trung cấp chuyên nghiệp vay vốn với số tiền 680 tỷ đồng và 47.399 học sinh học nghề vay vốn với số tiền 203 tỷ đồng. Công tác cho vay vốn tín dụng đối với học sinh, sinh viên đã đến được với đông đảo nhân dân, tạo được sự đồng thuận của toàn xã hội. Chính sách đã nhanh chóng đi vào cuộc sống tạo điều kiện cho hàng trăm ngàn sinh viên có đủ kinh phí để trang trải việc học tập, sinh hoạt, hàng trăm nghìn gia đình có điều kiện cho con em mình tiếp tục đến trường. Đặc biệt vào thời điểm năm học 2007 - 2008 đã không còn tình trạng học sinh, sinh viên trúng tuyển mà không nhập học được do khó khăn về kinh tế.
10 địa phương đứng đầu cả nước hiện nay về số lượng HSSV vay vốn là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Giang, Ninh Bình, Đồng Nai, Long An, Phú Thọ.
7 địa phương có số HSSV vay vốn ít nhất trong cả nước là Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Bắc Cạn, Đắc Nông, Cao Bằng, Kon Tum.
Sau đây xin được nói tới kết quả thực hiện dự án của hai tỉnh là Hà Giang và Nghệ An.Là đại diện cho 2 nhóm tỉnh có số lượng sv vay vốn nhiều nhất và ít nhất.
Là một tỉnh vùng cao biên giới, chủ yếu dựa vào phát triển thuần nông, đại đa số bà con nông dân trong tỉnh Hà Giang còn rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, chế độ tín dụng ưu đãi của Chính phủ quy định cụ thể cho vay cao gấp gần 3 lần so với mức cho vay trước đây đã giúp cho hàng ngàn hộ gia đình nghèo ở tỉnh này có điều kiện tiếp tục cho HSSV được theo học tại các trường ĐH, CĐ, trung học và dạy nghề.
Năm 2007, sau 3 tháng triển khai, Ngân hàng đã cho 1901 hộ gia đình, trong đó có 1.156 HSSV có hoàn cảnh khó khăn vay vốn với doanh số cho vay 5,9 tỷ đồng. Nâng tổng số dư nợ cho HSSV vay vốn học tập năm 2007 đạt 5.230 triệu đồng, tăng 5.133 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2006.
Khi chưa có chính sách ưu đãi theo mức vay mới, năm nào NHCSXH của Hà Giang cũng thừa vốn. Chỉ cho vay đạt khoảng 200 triệu đồng/năm (trong khi nguồn vốn là 500 triệu đồng). Để đáp ứng nguồn vốn cho HSSV vay vốn học tập, NHCSXH tỉnh đã đề nghị NHCSXH Việt Nam cấp bổ sung cho Hà Giang 500 triệu đồng, nâng tổng nguồn vốn cho HSSV vay lên 5.230 triệu đồng. Quá trình cho vay vốn ưu đãi cho HSSV ở tỉnh này hầu như không gặp phải khó khăn, vướng mắc nào đáng kể.
Sau hơn 2 tháng thực hiện Quyết định 157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cho vay HSSV, chi nhánh NHCSXH tỉnh Nghệ An luôn là đơn vị dẫn đầu trong hệ thống NHCSXH Việt Nam về việc giải ngân cho HSSV vay vốn học tập.
Hiện nay, Ngân hàng đã cho 39.606 HSSV có hoàn cảnh khó khăn vay vốn với doanh số cho vay 172.842 triệu đồng. Các huyện có doanh số cho vay lớn như: Diễn Châu: 22.659 triệu đồng/3.122 HSSV; Quỳnh Lưu: 18.960 triệu đồng/4.165 HSSV; Yên Thành: 15.166 triệu đồng/3.308 HSSV; Đô Lương: 13.885 triệu đồng/3.233 HSSV; Nghi Lộc 13.063 triệu đồng/2.295 HSSV; thành phố Vinh: 12.393 triệu đồng/2.066 HSSV; Thanh Chương: 11.322 triệu đồng/2.697 HSSV và huyện Nghĩa Đàn là 11.610 triệu đồng/2.265 HSSV…
Chương trình cho vay HSSV đã giúp cho hàng ngàn hộ gia đình có điều kiện cho con đến trường để được học tập… Đặc biệt sau cơn bão số 5 và trận lũ lụt vừa qua đổ bộ vào các huyện miền núi của tỉnh như Quế Phong, Quỳ Châu, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Thanh Chương, Nam Đàn… gây thiệt hại nặng về người và của thì đồng vốn ưu đãi của Chính phủ đã kịp thời giúp cho những gia đình có HSSV đang theo theo học tại các trường đại học, cao đẳng có thêm điều kiện để đến trường.
Với nỗ lực và quyết tâm cao, cùng với các giải pháp thích hợp, chi nhánh NHCSXH tỉnh Nghệ An đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chương trình cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn trong học kỳ I năm học 2007 - 2008.
2. Tồn tại và nguyên nhân:
Đi cùng với những thành tựu đã đạt được thì chương trình cũng còn một số tồn tại mà nếu không được giải quyết kịp thời thì sẽ làm mất đi ý nghĩa to lớn của chương trình.Xin kể ra một số tồn tại chủ yếu sau đây:
Thứ nhất đó là về đối tượng cho vay:
Chương trình của Việt Nam có mục tiêu chính là mục tiêu (3). Điều đó cũng đã được thể hiện qua mức “trợ cấp ẩn” khá lớn. Theo các qui định mới, có thể ước tính gần đúng, giá trị “trợ cấp ẩn” ở đây có thể chiếm đến khoảng 25-40% giá trị hiện tại của khoảng vốn vay. Vì vậy, chương trình rất dễ bị lợi dụng bằng cách cung cấp thông tin thiếu chính xác về thu nhập gia đình. Ở Thái Lan, trưởng thôn/bản có thể xác nhận thông tin về thu nhập của gia đình và thực tế cho thấy, thường có nhiều thiên vị. Nhiều khe hở trong quá trình phê duyệt vốn vay cho SV không thuộc diện nghèo cũng đã được phát hiện ở Hàn Quốc, Trung Quốc…
Theo Bộ LĐTB -XH, công tác kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay thường gặp khó khăn do thiếu thông tin từ địa phương, rất khó có thể kiểm soát được số tiền vay được sử dụng như thế nào. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cho biết, chế tài xử lý vi phạm chưa có dẫn đến phát sinh một số vi phạm trong quá trình triển khai như: Một số HS SV sử dụng vốn vay để mua sắm tài sản, không phục vụ mục đích học tập, sinh hoạt không tiết kiệm. Thậm chí đã có trường hợp một số hội đoàn thể thu thêm phí cho vay ngoài lãi suất như đã từng xảy ra ở Thanh HoáNgân hàng Chính sách xã hội cho biết trường hợp xác định sai đối tượng chỉ chiếm 1% (458 hộ) trên 800 cơ sở được kiểm tra và số đối tượng sử dụng vốn vay sai mục đích chỉ chiếm 0,02% (10 hộ). Kết quả kiểm tra trực tiếp của chín sở GD-ĐT tại 20 trường và gần 400 hộ gia đình cũng khẳng định đa số HS, SV và gia đình sử dụng vốn vay đúng mục đích, đối tượng thụ hưởng đúng với tinh thần chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, qua thực tế kiểm tra, đánh giá của Bộ GD-ĐT cho biết: các sở GD-ĐT rất khó khăn trong việc rà soát, xác định số lượng HS, SV trúng tuyển có nhu cầu vay vốn ở địa phương do không nắm được số SV trúng tuyển. Phần lớn các trường ĐH, CĐ, trung cấp, dạy nghề chỉ nắm được số SV mà trường ký xác nhận làm thủ tục vay vốn. Còn số được vay trên thực tế không nắm được.
Có một thực trạng hiện nay đó là sinh viên vay tiền trường không hề biết. Trường không nắm được số SV được vay vốn để theo dõi, đôn đốc HS, SV sử dụng vốn vay đúng mục đích. Các địa phương sau khi xác nhận cho HS, SV vay vốn cũng không nắm được số HS, SV đó còn theo học hay đã nghỉ thời gian sau đó.
Như vậy, cả địa phương và nhà trường chỉ xác nhận cho đối tượng vào thời điểm làm thủ tục vay vốn. Sự lỏng lẻo trong phối hợp giữa địa phương, nhà trường và ngân hàng chính là kẽ hở để lọt những trường hợp không thuộc đối tượng thụ hưởng và sử dụng vốn vay sai mục đích.
Trong báo cáo của Bộ GD-ĐT thì đối tượng HS, SV khó khăn chỉ chiếm 14,77%, đối tượng thuộc gia đình cận nghèo chiếm trên 67%. Nhưng ranh giới giữa cận nghèo và nghèo rất khó xác định chính xác. Vì vậy thực tế sẽ còn nhiều đối tượng SV cần hỗ trợ nhưng chưa được xếp vào diện thụ hưởng. Bên cạnh đó, đối tượng SV các trường sư phạm đã được miễn học phí hoàn toàn nhưng vẫn được xác nhận cho vay vốn với mức ngang bằng HS, SV học trường khác là không công bằng.
Có một thực trạng là còn ít học sinh học nghề vay tiền
Theo phân loại của Ngân hàng Chính sách xã hội, có 2/3 trong tổng số người đã vay vốn là SV các trường ĐH, CĐ với số tiền chiếm khoảng 69% trong tổng số tiền cho vay. Tỉ lệ HS, SV các trường trung cấp, dạy nghề, nhất là HS học nghề dưới một năm được vay vốn rất thấp. Đây là việc sẽ phải điều chỉnh trong thời gian tới để khuyến khích HS, SV vào học các trường trung cấp và trường nghề.
Một tồn tại nữa đang đặt ra là vấn đề thiếu vốn:
Theo đại diện NHCSXH thì đến nay, đã có gần 60 vạn HSSV được vay, khoản vốn lên tới hơn 2.500 tỉ đồng. Đây thực sự là nỗ lực lớn sau 3 tháng NH này triển khai chính sách. Tuy nhiên câu hỏi: Lấy đâu ra nguồn tiền khoảng 8.000 tỉ đồng trong năm 2008 để cho HSSV vay lại là vấn đề khiến NHCSXH lo ngại. Đại diện NH này phân tích: Không chỉ trước mắt trong học kỳ 2 của năm học này, mà về lâu dài những năm tới vấn đề vốn cũng sẽ là mối lo thường trực.Mặt khác theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 319/QĐ-TTg ngày 25/3/2008 về nguồn vốn tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg thì: Khoảng 30% số học sinh, sinh viên theo học hằng năm được vay vốn.
Theo Quyết định này, Chính phủ sẽ phải tập trung huy động vốn khoảng từ 30 đến 35 nghìn tỷ đồng lập quỹ quay vòng cho một chu kỳ học 5 năm (Bốn năm học và một năm ân hạn) cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay để học tập. Trong khi hoạt động của NH cũng khó khăn vì chưa thu được lãi, nhưng kinh phí quản lý lại là rất lớn.
Đầu tháng 4 vừa qua Bộ Tài chính đã chuyển tiếp 1.500 tỷ đồng vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay học sinh, sinh viên học kỳ II năm học 2007 - 2008. Vì thời điểm giải ngân số vốn này chậm hơn so với dự kiến, nên cũng gây ra không ít khó khăn cho các hộ gia đình nông dân nghèo trong diện được vay vốn.
Theo dự kiến số vốn này phải được giải ngân từ hơn 2 tháng trước khi học sinh, sinh viên chuẩn bị bước vào học kỳ II. Trong gần hai tháng đó, nhiều gia đình nghèo có con cái theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng đã phải khá vất vả để chạy vạy, lo toan nộp tiền học và chi phí sinh hoạt cho con em mình.
Thứ ba là thông tin hạn chế:
Thứ tư là sinh viên còn khó khăn trong thủ tục giấy tờ:
Một trong những điểm khó khăn đối với cho sinh viên nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi là các thủ tục để được xác nhận hoàn cảnh khó khăn của sinh viên tại địa phương và việc tìm hiểu và làm các thủ tục để vay. Có một thực tế, do căn bệnh thành tích nên rất nhiều địa phương không đưa số gia đình có hoàn cảnh khó khăn vào diện hộ nghèo. Đó là chưa kể tình trạng hành chính, quan liêu hay tiêu cực trong việc xác nhận hoàn cảnh khó khăn cho học sinh, sinh viên để được vay vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội. Bên cạnh đó nhiều trường đại học, cao đẳng coi việc tạo điều kiện hỗ trợ cho học sinh, sinh viên vay vốnkhông phải là chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy rất nhiều sinh viên gặp khó khăn trong việc tiếp cận và vay nguồn tín dụng ưu tiên này của chính phủ.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG ƯU ĐÃI CHO SINH VIÊN
I. Những thách thức trong việc cấp tín dụng ưu đãi cho SV
1. Thu hồi nợ
Một trong những thách thức đầu tiên và được nói tới nhiều nhất chính là việc thu hồi nợ: Vấn đề đáng lo lúc này là liệu số tiền đã phát ra có thể thu hồi lại kịp thời hay không để tiếp tục đem đến cơ hội cho những sinh viên nghèo sau này.
Lãi suất cho học sinh, sinh viên vay theo quy định mới chỉ có 0,5%, giảm so với mức cho vay trước đây (0,65%/tháng). Mức lãi suất này tương đương 50% lãi suất cho vay thương mại. Cộng với thủ tục cho vay không quá khắt khe, không cần thế chấp nhà cửa... khiến cho việc vay vốn trở nên hấp dẫn với các gia đình, đặc biệt là những người có mức thu nhập trung bình thấp ở các vùng nông thôn.
Quả thực, để đòi hỏi sinh viên trả lại số vốn được vay cộng với lãi suất trong 4 năm sau khi ra trường một năm là không dễ. Nếu mứcvay là 8 triệu đồng/năm như hiện nay và mức lãi suất là 0,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12894.doc