MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I : 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 2
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ THUẾ GTGT 2
1.GTGT là gì? 2
2.Thuế GTGT là gì? 2
II. YÊU CẦU PHẢI THAY THUẾ DOANH THU BĂNG THUẾ GTGT 12
1. Thuế doanh thu 12
2.Yêu cầu phải thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay 14
PHẦN II: 16
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THI HÀNH THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 16
1. Những kết quả đạt được trong hai năm đầu thực hiện 16
2. Những mặt còn tồn tại khi thực hiện thuế GTGT 21
3. Nguyên nhân của những mặt hạn chế 24
PHẦN III 26
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM 26
I. NHÀ NƯỚC 26
1. Quan điểm. 26
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy. 26
II. DOANH NGHIỆP. 29
1. Cách lập hoá đơn chứng từ. 30
2. Thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. 30
3. Vấn đề hoàn thuế. 31
KẾT LUẬN 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tiếp tục cải tiến và hoàn thiện hệ thống thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suất (11 mức thuế suất) gồm 0%, 0,5%,1%, 2%, 4%, 6%, 8%, 10%, 15%, 20%, 30% nên việc tính thuế không chính xác và áp dụng nhiều mức thuế suất vào từng loại hoạt động rất phức tạp. Việc áp dụng nhiều mức thuế suất dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng với các mức thuế suất khác nhau tìm cách dồn doanh thu vào mặt hàng có mức thuế suất thấp. Vì vậy thuế doanh thu của từng cơ sở khó chính xác tuyệt đối và gây ra tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước.
- Thuế doanh thu đánh trùng nhiều lần trên một giá trị và thuế đánh trên thuế. Một hàng hoá, dịch vụ qua càng nhiều lần luân chuyển thì chịu thuế doanh thu càng nhiều, thuế ở khâu sau tính trên cả phần thuế đã nộp ở khâu trước.
- Thuế doanh thu không có sự thống nhất, ràng buộc lẫn nhau do thuế được thu độc lập với nhau từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy không kiểm tra thuế đã nộp ở các khâu trước.
- Không khuyến khích các cơ sở sử dụng tốt chế độ hoá đơn chứng từ và thực hiện chế độ hạch toán kế toán do nộp thuế ở khâu sau không được khấu trừ thuế khâu trước.
- Thuế doanh thu quy định nhiều trường hợp miễn giảm không đúng tính chất của thuế gián thu. Loại thuế này do người tiêu dùng chịu nhưng người sản xuất hoặc người bán hàng lại được hưởng chế độ miễn giảm. Đó là sự mất công bằng giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế.
2.yêu cầu phải thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam vì những lý do cơ bản sau:
2.1. Thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm không còn phù hợp
Với những tồn tại của thuế doanh thu, việc áp dụng luật thuế doanh thu không còn phù hợp. Mặt khác, thuế doanh thu không còn phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu.
Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT theo định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá do cung-cầu quyết định, nếu duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo kẽ hở cho trốn lậu thuế. Thuế doanh thu nhiều mức thuế suất bảo hộ đến từng ngành hàng, mặt khác chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, giá cả hàng hoá dịch vụ đều do Nhà nước thống nhất quản lý.
2.2. Thuế doanh thu đứng trước yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực
Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập để có thể phát triển nền kinh tế- xã hội mà cần có sự hợp tác song phương, đa phương. Đó là xu hướng hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Tất yếu dẫn đến yêu cầu đối với mỗi nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là một nội dung có tầm quan trọng hàng đầu nhằm có thể phát huy tác dụng công cụ thuế điều tiết vĩ mô nền kinh tế phù hợp thông lệ trong khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong tình hình Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN và từng bước hội nhập AFTA, APEC. Biện pháp hữu hiệu là phải cải cách thuế theo xu hướng chung: Hạ thuế suất đi đôi với mở rộng diện tính thu thuế, hạn chế đối tượng miễn giảm thuế, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, vừa tạo điều kiện động viên được sự đóng góp đại đa số tầng lớp nhân dân. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, thuế cũ không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi.
Nhiều nước trong khu vực và thế giới đã áp dụng thuế GTGT để khắc phục sự trùng lắp của thuế doanh thu và tăng doanh thu cho NSNN như: Thuỵ Điển áp dụng từ 1/1/1989, Inđônêxia áp dụng tháng 4/1985, Đài Loan áp dụng tháng 4/1996, Philippin áp dụng tháng 1/1998, Nhật Bản áp dụng tháng 4/1989, Thái Lan áp dụng tháng 1/1995…
Để có hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động, phát triển với thực tế của nền kinh tế là điều cần thiết và cấp bách. Quán triệt tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách, đổi mới nền kinh tế đã chú trọng đến đổi mới hệ thống thuế bao gồm cả chính sách và bộ máy hành thu để bảo đảm hệ thống pháp luật thuế luôn phù hợp và thực thi có hiệu quả. Tiếp theo cải cách thuế bước I (1990-1996) Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành ngay cải cách thuế bước II nhằm khắc phục những bất cập, đưa hệ thống thuế bắt kịp với thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta. Khâu đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế bước II là việc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 (từ 2/4-10/5/1997) đã thông qua hai luật thuế cơ bản đại diện cho hai loại thuế, đó là luật thuế GTGT (đại diện cho loại thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp (đại diện cho loại thuế trực thu). Hai luật thuế này được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu và thuế lợi tức. Thuế GTGT triển khai thực hiện ở trên 120 nước trên thế giới và đã được đánh giá là tiên tiến, khoa học và công bằng, có nhiều ưu điểm và khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu.
Việc ban hành thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu là nhằm khắc phục những nhược điểm cuả thuế doanh thu, kích thích sản xuất phát triển đồng thời từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu hội nhập với nề kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng như của các nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy tăng cường công tác hạch toán kế toán, chứng từ hoá đơn của các doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả công tác quản lí thu thuế hạn chế thất thu, đảm bảo nguồn thu ổn đinh, thường xuyên, lâu dài và ngày càng tăng cho NSNN
Tuy nhiên để vận dụng thuế GTGT vào Việt Nam có hiệu quả thì cần phải lưu ý đến một số vấn đề:
- Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT phải có một thời gian áp dụng thử thuế GTGT sau đó mới áp dụng rộng rãi cho mọi ngành nghề.
- Không áp dụng một mức thuế suất duy nhất cho tất cả các ngành nghề để khuyến khích một số ngành nghề sản xuất phát triển cũng như hạn chế những ngành nghề không cần thiết cho nền kinh tế quốc dân.
- Dần dần đưa việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán đi vào nề nếp, đi đến việc chấm dứt không có hóa đơn.
- Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế mới cũng như yêu cầu về mặt nghiệp vụ để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp dân cư, thúc đẩy tinh thần tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật.
Hoà nhập chính sách thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phần II:
Thực trạng của việc thi hành thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
Thuế GTGT ở Việt nam được tiến hành thí điểm từ tháng 9/1993. Qua một thời gian thực hiện, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt nam và chọn lọc những bài học thành công, thất bại ở một số nước, dự thảo luật được xây dựng từ đầu năm 1995, được Quốc hội khoá 9 kỳ họp thứ 11 thông qua vào giữa tháng 5/1997 đã bắt đầu áp dụng chính thức trên diện rộng từ 1/1/1999.
Sau hơn hai năm thực hiện luật thuế GTGT về cơ bản đã đạt được các yêu cầu đề ra. Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, sản xuất, kinh doanh giữ được ổn định, bước đầu đã phát huy được tác dụng.
1. Những kết quả đạt được trong hai năm đầu thực hiện
1.1. Khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, giảm khoảng 10% so với trước đây, toàn bộ thuế GTGT của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế; Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện chịu thuế GTGT. Từ khi thực hiện Nghị định số 78/NĐ-CP giảm 50% mức thuế GTGT đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế GTGT các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn khoảng 1% đến 2%, thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn được hoàn thuế.
Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không hoàn thuế GTGT, nếu thuộc vốn ODA vay thì được hoàn thuế GTGT trong thời gian 3 ngày kể từ ngày nộp tờ khai.
Thực hiện thuế GTGT còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa phát triển do thuế GTGT chỉ thu thêm giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng với 2 phương pháp tính thuế; (phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp). Đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là thuế chồng lên thuế, đã thúc đẩy công nghiệp hoá, hiệp tác sản xuất nhất là trong lĩnh vực sản xuất cơ khí như sản xuất, lắp ráp xe đạp, xe máy, ô tô, điện tử .
Trong quá trình thực hiện, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng, dịch vụ gặp khó khăn do thuế GTGT cao hơn thuế doanh thu nhưng chưa chuyển đổi kịp cho phù hợp với cơ chế thuế mới và chịu sự ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực như: than, cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), luyện cán, kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, hoá dược,vận tải, bốc xếp, xây dựng, lắp đặt, khách sạn, ăn uống, du lịch đã được Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài Chính thực hiện các biện pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn như: giảm mức thuế nhập khẩu của 569 mặt hàng là vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước với số thuế giảm gần 1000 tỷ đồng, giảm mức thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng.
Bằng các nội dung chính sách và biện pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, luật thuế GTGT đã góp phần khuyến khích đầu tư và ổn định sản xuất kinh doanh.
Trong năm 1999, tuy gặp nhiều khó khăn do số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm khoảng 12,5% nhưng tổng vốn đầu tư vẫn tăng so với năm 1998, trong đó vốn đầu tư trong nước tăng khoảng 28,0%, vốn ODA tăng khoảng 16%. Một số sản phẩm chủ yếu đạt khá so với năm 1998 là: dầu thô tăng 19%, sữa hộp tăng 8,7%, đường mật tăng 28%, bia tăng 1,5%, giấy bìa tăng 8,8%, xi măng tăng 9,2%, thép cán tăng 12,9%, điện phát ra tăng 9,7%…
Mặt khác, năm 1999 do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế so với những năm trước giảm nhưng cũng đạt 4,8%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 10,4%; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 5,2%. Sự giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được chặn lại, nhịp tăng trưởng kinh tế đã khá lên và đạt khoảng 6,7%. Sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5% so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,5%; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3%; sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,9% so với kế hoạch, các hoạt động dịch vụ đã được đẩy mạnh, giá trị các ngành dịch vụ tăng khoảng 6%. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá tăng 10%, doanh thu du lịch tăng 14%, doanh thu ngành bưu điện tăng 8,5%, doanh thu hàng không tăng 14%, vận tải hàng hoá tăng 10,4%, vận tải hành khách tăng 5,5%.
Nhiều sản phẩm quan trọng trong hai năm có mức tăng khá cả về sản xuất và tiêu thụ như: Dầu thô, điện, than sạch, xi măng, thép, phân đạm, giấy, hàng may mặc, vải, đường mật, dầu thực vật… Đặc biệt, nhiều loại sản phẩm cơ khí đã tăng đáng kể do chất lượng được nâng lên, thị trường tiêu thụ có cải thiện như: Động cơ điện (năm 2000 tăng 12,1%), động cơ điêzel (năm 2000 tăng 9,2%), quạt điện (năm 2000 tăng 17,6%), bơm thuốc trừ sâu (năm 2000 tăng 33,3%), máy công cụ (năm 2000 tăng 21,2%), máy biến thế (năm 2000 tăng 14,5%)…
Hầu hết các mặt hàng có mức tăng trưởng khá là những mặt hàng được giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT như: than, thép, các sản phẩm cơ khí (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng), giấy in báo, vận tải, du lịch….Đối với sản xuất đường mật, nhà nước gần như là giảm 100% mức thuế suất thuế GTGT.
Một tác động rõ nét nhất là với thuế suất 0% việc hoàn thuế GTGT đã thiết thực hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc giảm bớt được giá thành, tạo điều kiện cạnh tranh thuận lợi hơn trên thương trường quốc tế. Thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu đã tích cực góp phần bảo vệ sản xuất nội địa và phát huy tiềm năng của nội lực kinh tế. Việc thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư và thuế TNDN có các mức miễn giảm thuế phải nộp khác nhau trong thời gian đầu cơ sở sản xuất mới được thành lập đã góp phần khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư. Tổng mức đầu tư xã hội năm 1999 bằng 141,1% năm 1998 và năm 2000 bằng 112% năm 1999 đã góp phần bảo đảm sự tăng trưởng về kinh tế.
1.2 Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế.
Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hoá xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế suất 0%. Một số loại hàng chịu thuế xuất khẩu như: gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ trồng rừng, bàn ghế, sản phẩm chế biến từ kim loại (dây đồng, dây nhôm ..) trong năm 1999 cũng được giảm thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với các biện pháp xuất khẩu như : Cho phép các doanh nghiệp sản xuất trong nước được xuất khẩu trực tiếp, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu... thì việc thực hiện luật thuế GTGT có tác dụng rõ nét nhất, trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu. Theo quy định của luật thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá xuất khẩu thực chất là Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999 số tiền đã hoàn thuế, tăng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 1.800 tỷ đồng.
Vì vậy trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng với sự cố gắng của các ngành, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và tác động của cơ chế chính sách nên tổng giá trị xuất khẩu của nước ta năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là 23,15% và năm 2000 dự kiến là 21,4%. Việc hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2.700 tỷ đồng và năm 2000 là 5.000 tỷ đồng trong đó những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như là: cao su 37,2%, cà phê 27,6%, gạo 21,4%, thuỷ sản 14,1%, rau quả 39,6%, giày dép 36,4%, dệt may 15,1%, thủ công mỹ nghệ 48,6%, điện tử 17,5% .
Thuế GTGT đánh vào hàng hoá nhập khẩu đã cùng với thuế nhập khẩu góp phần bảo hộ có hiệu quả sản xuất trong nước, đây là biện pháp hết sức quan trọng. Thực tế trong năm 1999, Việt nam đã giảm thuế nhập khẩu 569 lần mặt hàng với số thuế giảm gần 100 tỷ đồng và giảm thuế theo chương trình cắt giảm thuế quan CEPT 3591 dòng hàng (tính đến năm 1999) trong đó riêng năm 1999 là 1872 dòng hàng.Việc hoàn thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu năm 1999 là 2.700 tỷ đồng và năm 2000 là 5.000 tỷ đồng. Trong đó hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu lớn nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Những mặt hàng hoàn thuế nhiều như gạo, hạt tiêu, hàng dệt may, giày dép, hàng điện tử, hàng thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng xuất khẩu lớn.
Việc thực hiện luật thuế GTGT cùng với các luật thuế mới khác trong năm 1999 góp phần cơ cấu lại nền kinh tế được thể hiện rõ nét trên các mặt: hợp lý hoá và giảm số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, đạt và vượt mức lợi nhuận trung bình của xã hội. Thông qua việc ưu đãi đầu tư các luật thuế mới đã khuyến khích việc đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế theo định hướng phát triển của Nhà nước, thúc đẩy việc chuyên môn hoá, hợp tác hoá. Không còn đánh trùng thuế như thuế doanh thu trước đây, khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những hàng hoá mà Việt nam có thế mạnh như: nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ do được khấu trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 3% - 5% khi mua hàng của nông dân. Trường hợp nông sản, lâm sản, hải sản xuất khẩu nếu có thuế GTGT đầu vào cũng được hoàn thuế.
1.3 Không gây biến động về giá.
Trong hai tháng đầu áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, giá một số mặt hàng như lương thực, thực phẩm, công nghệ phẩm, dược phẩm… nhích lên so với tháng 12 năm 1998. Nhưng do Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp như: miễn thuế đối với hoạt động buôn chuyến lương thực, thực phẩm; tăng cường quản lý thị trường, dán tem hàng hóa, chống buôn lậu, chống hàng giả, thực hiện niêm yết giá… nên giá cả trở lại ổn định. Trong 2 năm giá cả không có biến động nhiều, cụ thể như: Năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tăng khoản 0,1% và năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng dự kiến chỉ tăng 1%. Trong đó giá hàng lương thực, thực phẩm liên tục giảm làm chỉ số giá hàng tiêu dùng giảm. Giá dầu mỏ trên thế giới tăng từ cuối năm 1999 và tăng cao hơn ở năm 2000 làm cho giá một số vật tư, nguyên liệu nhập khẩu tăng lên, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất trong nước.
1.4 Không ảnh hưởng đến kế hoạch thu NSNN.
Trong 2 năm 1999-2000 cơ quan thuế đã phải hoàn trên 9000 tỷ đồng tiền thuế GTGT nhưng ngành thuế vẫn đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán thu được giao (năm 1999 đạt 106,8%; năm 2000 đạt 109% và tăng 102% so với năm 1999, góp phần bảo đảm tỷ lệ tích luỹ tăng lên gấp đôi sau 10 năm, từ 14% GDP năm 1991 lên 27%-28% GDP vào năm 2000, duy trì được tỷ lệ động viên về thuế, phí, lệ phí trong 10 năm qua là 19,4% GDP. Những con số đó có ý nghĩa rất lớn, vừa góp phần trực tiếp tạo ra tốc độ tăng trưởng, vừa tạo ra một cách nhìn mới về cách thức và khả năng huy động nguồn lực phát triển đất nước trong tương lai.
Xét theo địa phương thì có 61/61 tỉnh, thành phố đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán năm nên khả năng các địa phương được thưởng lớn. Trong đó có 22/61 địa phương hoàn thành toàn diện cả 3 chỉ tiêu chủ yếu là thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh. Số địa phương hụt thu về thuế GTGT Ngân sách Trung Ương phải bù thêm chỉ có 14 địa phương và số phải bù cũng không lớn.
Tuy nhiên tỷ lệ động viên thuế và phí trên GDP của năm 1999 thấp (17,6%) chưa đạt được mức độ động viên theo nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra là 20% - 21% GDP.
1.5. Tổ chức tốt công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để từng bước thực hiện chính sách công bằng về thuế, Bộ Tài Chính đã điều chỉnh từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện được các mức thuế suất mới. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã thúc đẩy các doanh nghiệp, người kinh doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác mở sổ sách kế toán, ghi chép quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Trong năm 1999, số lượng hoá đơn các doanh nghiệp sử dụng tăng gần gấp đôi so với năm 1998 và mức sử dụng hoá đơn tăng thể hiện sự chuyển biến một bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến này thể hiện chuyển biến một bước tiến mới trong công tác sử dụng hoá đơn và quản lý của doanh nghiệp. Sự chuyển biến này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hộ kinh doanh cá thể. Hơn 30.000 tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hơn 200.000 hộ kinh doanh cá thể đã thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ chuyển từ hình thức nộp thuế khoán trước đây sang nộp thuế GTGT theo phương pháp kê khai trực tiếp.
Đối với 6.000 doanh nghiệp Nhà nước và hơn 2.400 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đã được củng cố, có nhiều tiến bộ so với các năm trước đây.
Do làm tốt hơn công tác kế toán, hoá đơn chứng từ, các đối tượng nộp thuế đã chủ động kê khai lập và nộp tờ khai thuế hàng tháng tương đối đầy đủ và đúng thời hạn. Hiện nay đã có thêm khoảng 200.000 hộ cá thể, doanh nghiệp loại lớn và vừa bắt đầu thực hiện chế độ hoá đơn để được nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và có căn cứ để thực hiện chế độ tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai và tự nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước, nâng dần được trách nhiệm và nghĩa vụ khai báo, nộp thuế theo quy định của pháp luật. Chính sách thuế mới đã gắn được quyền lợi và nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh, từng bước khắc phục tình trạng cán bộ quản lý cơ sở ở nhiều nơi đã làm thay công việc tính thuế, kê khai nộp thuế của cơ sở kinh doanh. Qua đó cơ quan thuế có thêm điều kiện để quản lý hoạt động kinh doanh tính thuế qua hệ thống máy vi tính để tập trung được cán bộ cho công tác đôn đốc, kiểm tra, xử lý vi phạm.
2. Những mặt còn tồn tại khi thực hiện thuế GTGT
Hiện nay ở nước ta, mặc du` Bộ tài chính đã có một số văn bản hướng dẫn về chế độ quản lý sử dụng, hoá đơn. Song việc mua bán, sử dụng hoá đơn như bán hàng không ghi hoá đơn, xuất khống hoá đơn đang có chiều hướng gia tăng, gây thất thu nghiêm trọng ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến môi trường sản xuất kinh doanhvà làm tha hoá biến chất một bộ phấn cán bộ trong cacs cơ quan nhà nước. Do việc kinh doanh không bị ảnh hưởng do thuế GTGT khi doanh số cao, nên nhiều doanh nghiệp đã mua hoá đơn GTGT, làm bộ hồ sơ xuất khẩu khống để xin hoàn thuế, hợp pháp hoá hàng nhập lậu. Nên đã thúc đẩy một số đối tượng thành lập doanh nghiệp chỉ để bán hoá đơn GTGT và tạo nên thị trường bán hoá đơn bất hợp pháp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhất là một số thành phố lớn, các tỉnh có cửa khẩu.
Với lượng hoá đơn sai phạm là 81.400 hoá đơn GTGT ( 2000-2002) thi` tổn thất của ngân sách nhà nước là hàng ngàn tỉ đồng.
Bên cạnh những kết quả đạt được khi thực hiện thuế GTGT ở Việt Nam thì vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế không chỉ về hoá đơn mà còn ở thuế suất, phương pháp tính, hoàn thuế… dẫn đến thất thu thuế. Có thể đưa ra những mặt hạn chế sau:
2.1. Về hoá đơn, chứng từ:
Đối tượng mua bán hoá đơn GTGT tráI phép gồm:
Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân và một số doanh nghiệp nhà nước.
Các đối tượng “cò” chuyên móc nối các Công ty trên và số đối tượng có nhu cầu để mua và bán.
Thủ đoạn sử dụng hoá đơn lập hồ sơ hoàn thuế khống là:
Lợi dụng chính sách hoàn thuế của nhà nước đối với các hàng hoá xuất khẩu là nông, lâm , thuỷ, hải sản, các đối tượng đã móc nối với các công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở thu mua chế biến hàng hoá xuất khẩu, ký khống hợp đồng mua bán, vận chuyển hàng hoá và mua hoá đơn GTGt để hợp pháp hoá việc mua bán, vận chuyển hàng hoá nội địa . Sau đó móc nối một số cán bộ hảI quan ở các cửa khẩu để xuất khống .
Lợi dụng các quy định về lập bảng kê thu mua hàng hoá nông, lâm, thuỷ, hải sản của những người trực tiếp sản xuất, các đối tượng đã lập khống các bảng kê này, sau đó xuất hoá đơn GTGT lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp ở nhiều địa phương khác nhau để giấu nguồn gốc, giá cả hàng hoá gây khó khăn cho công tác xác minh, điều tra của cơ quan chức năng.
Hợp pháp hoá các chứng từ khống trong mua sắm vật tư thiết bị, tài sản dùng vốn ngân sách nhà nước để tham ô, đặc biệt là trong xây dưng cơ bản. Đây là lĩnh vực lớn, phải sử dụng rất nhiều vốn của Nhà nước. Song các chủ thầu mua vật liệu sai với thiết kế, chất lượng kém của tư nhân, sau đó moc’ nối với các doanh nghiệp là các công ty TNHH, DNTN để ký các hợp đồng mua bán khống, xuất hoá đơn GTGT khống nâng khối lượng, đơn giá vật tư để quyết toán nhằm tham ô tiền của nhà nước. Ngoài ra, lợi dụng sự thông thoáng trong thuế VAT, tình hình buôn lậu xảy ra rát nghiêm trọng, với các thủ doạn như xe’ lẻ hàng hoá, thuê cửu vạn mang vác qua biên giới và sử dụng nhiều loại phương tiện vận chuyển hàng lậu vào các tỉnh nội địa để tiêu thụ, các đối tượng đã nhập lậu hàng hoá để trốn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT rồi móc nối với các doanh nghiệp tại biên giới đóng mọtt phần thuế và mua hoá đơn của các doanh nghiệp này để hoẹp pháp hoá nguồn gốc hàng lậu và vận chuyển hàng hoá vào nội địa tránh sự kiểm tra của các cơ quan chức năng. Thủ đoạn chính là chỉ ghi số lượng hàng hoá trên liên hoá đơn giao cho khách hàn và người mua hàng là tư nhân hoặc các hộ buôn bán nộp thuế khoán.
GTGT để nâng phần chi phí trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã mua hoá đơn của các công ty “ma” , nâng giá trị của hàng hoá xấp xỉ với giá của thị trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp khác nhau để Để trốn thuế thu nhạp doanh nghiệp, ngoài các thủ đoạn mua bán hoá đơn dấu đầu vào triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh. Ví dụ : Việc ghi giá bán trên hoá đơn thấp hơn giá bán tực tế xảy ra trên nhiều lĩnh vực, mặt hàng.
2.2.Về phương pháp tính thuế GTGT .
Các văn bản về thuế GTGT ở nước ta đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33952.doc