Chế độ chính trị vững vàng và ổn định là thuận lợi cơ bản nhất của chúng ta, là nhân tố tạo nền tảng và môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Qua những năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tuy chưa thật sự vận hành thông suốt, nhưng đã hình thành bước đầu. Quan hệ sản xuất, thể chế quản lý và phân phối đã có những thay đổi phù hợp hơn với kinh tế thị trường và trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát huy nội lực trong xây dựng, phát triển kinh tế. Nguồn lực phát triển của nước ta còn khá dồi dào về lao động, đất đai, nguồn vốn, tài nguyên, vùng biển, vị trí địa lý - kinh tế và địa lý - chính trị. Kết cấu hạ tầng tốt hơn những năm trước đây. Dân trí được nâng cao một cách đáng kể.
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5964 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và xử lý các vụ việc, các hành vi vi phạm pháp luật ở các DN. Công việc này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trực tiếp làm chức năng ĐKKD như Sở, Phòng Kế hoạch - Đầu tư (của huyện) với các Sở, Phòng, Ban quản lý các ngành lao động - xã hội, tài chính, công an, hải quan, viện kiểm sát, tòa án… ở địa phương.
Kinh nghiệm rút ra từ các địa phương thu hút được nhiều DNDD chính là thái độ “thân thiện” của chính quyền, trong việc sửa đổi các thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho DN.
6. Tổ chức, phát huy vai trò của các hiệp hội, câu lạc bộ DN
Đây là các hình thưc tổ chức xã hội - nghề nghiệp - kinh doanh được hình thành trên cơ sở tự nguyện tham gia của các thành viên, các DN. Nếu những tổ chức này mạnh sẽ có tác dụng thiết thực trong việc thông tin về thị trường kinh tế - kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường hợp tác, hỗ trợ nhau trong kinh doanh. Thông qua hiệp hội, câu lạc bộ DN mà các cơ quan nhà nước tuyên truyền, giáo dục cho các DN về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời tập hợp ý kiến, tâm tư nguyện vọng của DN để nghiên cứu, tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng QLNN. Do vậy, Nhà nước cần:
- Đánh giá lại và giúp đỡ về tổ chức và hoạt động của các hiệp hội, câu lạc bộ DN để các tổ chức này có chương trình, nội dung, phương thức hoạt động thiết thực, bổ ích.
- Tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật, thông tin thị trường; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cán bộ quản lý DN; trao đổi kinh nghiệm sản xuất – kinh doanh, kinh nghiệm quản lý; xây dựng triết lý kinh doanh và văn hóa DN đúng đắn.
- Tôn trong ý kiến đóng góp của các hiệp hội, câu lạc bộ, DN với cơ quan Đảng và Chính phủ, chính quyền địa phương về xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng ngành trong cả nước và địa phương trên địa bàn.
- Thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trước những can thiệp trái pháp luật của cơ quan, công chức nhà nước.
IV. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀ THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA
1. Vai trò của QLNN đối với phát triển thị trường và thương mại nội địa ở nước ta hiện nay
Vai trò của Nhà nước đối với phát triển thị trường và thương mại nội địa thể hiện ở các chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế như: tạo môi trường thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế cùng tham gia vào thị trường bình đẳng, định hướng sự phát triển của thị trường và thương mại nội địa, điều tiết sự vận động, phát triển của thị trường, kiểm soát sự hoạt động của nền kinh tế nói chung, của thị trường và thương mại nội địa nói riêng.
Trong nền KTTT, luôn có ba nhân tố là hệ thống thị trường, Nhà nước và các doanh nghiệp. Hệ thống thị trường vận hành theo cơ chế thị trường với những quy luật vốn có của nó. Nhà nước làm chức năng kích thích, điều tiết từ bên trong để tạo thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các doanh nghiệp hoạt động tự chủ trong thị trường, chịu sự tác động của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự hoạt động của các doanh nghiệp luôn bị chi phối bởi hai nhân tố là thị trường và Nhà nước. Do vậy, trình độ phát triển của thị trường và trình độ quản lý thị trường của Nhà nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự hoạt động, phát triển của các doanh nghiệp, đến sự phát triển của thương mại nội địa. Quan hệ Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp có thể đưa đến ba khả năng:
- Thị trường phát triển đầy đủ, đồng bộ, lành mạnh, Nhà nước quản lý, điều tiết nhịp nhàng, có hiệu lực, hiện thực hóa cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp sẽ hoạt động, phát triển thuận lợi, đúng hướng. Đây là mục tiêu phát triển kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay.
- Thị trường không phát triển, Nhà nước vẫn làm thay, can thiệp bằng mệnh lệnh, hành chính vào mọi hoạt động kinh tế, phân bổ các nguồn lực, trực tiếp điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp, hạn chế sự ra đời và phát triển của thị trường; có nguy cơ trở lại mô hình quản lý hành chính chỉ huy. Do vậy, thương mại nội địa cũng không có cơ hội để phát triển.
- Thị trường phát triển nhưng trình độ và khả năng điều tiết, quản lý của Nhà nước yếu kém, không có hiệu lực, dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý, Nhà nước mất khả năng điều tiết thị trường, các doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo sự điều tiết của "bàn tay vô hình" của thị trường, thậm chí phát triển trong sự hỗn loạn.
Hiện nay, trong nền kinh tế của nước ta, có nhiều nơi, có nhiều lĩnh vực QLNN bị buông lỏng, nhưng cũng có lúc QLNN lại can thiệp quá sâu gây cản trở, kìm hãm sự phát triển của thị trường, của doanh nghiệp.
Khác với những quốc gia có thị trường phát triển ở trình độ cao, cơ chế thị trường đã bộc lộ rõ tất cả những mặt mạnh, mặt yếu, những thuộc tính vốn có của nó, ở đó, Nhà nước chủ yếu điều tiết thị trường nhằm mục tiêu đã định. Ở nước ta hiện nay, kinh tế thị trường mới ở mức sơ khai, các yếu tố của thị trường chưa hình thành đồng bộ. Do vậy, Nhà nước vừa phải thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, vừa phải điều tiết thị trường. Hai nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, nhiệm vụ tạo lập hệ thống thị trường đẩy đủ, đồng bộ là nhiệm vụ cơ bản nhất. Việc ra đời và phát triển thị trường ở nước ta phải gắn liền với sự quản lý của Nhà nước.
Vai trò thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị trường và thương mại nội địa của Nhà nước ở nước ta hiện nay, thể hiện trên hai mặt:
Một là, Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh phát triển. Trên cơ sở có nền kinh tế hàng hóa phát triển, hệ thống thị trường và cơ chế thị trường sẽ đẩy đủ và hoàn thiện. Khi đó Nhà nước có vai trò như "bà đỡ”, không ra lệnh, không tác động trực tiếp, mà cho phép, bảo hộ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nền KTTT phát triển. Nhà nước cần tác động hợp với các quy luật của thị trường.
Hai là, Nhà nước như một nhân tố từ bên trong, trực tiếp tham gia vào việc hình thành và phát triển các loại thị trường, bằng các nguồn lực của mình. Nhà nước xuất hiện như một sức mạnh, một nhân tố chủ động của thị trường, lúc đó, Nhà nước thật sự trở thành "một nhà buôn sỉ" như Lê-nin đã từng nói.
Cả hai mặt này có quan hệ mật thiết với nhau, cùng hướng vào mục tiêu chung là thúc đẩy hệ thống thị trường và thương mại nội địa ở nước ta phát triển. Sự tác động như vậy sẽ giúp Nhà nước thực hiện được cả hai chức năng: đẩy nhanh sự ra đời và phát triển các loại thị trường, đồng thời ngay từ đầu Nhà nước đã điều tiết được thị trường và các hoạt động thương mại nội địa.
Cũng giống như quá trình thúc đẩy sự ra đời, phát triển hoàn thiện các yếu tố thị trường và thương mại nội địa, mọi tác động điều tiết, quản lý của Nhà nước được thực hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, Nhà nước điều tiết thị trường thông qua luật pháp, chính sách và các công cụ điều tiết khác, bao gồm: quan điểm, chiến lược phát triển, pháp luật, kế hoạch và quy hoạch phát triển, chính sách, bộ máy và cán bộ quản lý, các nguồn lực quốc gia như: dự trữ quốc gia, tài nguyên thiên nhiên,… Để thúc đẩy sự ra đời, phát triển, hoàn thiện hệ thống thị trường, thương mại nội địa, Nhà nước trước hết phải có sự nhất quán từ lý luận đến thực tiễn về chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước cần đưa ra được những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào hệ thống thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế khác nhau. QLNN phải kích thích được sự hợp tác, liên kết, hỗ trợ nhau giữa các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Nhà nước thông qua các công cụ quản lý của mình xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật và gian lận thương mại. Nhà nước cũng cần có những biện pháp điều hòa lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường và lợi ích chung của xã hội, thông qua các chính sách: thuế, hệ thống bảo hiểm,... để Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích này. Bảo vệ lợi ích của người lao động, người tiêu dùng, kiểm soát và hạn chế độc quyền kinh doanh cũng là những nội dung mà QLNN trong kinh tế thị trường phải chú trọng.
Mặt khác, Nhà nước trực tiếp tham gia vào thị trường như một nhân tố, một sức mạnh từ bên trong để điều chỉnh thị trường. Nhà nước, thông qua lực lượng vật chất, các nguồn lực kinh tế của mình tác động trực tiếp vào thị trường và thương mại nội địa. Trong nền KTTT theo định hướng XHCN, kinh tế nhà nước là một bộ phận đặc biệt của nền kinh tế quốc dân. Bằng lực lượng kinh tế của mình, Nhà nước có thể đầu tư phát triển mạnh một ngành, một lĩnh vực, một vùng, một loại thị trường nào đó. Đồng thời, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để Nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm những cân đối lớn, những định hướng kinh tế - xã hội, chính trị của toàn bộ nền kinh tế, là lực lượng cơ bản đảm bảo khả năng định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, do đó, tất yếu thúc đẩy thị trường và thương mại nội địa phát triển. Kinh tế nhà nước còn giúp Nhà nước khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, điều chỉnh các "lỗ hổng" trong quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra. Trong các lĩnh vực rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đầu tư vào, như: đầu tư kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường,... thường kinh tế nhà nước phải trực tiếp đảm nhận.
Khu vực kinh tế nhà nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cơ bản nhất. Các doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể trực tiếp tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng nòng cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước vừa là các đơn vị kinh tế tự chủ, độc lập, vừa là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước để Nhà nước thúc đẩy sự ra đời, phát triển đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, thúc đẩy sự phát triển của thương mại nội địa.
Với cách điều tiết thứ nhất, Nhà nước tạo ra những hành lang, những rào chắn cần thiết để định hướng sự vận động của thị trường và thương mại nội địa. Với cách điều tiết thứ hai, Nhà nước dùng chính sức mạnh kinh tế của mình tác động hợp quy luật của thị trường để định hướng sự vận động của nó. Nếu sự tác động của Nhà nước để thúc đẩy thị trường phát triển có hiệu quả thì tác động điều chỉnh vận động của thị trường cũng có hiệu lực và ngược lại.
Quá trình Nhà nước tham gia thúc đẩy sự ra đời, phát triển thị trường và thương mại nội địa, cũng như quá trình Nhà nước điều tiết thị trường đồng thời là quá trình phát hiện những khiếm khuyết của thị trường và những thiếu sót của bản thân QLNN đối với thị trường và thương mại nội địa. Trên cơ sở đó, Nhà nước có những điều chỉnh, khắc phục kịp thời.
Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Quá trình này diễn ra rất phức tạp, khó khăn. Bởi vì, bản thân quá trình chuyển đổi là quá lớn, sâu sắc, toàn diện; đồng thời còn do chủ thể quản lý chưa có kinh nghiệm, chưa có kiến thức, lại phải tự đấu tranh với chính bản thân mình. Chủ nghĩa tư bản, để có được hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và ở trình độ cao như hiện nay, đã phải trải qua sự vận động, phát triển hàng trăm năm. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua giai đoạn TBCN mà quá độ tiến thẳng lên CNXH, xuất phát điểm của nền kinh tế rất thấp. Không những thế, nền kinh tế lại phải trải qua mấy thập kỷ phát triển theo hướng kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, không có quan hệ hàng hóa, tiền tệ, xóa bỏ hẳn thị trường, kỳ thị với thị trường... Chính vì vậy, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của nước ta sẽ gặp khó khăn gấp bội. Chúng ta không chỉ đi từ thấp đến cao, mà còn phải chuyển đổi từ cái cũ sang cái mới, từ trong tư duy đến cách làm. Để thực hiện tốt chức năng của mình, QLNN không chỉ học cách tác động, điều tiết thị trường hiệu quả mà còn phải tự đổi mới chính bản thân mình, đổi mới từ tư duy đến hành động.
Ngày nay, trước yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra đối với QLNN càng to lớn. Quá trình CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời gắn liền với quá trình chuyển đổi, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thành công cũng là điều kiện, tiền đề thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò QLNN đối với phát triển thị trường và thương mại nội địa theo mục tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay
Để nâng cao vai trò QLNN về phát triển thị trường và thương mại nội địa theo mục tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:
- Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính nhằm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất - kinh doanh. Đây là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế thị trường.
- Tiếp tục hoàn thiện các môi trường kinh doanh thuận lợi cho thị trường và hoạt động thương mại nội địa phát triển, như: xây dựng kết cấu hạ tầng (đường giao thông, điện nước, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại...) tạo điều kiện cho thị trường và thương mại nội địa phát triển ở khắp các vùng trong cả nước, nhất là khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa...
- Mở rộng phân công lao động, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng CNH, HĐH. Phát triển kinh tế thị trường cũng như thương mại nội địa cần khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn và tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập của dân cư, tăng sức mua trong thị trường nội địa.
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường, tiếp tục phát triển các loại thị trường như thị trường hàng hóa và dịch vụ (bao gồm cả tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, dịch vụ cho sản xuất, dịch vụ cho đời sống), thị trường sức lao động, thị trường vốn (cả vốn ngắn hạn và vốn dài hạn), thị trường bất động sản, thị trường công nghệ, thông tin, sở hữu trí tuệ,... để có cơ chế thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Khuyến khích nhiều người sẵn sàng trở thành nhà kinh doanh, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; xây dựng thị trường xã hội thống nhất và thông suốt cả nước, thúc đẩy thương mại nội địa phát triển.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia; cải cách hệ thống thuế để vừa đảm bảo chống thất thu thuế vừa có tác dụng nuôi dưỡng nguồn thu, vừa kích thích sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường; sử dụng linh hoạt, có hiệu quả, các công cụ chính sách tiền tệ như: tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ ngân hàng tiện lợi, thông thoáng đến các doanh nghiệp và mọi người dân có nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh, chú trọng khu vực nông nghiệp và nông thôn, đồng thời có những biện pháp hạn chế và khắc phục những rủi ro trong kinh doanh. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp nhà nước.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ QLNN về kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa với nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt, hiệu quả, vừa bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế, vừa tranh thủ các nguồn lực, kỹ thuật công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế đất nước.
- Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước, phát hiện và phòng ngừa có hiệu quả nạn tham nhũng, tiêu cực, gian lận thương mại làm rối loạn thị trường.
V. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta chủ trương phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT).
Để chủ động HNKTQT là nâng cao hiệu quả QLNN trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, cần chú trọng những vấn đề sau:
Xây dựng chiến lược HNKTQT
Chiến lược mở rộng kinh tế đối ngoại và HNKTQT là một phần của chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Cần xây dựng và thực hiện một chiến lược mở rộng kinh tế đối ngoại, chủ động HNKTQT với định tính và định lượng rõ ràng, đủ tầm nhìn xa, rộng và tính thiết thực, trong đó có chủ trương với từng đối tác, đặc biệt là những đối tác lớn, từng lĩnh vực hội nhập, từng vấn đề phải xử lý, từng cam kết phải thực hiện, từng cơ hội phải tận dụng, từng trở ngại phải vượt qua…, có lộ trình xác định đúng ưu tiên, những bước đi và biện pháp thực hiện, vạch rõ các tác nhân theo một sự phân cộng hợp lý, các phương tiện và cách thức thi hành, bao gồm cả cách thức kiểm tra và đánh giá kết quả. Trong chiến lược HNKTQT, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một bước rất quan trọng.
Xây dựng và thực hiện quy hoạch
Để bảo đảm tính thống nhất của cả 3 loại quy hoạch (phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng đất, phát triển đô thị và nông thôn) ở cấp quốc gia, quy hoạch phải do Chính phủ nắm, các ngành trung ương có trách nhiệm phối hợp. Chính phủ chỉ quyết định những quy hoạch lớn có tính nguyên tắc, định hướng phát triển các ngành, vùng lớn và có tính liên ngành, liên vùng. Quy hoạch vùng (không có cấp hành chính) do Trung ương quản lý, điều phối. Quy hoạch tỉnh phải tuân theo quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, nhưng cần tránh chia cắt theo địa giới hành chính mà phải liên kết các tỉnh trong vùng. Tỉnh phải quản lý quy hoạch từ tỉnh cho đến huyện.
Cần bỏ lối quy hoạch hành chính, áp đặt, không khả thi, không tính đến nhu cầu của thị trường. Quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu HNKTQT, thị trường trong nước và ngoài nước; thế mạnh và chỗ yếu của sản phẩm nước ta trong từng giai đoạn; từ đó có bước đi và lộ trình nâng cao khả năng cạnh tranh cho từng sản phẩm ở từng vùng. Quy hoạch phải được hiệu chỉnh kịp thời đáp ứng thay đổi nhu cầu của thị trường.
Quy hoạch phải được dân chủ hóa, công khai hóa. Cần đề cao vai trò Hội đồng nhân dân trong việc xem xét, xác định quy hoạch cụ thể tại địa phương, đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện quy hoạch.
Cần có quy định phân cấp quản lý quy hoạch mạnh hơn cho các cấp chính quyền địa phương; làm rõ trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền cấp tỉnh và các cấp dưới theo nguyên tắc: phân cấp công việc gắn liền với phân cấp về tổ chức, cán bộ và ngân sách; phân cấp thẩm quyền đi liền với xây dựng nguyên tắc, quy chế giải quyết công việc để công tác hành chính vừa tuân thủ sự thống nhất về thể chế, vừa sâu sát với dân và dân dễ kiểm tra.
Xây dựng thể chế
Cần đổi mới hệ thống thể chế để không bảo hộ quá đáng các DNNN, không dung dưỡng độc quyền và bao cấp có hại; cần mở rộng sự tham gia cho khu vực tư nhân, đối xử thỏa đáng với hoạt động đầu tư kinh doanh của người nước ngoài tại Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho HNKTQT đúng đắn; tiến hành những cuộc đàm phán và ký kết về hội nhập kinh tế song phương và đa phương, tổ chức chỉ đạo cuộc HNKTQT của cả nước, phấn đấu giành thành quả cao nhất, bảo đảm định hướng và các nguyên tắc của chế độ, bảo vệ lợi ích của Việt Nam.
Nhà nước cần hướng dẫn cụ thể để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa và dịch vụ, lựa chọn những sản phẩm có khả năng, triển vọng cạnh tranh thắng lợi, theo một chương trình có mục tiêu, biện pháp và bước đi rõ ràng.
Xây dựng pháp luật phục vụ việc gia nhập WTO
Sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) tương thích với các nguyên tắc, quy định của WTO và phù hợp với các thỏa thuận song phương đã cam kết khi đàm phán gia nhập WTO là việc cần thực hiện khẩn trương và ưu tiên hàng đầu. Những văn bản này bao gồm: Hạ thấp hàng rào thuế quan; mở cửa thị trường; cam kết thực thi Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIMs), Hiệp định trị giá, Hiệp định về các rào cản thương mại (TBT).
Trong quý I năm 2005, Chính phủ đã xin ý kiến Quốc hội về Chương trình xây dựng pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia nhập WTO. Theo chương trình này, có 26 luật và 4 pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung và làm mới, trong đó đáng chú ý là đề nghị thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (sửa đổi) vào tháng 10 - 2005; bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) và Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) vào Chương trình trình Quốc hội thông qua tháng 10-2005.
Để các VBQPPL có chất lượng và tính khả thi cao, cần cải tiến việc tổ chức soạn thảo theo hướng tăng cường thu hút các chuyên gia giỏi, tập hợp ý kiến của những người trực tiếp thi hành pháp luật và huy động trí tuệ của các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp tham gia. Điều quan trọng nhất là cơ quan được giao soạn thảo văn bản phải “gạn hết sạn” thuộc về kĩ thuật, nêu được những vấn đề cốt lõi về cái được, cái mất khi gia nhập WTO. Trường hợp chưa chuẩn bị kịp những văn bản quy phạm pháp luật thuộc diện sửa đổi, bổ sung thì có thể chuẩn bị một Luật sửa đổi, bổ sung cho nhiều luật. Cách làm này đòi hỏi các chuyên gia soạn thảo phải nắm được các cam kết đa phương, song phương mà Việt Nam sẽ phải thực hiện khi gia nhập WTO và hiểu biết tường tận các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Tiếp tục đổi mới QLNN đối với DNNN trong quá trình hội nhập
Hiện nay DNNN đang có mặt trong hầu hết những lĩnh vực quan trọng như công nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cung ứng những dịch vụ cơ bản, nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư nhà nước, 60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài, trên 90% tổng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài và phần lớn nguồn nhân lực có chất lượng cao. Để phát huy vai trò của DNNN trong việc mở rộng kinh tế đối ngoại và HNKTQT, công tác QLNN cần hướng trọng tâm vào việc ban hành thể chế và nâng cao chất lượng cổ phần hóa DNNN thông qua việc thực hiện những chính sách mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX của Đảng: cổ phần hóa cả những tổng công ty và DNNN lớn, tránh cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, niêm yết các DNNN đã cổ phần hóa trên thị trường chứng khoán…
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX, các cơ quan QLNN phải có chương trình, kế hoạch giảm ngay và tiến tới xóa bỏ đặc quyền kinh doanh bất hợp lý đang được áp dụng cho DNNN (như các ưu đãi về cho thuê đất, vay ngân hàng không có thế chấp, được cấp tín dụng ưu đãi và được khoanh nợ, xóa nợ khi làm ăn thua lỗ…). Đây là việc làm để tạo một “sân chơi” cho mọi loại hình doanh nghiệp được cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử, một nguyên tắc cơ bản của WTO mà Việt Nam cần thực hiện. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia sản xuất, cung ứng dịch vụ công theo phương thức đặt hàng hoặc đấu thầu, trừ những sản phẩm, dịch vụ công ích hoặc nhiệm vụ quốc phòng, an ninh do công ty quốc phòng, an ninh đảm nhận.
Cần có quy định cụ thể để không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp; tách các hoạt động thuộc độc quyền nhà nước như mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, hệ thống truyền tải điện quốc gia… khỏi các tổng công ty kinh doanh trong lĩnh vực này; điều tiết thu nhập siêu lợi nhuận do được kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền và đặc quyền.
Tăng cường giám sát, nhất là giám sát tình hình tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh việc ban hành cơ chế giám sát của cộng đồng (người hưởng thụ và thông tin đại chúng), cần nghiên cứu thực hiện việc giám sát của bạn hàng (ngân hàng, bên thực hiện hợp đồng ) và đối thủ cạnh tranh.
Tiếp tục loại bỏ cơ chế “chủ quản”. Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã đề ra chủ trương nghiên cứu thành lập công ty đầu tư tài chính của nhà nước và cơ quan QLNN để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đầu tư vào mọi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Thực hiện chủ trương này chính là tạo điều kiện để các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chuyển từ chức năng quản lý theo cơ chế “chủ quản” sang thực hiện chức năng QLNN đối với DNNN như đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.doc