Chuyên đề Tình hình QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả

Mục lục

Lời nói đầu 1

Chương 1: Thực trạng QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả 2

1.1 Giới thiệu chung về BQLDA phát triển chè và cây ăn quả 2

1.1.1 Sơ lược về cơ quan chủ quản 2

1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của BQLDA chè-quả 3

1.1.3 Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của BQLDA chè-quả 3

1.1.3.1 Cơ cấu tổ chức 3

1.1.3.2 Chức năng, nhiệm vụ 4

1.1.4 Giới thiệu chung về các dự án mà BQL đã tham gia 6

1.1.5 Sự cần thiết phải thực hiện công tác QLDA 6

1.2 Thực trạng QLDA tại BQLDA chè-quả 7

1.2.1 Quản lý theo chu kỳ dự án 7

1.2.1.1 Đặc điểm chung của QLDA nông nghiệp 7

1.2.1.2 Giai đoạn chuẩn bị đầu tư 9

 Ước tính chi phí và kế hoạch cấp tài chính 9

 Quản lý huy động vốn 10

 Xây dựng cơ chế QLDA 13

 Cải cách thể chế 13

1.2.1.3 Giai đoạn thực hiện đầu tư 14

 Quản lý giải ngân vốn 14

 Phối hợp với các cơ quan quản lý khác 21

 Quản lý thực hiện các tiểu hợp phần 25

 Kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện dự án 28

1.2.1.4 Giai đoạn kết thúc dự án 29

 Đánh giá kết thúc dự án 29

 Kiểm toán và quyết toán vốn 30

1.2.2 Quản lý dự án theo lĩnh vực chủ yếu 30

1.2.2.1 Quản lý phạm vi 30

1.2.2.2 Lập kế hoạch tổng quan 33

1.2.2.3 Quản lý nhân lực 35

1.2.2.4 Quản lý chất lượng 37

1.2.2.5 Quản lý thông tin 39

1.2.2.6 Quản lý rủi ro 40

1.3 Đánh giá chung 41

1.3.1 Những kết quả đạt được 42

1.3.1.1 QLDA theo chu kỳ 42

 Huy động và giải ngân vốn 42

 Phối hợp với các đơn vị khác 43

 Quản lý vi mô thực hiện dự án 44

 Đánh giá dự án 45

1.3.1.2 QLDA theo lĩnh vực chủ yếu 46

 Quản lý phạm vi 46

 Quản lý nhân lực 46

1.3.2 Tồn tại và nguyên nhân 47

1.3.2.1 QLDA theo chu kỳ 47

 Huy động và giải ngân vốn 47

 Phối hợp với các đơn vị khác 51

 Quản lý vi mô thực hiện dự án 52

 Giám sát, đánh giá dự án 55

1.3.2.2 QLDA theo lĩnh vực chủ yếu 56

 Quản lý phạm vi 56

 Quản lý nhân lực 57

Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả 59

2.1 Định hướng 59

2.1.1 Nhiệm vụ của BQL trong thời gian tới 59

2.1.2 Thuận lợi và khó khăn 67

2.2 Một số giải pháp và kiến nghị 71

2.2.1 QLDA theo chu kỳ 72

2.2.1.1 Huy động và giải ngân vốn 72

2.2.1.2 Phối hợp với các đơn vị khác 75

2.2.1.3 Quản lý vi mô thực hiện dự án 79

2.2.1.4 Giám sát, đánh giá dự án 81

2.2.2 QLDA theo lĩnh vực chủ yếu 83

2.2.2.1 Quản lý phạm vi 83

2.2.2.2 Lập kế hoạch 87

2.2.2.3 Quản lý chất lượng 89

2.2.2.4 Quản lý nhân lực 91

Kết luận 95

 

 

doc103 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1136 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ 25 triệu đồng/năm lên 36 triệu đồng năm 2003. Một số BQLDA cấp tỉnh đã sử dụng phần tăng thêm này để thuê thêm một số cán bộ thực địa tại cấp huyện và xã chứng tỏ bộ máy tại cấp tỉnh đã hoạt động tốt. - Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: việc huy động thêm được nguồn vốn của các đơn vị hợp phần và đặc biệt là của Bộ NN&PTNT đã thể hiện tính trách nhiệm và sự quan tâm của Bộ, góp phần đem lại hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các hoạt động dự án. Phối hợp với các đơn vị khác (*) Đối với dự án chè-quả: - Có sự phối hợp tốt giữa các BQLDA, các cơ quan tài chính của Chính phủ, các đơn vị tài chính tư nhân, các trường/Viện nghiên cứu do đó không có sự biến động nhiều trong quá trình thực hiện dự án. Dự án có tính phù hợp, nhất quán tính từ lúc thẩm định đến lúc hoàn thành dự án, phù hợp với chương trình và chiến lược Quốc gia của ADB, các mục tiêu phát triển Quốc gia, có tính hợp lý trong thiết kế và có tính đầy đủ trong quá trình xây dựng dự án. - Các trang thiết bị của dự án đều được mua theo hướng dẫn của ADB mặc dù các hướng dẫn này thiếu thân thiện, không linh hoạt cho các các nhà cung cấp Việt nam - một phần nguyên nhân gây trì hoãn. Việc mua trang thiết bị phục vụ nghiên cứu kỹ thuật cho các viện thường thấp hơn so với dự toán, chi phí thực tế về xây lắp, thiết bị, xe cộ đều giảm 19% so với kế hoạch ngân sách. - Công tác cải cách chính sách và thể chế cũng được triển khai một cách hiệu quả hơn vì có sự thống nhất giữa VBARD, CPMU, các PPMU, các viện nghiên cứu và các cơ quan của Chính phủ ngay từ khi bắt đầu thực hiện dự án. Một kế hoạch hành động có khung thời gian rõ ràng cho công việc thực hiện công tác cải cách này và các điều kiện giải ngân cũng đã được thống nhất ngày từ thời điểm ban đầu của dự án - Các quy định và thủ tục về thực hiện dự án đã được BQLDA chè-quả thống nhất và phổ biến cho các BQLDA địa phương ngay từ đầu, điều này đóng góp rất quan trọng cho sự thành công của dự án. Tiến độ về tăng cường xây dựng năng lực được triển khai kết hợp với quá trình thực hiện dự án rất hữu ích trong việc đẩy nhanh tiến độ dự án. Việc phân cấp thực hiện dự án đã giúp địa phương có tính chủ động ở mức nào đó. BQLDA trung ương đóng vai trò then chốt trong công tác theo dõi và giám sát dự án, giúp tạo điều kiện thúc đẩy công việc. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Tiến độ thực hiện dự án đươc đảm bảo rất tốt. Những kết quả đạt được là phù hợp với mục tiêu lớn ban đầu của dự án. Kết quả này đạt được là do có sự tổ chức hợp lý, cơ cấu quản lý, hợp tác tốt giữa các cơ quan thực hiện dự án - Dự án này đã có sự hợp tác với một số dự án khác do GTZ tài trợ ở Việt Nam như: “dự án lâm nghiệp xã hội” tại Sơn La và Lai Châu, “dự án quy hoạch phát triển vùng” tại Hà Tĩnh; các dự án ở Trung Quốc như: “dự án phát triển khoai tây Quinghai” (thăm quan, trao đổi thông tin, hội thảo về nhân giống nhanh), và ở Đức với chương trình “quản lý sâu bệnh tổng hợp”. Ngoài ra dự án đang tiếp tục nhận được sự giúp đỡ của “Trung tâm khoai tây quốc tế” tại Peru. Quản lý vi mô thực hiện dự án - Công tác thực hiện hợp phần phi tín dụng (do BQLDA chè-quả điều hành) được xếp ở mức thỏa mãn. Tiến độ thực hiện dự án là tương đối tốt mặc dù, có sự chậm chễ về mặt thủ tục trong công tác điều hành dự án đã khiến cho dự án bị trì trệ trong năm đầu nhưng do các vấn đề về thủ tục đã được nhanh chóng giải quyết nên từ các năm sau, dự án đã đạt được nhiều tiến độ khả quan. - Dự án đã cho vay tín dụng để phát triển 1.222 vườm ươm thương mại cao hơn 7 lần so với mục tiêu yêu cầu tại giai đoạn thẩm định (150 vườn ươm). Số lượng nhà máy chè đen và chè xanh đã được phục hồi đúng bằng mục tiêu đề ra (2 nhà máy cho mỗi loại). Tuy nhiên, số lượng các cơ sở chế biến chè xanh quy mô nhỏ được nâng cấp là 6.156 cơ sở đạt 747% mục tiêu đề ra (727 cơ sở); và số lượng các cuộc hội thảo tập huấn về chế biến chè được dự án tài trợ là 493 cuộc hội thảo cao hơn 19 lần so với mục tiêu. - Các nhà thầu và nhà cung ứng xây lắp nói chung đều thực hiện tốt và hoàn thiện công việc của mình đúng thời gian. Các hợp đồng được trao thẩu đều thông qua đấu thầu cạnh tranh trong nước và theo báo cáo, không có trường hợp nào không hoàn thành hay bị phạt vì sự chậm chễ trong quá trình hoàn thành thi công công trình. Việc thực hiện của các nhà thầu và nhà cung ứng xây lắp được xếp ở mức hài lòng. - Về cung cấp thông tin thị trường: Dự án đã xây dựng các hệ thống thông tin thị trường tại tất cả các tỉnh nhằm phổ biến các thông tin về các chủ đề đồng sở thích của bà còn nông dân. Công tác này được tiến hành kết hợp với đài phát thanh và truyền hình địa phương. Các hình thức phổ biến thông tin khác bao gồm các bản tin, tờ rơi, tập san cũng đã được phổ biến cho các cơ quan Nhà nước, cán bộ kỹ thuật và nông dân nhằm cập nhật các xu hướng và tình hình phát triển thị trường hiện nay. Có tổng cộng 29.700 tạp chí và 84.800 cuốn sách nhỏ đã được phân phát cho nông dân trồng chè và cây ăn quả. Khoảng 40.000 bản tin đã được phát thanh trên các trạm phát thanh địa phương và các phương tiện phát thanh cấp thôn bản. Nhằm hỗ trợ nông dân ổn định về giá trong suốt thời gian vụ mùa, một số tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi bằng cách tổ chức cho các thương nhân và bà con nông dân gặp mặt trước vụ mùa để ký kết các hợp đồng mua bán chè (tỉnh Thái Nguyên) và quả (tỉnh Bắc Giang). Đánh giá dự án - BQL đã thực hiện tốt công tác đánh giá giữa kỳ, làm cơ sở để rút kinh nghiệm cho các kỳ tiếp theo của dự án. Tuy vậy việc đánh giá dự án phát triển chè và cây ăn quả mất khá nhiều thời gian do đay là một dự án có quy mô lớn và thực hiên trong thời gian dài. Dự án kết thúc phần kỹ thuật từ T12/2007 nhưng phải đến cuối năm 2008 thì BQLDA chè-quả mới hoàn thành xong các thủ tục đánh giá dự án, thanh quyết toán vốn và lập báo cáo đánh giá cuối kỳ. - Với cả 2 dự án, BQL đều hoàn thành kịp thời các báo cáo đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ trong đó nêu lên được các khó khăn và đề xuất định hướng cho giai đoạn sau. QLDA theo lĩnh vực chủ yếu Quản lý phạm vi Mục tiêu của dự án được đánh giá là nhất quán với chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ theo tiến trình cải cách chuyển dịch từ nền kinh tế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị trường tự do. Thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính và tăng cường các hoạt động phát sinh thu nhập ở nông thôn, dự án này đã góp một phần đáng kể vào việc thành lập các doanh nghiệp mới và mở rộng tiến trình hiện đại hoá ở các doanh nghiệp đang hoạt động, từ đó làm giảm bớt sự cách biệt thu nhập đang gia tăng giữa thành thị và nông thôn. Thành công bước đầu của dự án, theo ADB là chấp nhận khoản vay phụ dành cho việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dự án này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết công ăn việc làm ở nông thôn bằng cách tạo ra 376.000 việc làm, đạt 460% chỉ tiêu ban đầu. Phần lớn các chỉ tiêu khác trong khung theo dõi và thiết kế đều đã đạt được, một số chỉ tiêu đã đạt gấp 2-3 lần yêu cầu. Nhìn chung, dự án này có thể được đánh giá có tính phù hợp cao, đạt được chỉ tiêu lợi nhuận đề ra và đi đúng hướng. Quản lý nhân lực Cùng với việc giới thiệu các cuốn cẩm nang hướng dẫn và các khoá hội thảo tập huấn đã giúp cho nông dân có được cơ hội học tập các mô hình canh tác trong nước và nước ngoài . Một chuyến thăm quan học tập tại Thái Lan đã được tổ chức vào đầu năm 2003 giúp các thành viên của đoàn có cơ hội học hỏi kinh nghiệm về các tập quán canh tác, chế biến và tiếp thị sản phẩm cây ăn quả. Chuyến thăm quan này đã được tỉnh Tiền Giang rất quan tâm và đã tự tổ chức một chuyến tương tự bằng nguồn vốn riêng của tỉnh với 31 thành viên tham gia gồm các Lãnh đạo tỉnh/huyện, cán bộ Sở và nông dân chủ chốt. Chuyến thăm quan học tập về chè gồm 29 người đã được tổ chức tới nhiều nước có kinh nghiệm về chế biến và trồng chè. Có tổng số 74 người đã tham gia các chuyến thăm quan học tập nước ngoài trong đó có 15 phụ nữ. Có tổng số 1.945 người trong đó có 475 phụ nữ và 299 người dân tộc thiểu số đã có cơ hội thăm quan các vùng trồng chè tại các tỉnh khác thuộc Việt Nam. Có tổng số 1.117 người đã được tiếp thu thêm kinh nghiệm về trồng cây ăn quả trong khi có 805 người được tiếp thu thêm kinh nghiệm về trồng và chế biến chè. Các chương trình đào tạo, các chuyến thăm quan học tập được thiết kế tốt đã hỗ trợ tích cực cho công tác thực hiện dự án. Hệ quả của công tác đào tạo tiểu giáo viên là các cán bộ khuyến nông cao cấp đã được sử dụng để tiếp tục chuyển giao kiến thức cho các xã trong đó có các sự tham gia của các cán bộ thuộc quỹ tín dụng nhân dân và bà con nông dân. Số cán bộ của BQLDA chè-quả và các BQLDA tỉnh được đào tạo là cao hơn gấp 2 lần so với mục tiêu (70 cán bộ so với 33 cán bộ theo mục tiêu đã thẩm định). Tồn tại và nguyên nhân QLDA theo chu kỳ Huy động và giải ngân vốn - Mức lương cơ bản được nhà nước điều chỉnh tăng 2 lần vào năm 2005 và 2008 nên chi phí tiền lương đã tăng hơn so với dự kiến ban đầu và cần làm các thủ tục điều chỉnh tổng vốn đầu tư của dự án. - Trong giai đoạn giá cả vật tư leo thang, các nhà thầu có yêu cầu được trợ giá nhưng các thủ tục xét duyệt, ra quyết định mất nhiều thời gian vừa gây thiệt hại về tiến độ vừa là tình trạng trượt giá trầm trọng thêm. - Về quản lý tài chính: cơ chế quản lý tài chính dự án chè-quả ban đầu có gặp khó khăn do việc xác định loại dự án (hành chính sự nghiệp hay xây dựng cơ bản). Ngoài ra, ở Việt Nam chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các cán bộ tham gia quản lý tài chính và tác nghiệp dự án. Điều này dẫn đến một thực tế rất nhiều cán bộ và chuyên viên tham gia quản lý và tác nghiệp có vai trò rất lớn đến thực hiện dự án nhưng lại không chịu trách nhiệm khi dự án bị chậm trễ. - Việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với dự án ODA còn nhiều bất cập, do hướng dẫn chưa thật đầy đủ, chính sách thuế đối với các dự án cũng còn có chỗ chưa phù hợp với các quy định trong Hiệp định vay vốn, nhất là đối với việc tính thuế tư vấn kể cả trong nước và quốc tế. - Có một sự lưỡng lự giữa việc áp dụng mức lãi suất thị trường và sự tiếp cận của nông dân nghèo. Trong khi các quỹ cho vay nhìn chung đang được áp dụng theo chỉ số thương mại thông thường được quy định bởi các chi nhánh của VBARD trong khuôn khổ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt, một vài PPMU vẫn còn phản ánh rằng nông dân, đặc biệt nông dân ở vùng sâu vùng xa (khu vực II và III), thường nhận vay vì lãi quá cao. Theo cuộc thăm dò ý kiến của bà con nông dân có xem xét đến sự tận dụng quỹ vay, các chi nhánh của VBARD đã có điều chỉnh lãi suất theo thị trường ở địa phương. Một số tỉnh cũng cung cấp ngân sách hỗ trợ cho nông dân theo hình thức phụ cấp tính lãi dành cho sản phẩm trồng trọt và tăng cường năng lực khác nhau đối với người vay phụ. - Trong quá trình thực hiện dự án, việc thiếu vốn vay dài hạn cho chế biến và sản suất là trở ngại chủ yếu cho sự phát triển. Do đặc điểm của chè và cây ăn quả là các cây dài ngày trong khi đó VBARD chỉ cung cấp một khoản tín dụng trung hạn hạn chế với điều kiện vay không phù hợp với nhu cầu của ngành này. Ngân hàng không muốn cung cấp các khoản vay dài hạn bởi vì hầu hết các khoản tiền gửi vào ngân hàng là ngắn hạn. Những người sản xuất phải dựa chủ yếu vào các nguồn tài chính không chính thức do không đạt được các điều khoản vay vốn với các tổ chức. Mặc dù dự án đã có hỗ trợ một phần khoản vay dài hạn để giúp đỡ VBARD trong việc phát triển các thủ tục hoạt động phù hợp trong cho vay dài hạn, tăng năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định và cấp vốn cũng như xây dựng một cơ cấu cho vay dài hạn tốt nhưng thực tế giải ngân của ngân hàng này vẫn rất khó khăn, gặp nhiều thủ tục cản trở. - Phần lớn các khoản vay phụ được cấp cho các hộ nông thôn có mức thu nhập trung bình, họ phải thế chấp tại ngân hàng và rất nhiều hộ nông dân nghèo không có được cơ hội vay từ các dịch vụ của ngân hàng. Các phương tiện cơ sở hạ tầng nông thôn nghèo bao gồm đường nông thôn, thủy lợi và giao thông đều phải thuê các dịch vụ tài chính và kỹ thuật cho các vùng rất nghèo. - Cơ chế lựa chọn nhà thầu và xét duyệt cho vay là khá phức tạp với ít nhất 3 cơ quan tham gia: Ban chỉ đạo dự án lựa chọn dựa vào đánh giá của các chuyên viên kỹ thuật của mình; sở xây dựng xem xét dựa vào hồ sơ thiết kế kỹ thuật của nhà thầu; VBARD đánh giá dựa trên khả năng tài chính; ngoài ra còn có ủy ban nhân dân tỉnh. Do đó thường dẫn đến sự không thống nhất, gây chậm trễ trong giải ngân và phát sinh nhiều tiêu cực. - Các dự án sử dụng cùng một lúc 2 cơ chế quản lý tài chính khác nhau: Quản lý vốn vay và quản lý vốn đối ứng trong khi đó các hoạt động của dự án lại sử dụng cùng một lúc cả 2 loại vốn vì thế gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như giải ngân. Chính phủ Việt Nam và các tổ chức tài trợ đã tiến hành nhiều chương trình, dự án về hài hòa hóa thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các BQL vẫn còn nhiều lúng túng trong xử lý các thủ tục và nguyên tắc quản lý. Một trong những nguyên nhân phổ biến gây chậm trễ trong công tác giải ngân là những vướng mắc về thủ tục quản lý tài chính, những khác biệt về hệ thống kế toán và quan niệm máy móc về quản lý các dòng chi của dự án. Ví dụ như: Một trong những lỗi về tài chính mà phía Việt nam thường xuyên mắc phải là không phân định rõ phần vốn ADB tài trợ và phần vốn từ nguồn của Chính phủ Việt Nam. Đặc biệt là các BQLDA tại các tỉnh, do không hiểu rõ cơ chế quản lý tài chính của dự án nên các đơn vị này thường sử dụng tiền ứng trước từ nguồn vốn nước ngoài để chi 100% cho các hoạt động của dự án. Các tổ chức tài trợ vốn đòi hỏi phải tách riêng các nguồn vốn đối với từng khoản chi bất kể lớn hay nhỏ. Điều này sẽ làm cho công việc của các kế toán dự án, của BQLDA trung ương, nhất là các đơn vị hành chính sự nghiệp nơi mà các khoản chi rất nhỏ, sẽ phải tách nguồn rất vất vả. Trên thực tế, việc sử dụng đồng thời cả vốn vay và vốn đối ứng cho cùng một công việc còn làm nảy sinh nhiều rắc rối khác trong quản lý vì: Phía Việt Nam coi tất cả các khoản chi từ nguồn vốn vay ODA là những khoản chi ngân sách nên áp dụng chính sách quản lý tài chính vốn ngân sách đối với các dự án vốn vay ODA. Trong khi đó, phía nhà tài trợ thường chia tất cả các khoản chi của dự án ra làm 2 loại: (i) những chi tiêu hợp lệ là những chi tiêu được quy định trong Hiệp định dự án và những chi tiêu phát sinh trong quá trình thực hiện dự án mà nhà tài trợ đã cho ý kiến không phản đối và (ii) những chi tiêu không hợp lệ là những chi tiêu không theo thiết kế dự án và những chi phí mang tính chất thu ngân sách của Chính phủ Việt Nam như các loại thuế và phí do chính phủ của bên vay đặt ra. Các chi phí hợp lệ và không hợp lệ có thể lẫn vào nhau (VD: thuế VAT và giá trị hàng hóa). Vì thế việc tách riêng từng khoản chi tiêu là rất khó khăn, đặc biệt là khi các cán bộ dự án tỉnh không thực sự hiểu rõ yêu cầu của nhà tài trợ vốn. Có thể nói đây là một trong những nhiệm vụ khó khăn của bộ phận kế toán trong BQLDA chè-quả và cũng là một nguyên nhân làm chậm tiến độ giải ngân. - Do dự án bị chậm trễ hơn 1 năm nên các thiết kế ban đầu trở nên lạc hậu, không theo kịp các biến động về giá cả vật tư nên BQLDA chè-quả đã phải xem xét, phê duyệt thay đổi thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán đến 4 lần và chỉ đi vào ổn định sau khi Bộ NN&PTNT phê duyệt lần cuối vào năm 2004. - Một vấn đề quan trọng khác trong quản lý tài chính là vấn đề định mức chi tiêu. Trên thực tế các định mức trong nước khá thấp và bất hợp lý do không được cập nhật thường xuyên theo thị giá. Nhiều khoản chi vượt quá định mức của Bộ Tài chính nhưng cần phải được thực hiện gấp. Đây là một trong những khó khăn lớn cho BQL, đặc biệt là các cán bộ quản lý tài chính vì nếu các cán bộ kế toán chỉ cho phép thanh toán những khoản chi theo đúng định mức thì các cán bộ kỹ thuật sẽ không thể thực hiện được nhiều hoạt động theo thiết kế dự án. Đây là một khó khăn lớn đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết linh hoạt để không những vừa đảm bảo các nguyên tắc quản lý lại vừa tạo điều kiện cho công việc thực hiện dự án. Phối hợp với các đơn vị khác (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: - Mức độ hoàn thiện và khả năng phối hợp các hoạt động của dự án vẫn chủ yếu phụ thuộc vào những nỗ lực của đơn vị quản lý dự án (CPMU, PPMU). Các đơn vị chuyên môn cấp tỉnh chưa chủ động trong việc lập kế hoạch có tính đến sự phối hợp với các đơn vị khác. - Mối liên hệ giữa khuyến nông, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ là rất lỏng lẻo. Mặc dù các viện nghiên cứu chịu trách nhiệm về đào tạo nhưng cán bộ khuyến nông hầu như không được biết về các kết quả nghiên cứu và khuyến nông trong các vấn đề phát sinh trên đồng ruộng. Ngoài ra các nỗ lực của chính phủ về khuyến nông chưa được gắn bó với kế hoạch phát triển của các tỉnh và huyện. Các lời khuyên chưa sát thực và ít nhấn mạnh theo phương châm nhiều người tham gia. Các nỗ lực khuyến nông còn nhiều yếu điểm do thiếu vốn, thiếu cán bộ và phương tiện vận tải đã hạn chế nông dân tiếp thu. Hơn nữa các cán bộ khuyến nông ở các trung tâm tỉnh rất ít quan hệ với các cán bộ khuyến nông của các nông trường quốc doanh. - Trong các báo cáo tiến độ các khoản tiền mặt thuộc quỹ quay vòng do VBARD và Quỹ tín dụng nhân dân thành lập theo nội dung được ADB chấp thuận, thanh toán tín dụng cả lãi và gốc của dự án nên được phổ biến cho Bộ NN&PTNT biết. Điều này sẽ giúp Bộ NN&PTNT theo dõi 2 đơn vị này một cách hiệu quả nhằm duy trì sử dụng nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển ngành chè quả trong thời gian 15 năm còn lại sau khi dự án kết thúc. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Cả 2 dự án đều gặp phải các khó khăn ban đầu làm chậm tiến độ triển khai các hạng mục xây lắp do quy trình thủ tục phức tạp dẫn đến thời gian thẩm định và phê duyệt bị kéo dài, giá vật tư, nhiên liệu liên tục tăng làm thay đổi dự toán. - Việc quản lý, phê duyệt các hoạt động của dự án không tập trung thống nhất vào BQLDA trung ương (đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn bộ về kết quả dự án). Trên thực tế, các nhà tài trợ coi giám đốc dự án là chủ đầu tư và uỷ quyền toàn bộ cho việc thực hiện các chi tiêu của dự án. Tuy nhiên, Bộ chủ quản chỉ uỷ quyền rất hữu hạn cho giám đốc dự án. Do vậy các giám đốc dự án phải trình duyệt trước khi ký hợp đồng hầu hết các hạng mục mua sắm, nhiều khi có những hạng mục có trị giá rất nhỏ. Quản lý vi mô thực hiện dự án (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: - Dự án ban đầu được thiết kế trong vòng 6 năm từ tháng 11/2001 đến tháng 12/2006. Trong 3 năm đầu, tiến độ thực hiện dự án tương đối chậm do khủng hoảng tài chính ở Châu Á và các thay đổi về quản lý hành chính Nhà nước. Ngoài ra còn có các yếu tố khác cũng làm ảnh hưởng đến việc chậm trễ này là: (i) việc thực thi của khu vực tự quản làm ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn ngân sách tài chính. (ii) chậm trễ trong việc mua sắm các trang thiết bị phòng thí nghiệm; và (iii) những thay đổi chính sách của Bộ Tài chính về các thủ tục rút tiền. Sau sự chậm trễ ban đầu này, hầu hết các hoạt động dự án đều đi trước theo kế hoạch. Tuy nhiên, theo kiến nghị của BQLDA chè-quả, thời gian thực hiện cuả dự án đã được gia hạn đến ngày 31/12/2007 chủ yếu là để có thêm thời gian phục vụ cho công tác thanh quyết toán tất cả các tài khoản tạm ứng và các tài khoản tạm ứng cấp 2 cho cả hợp phần tín dụng và phi tín dụng; hoàn thành tất cả các hoạt động mua sắm và trao thầu hợp đồng, thực hiện tuân thủ kiến nghị của kiểm toán nêu trong báo cáo kiểm toán năm 2006 và các năm trước đó; trình đơn xin rút vốn cuối cùng và đảm bảo việc chuẩn bị báo cáo hoàn thành dự án. Dự án phát triển sản xuất khoai tây cũng chịu chung tình trang chậm trễ khiến cho các hạng mục không thể triển khai kịp thời do không thống nhất trong cơ chế quản lý. Ví dụ như việc lựa chọn mô hình quản lý tài chính đã tốn khá nhiều thời gian để quyết định giữa các phương án: (i): để ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) có toàn quyền quản lý phần vốn cho hợp phần tín dụng (thẩm định và quyết định cho vay) (ii): để PPMU và các cơ quan chức năng của tỉnh tham gia phân loại đối tượng thụ hưởng theo các tiêu chí kỹ thuật. (iii): Để CPMU lựa chọn 1 ngân hàng thương mại quản lý tài khoản và thẩm định cho vay với hợp phần phi tín dụng. - Lãi suất vay vốn áp dụng lãi suất thương mại, không có chính sách ưu đãi trong khi đó các tỉnh tham gia dự án đều là các tỉnh trung du, miền núi, tỉnh nghèo, phần đông là dân tộc thiểu số, dân trí còn hạn chế, thu nhập thấp nên đã có ảnh hưởng đến tiến trình của dự án. - Đứng trên góc độ quản lý nhà nước thì hệ thống kiểm tra và cấp chứng nhận nhìn chung vẫn còn thiếu. Cục tiêu chuẩn đo lường Việt Nam đã có quy định các tiêu chuẩn cho một số loại sản phẩm còn Viện Công nghệ sau thu hoạch và trung tâm kiểm tra thực phẩm là 2 cơ quan trực thuộc Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm về chất lượng thực phẩm, bao gồm cả cấp giấy chứng nhận để xuất khẩu. Tuy nhiên việc kiểm tra mác và chất lượng nói chung là thấp đối với các loại chè và cây ăn quả, không có sự phân tích thường xuyên về dư lượng thuốc sâu và các tạp chất. - Việc mua sắm trang thiết bị bị chậm một cách đáng kể đặc biệt thiết bị cho phòng thí nghiệm. Việc này một phần là do nhu cầu chuẩn bị các thông số kỹ thuật chi tiết, do quá trình đặt hàng mất nhiều thời gian và các yếu tố nằm ngoài khả năng kiểm sóat của nhà thầu, nhà cung ứng xây lắp. - Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý tài chính của dự án đã có nhiều tiến bộ so với trước đây nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực hiện dự án. Điều này rất hạn chế trong việc xử lý thông tin cũng như không phù hợp với thói quen làm việc của nhà tài trợ và phần nào đã làm giảm tiến độ thực hiện dự án khi thông tin không được xử lý kịp thời. Nguyên nhân là do trình độ tin học rất có hạn của nhiều cán bộ dự án cấp trung ương và cơ sở, đặc biệt là các cán bộ đã tuổi cao rất khó tiếp thu và sử dụng các chương trình phần mềm về quản lý tài chính kế toán. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Dự án có tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường vào năm 2008 nhưng nghiên cứu này không phản ánh được hết thực tế thị trường khoai tây ở Việt Nam (theo đánh giá của các chuyên gia trong nước, những kết luận của nghiên cứu này có những số liệu sai và mâu thuẫn trong khi đó những thông tin quan trọng về tổng cầu và kênh thị trường chưa được khảo sát). Do đó cần thực hiện nghiên cứu bổ sung để cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho giai đoạn 2. - Dự án phát triển sản xuất khoai tây vẫn còn thiếu tính bền vững. Nguyên nhân thứ nhất là do các hoạt động và kết quả mới chỉ thực hiện được ở các vùng làm điểm trong 8 tỉnh trên phạm vi hẹp, chưa xuống sâu được nông dân và mức độ hỗ trợ của dự án vẫn còn cao. Lý do thứ hai là sản xuất khoai tây chưa đạt quy mô lớn, đại trà nên giá thành củ giống vẫn còn cao. Mặt khác, các chính sách hỗ trợ khoai giống trong nước còn yếu nên cần được đẩy mạnh nhằm hạn chế việc nhập khoai tây giống chất lượng thấp từ Trung Quốc... Tóm lại, khả năng cạnh tranh của khoai tây giống sản xuất trong nước của dự án vẫn chưa bền vững và cần có sự trợ giúp thêm một thời gian nữa. Thêm vào đó, trong xu thế hội nhập như hiện nay, việc hài hòa các biện pháp kiểm dịch thực vật nhằm phát triển thương mại Việt Nam chưa làm được nhiều nên rất cần hỗ trợ về kỹ thuật của các nước tiên tiến. Với những lý do nêu trên, dự án phát triển sản xuất khoai tây cần có giai đoạn 2 để tăng tính bền vững của hệ thống. Giám sát, đánh giá dự án (*) Với dự án chè-quả: - Việc đánh giá hiệu quả thực hiện ở một số hợp phần như chất lượng đào tạo; chất lương thông tin thị trường cung cấp còn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng “lạm phát” tập huấn, hội thảo ở các tỉnh. Nguyên nhân một phần là do các nội dung này không có các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá. - Thời gian đánh giá cuối kỳ dự án là khá lâu. Dự án chè-quả kết thúc từ T12/2007 nhưng phải đến T12/2008 mới hoàn thành báo cáo đánh giá cuối kỳ. Một phần nguyên nhân là do công viêc kiểm toán và thanh quyết toán vốn đầu tư triển khai chậm mặc dù BQLDA trung ương đã rất tích cực hợp tác với đoàn đánh giá của ADB nhưng do những khó khăn về quản lý tài chính đã nêu ở trên nên công việc kiểm soát các khoản chi trở nên phức tạp. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Với dự án phát triển sản xuất khoai tây thì một vài chỉ tiêu phản ánh mục tiêu của dự án vẫn chưa rõ ràng ví dụ như mục tiêu “sản xuất giống bền vững” vẫn chưa có chỉ tiêu đánh giá cụ thể để có thể lượng hóa được. Các chỉ tiêu trong Kế hoạch thực hiện dự án, đặc biệt trong Ma trận kế hoạch dự án và kế hoạch hoạt động cũng cần được xác định rõ ràng hơn. Công tác quản lý việc cung cấp các dịch vụ dự án được thực hiện một cách thường kỳ, tuy nhiên việc quản lý đánh giá các tác động của dự án cần phải được mở rộng hơn nữa. QLDA theo lĩnh vực chủ yếu Quản lý phạm vi (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: - Dự án đã góp phần tăng sản lượng chè và cây ăn quả nhưng giá cả vẫn chưa được cải thiện một cách đáng kể. Các bên vay phụ vẫn chưa tổ chức được khâu tiếp thị các sản phẩm của mình và thiếu đầu tư trong khâu kiểm tra chất lượng trước và sau khi xử lý sau thu hoạch và điều đó cũng hạn chế họ có được những cơ hội tiếp cận các t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2686.doc
Tài liệu liên quan