MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA 2
1. Nguồn vốn ODA 2
1.1.Khái niệm 2
1.2. Đặc điểm của ODA 2
2. Vai trò của vốn ODA đối với đầu tư phát triển ở Việt Nam 4
2.1. Nhu cầu vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế ở Việt Nam 4
2.2. Tầm quan trọng của ODA đối với phát triển kinh tế Việt Nam 5
2.3. Mô hình định lượng tác động của nguồn vốn ODA đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA THỜI GIAN QUA Ở VIỆT NAM 11
1. Tình hình huy động vốn ODA 11
1.1 Tình hình cam kết ODA 12
1.2. Ký kết các hiệp định vay hoặc thỏa thuận viện trợ của các nhà tài trợ 14
1.2.1. Các nhà tài trợ cung cấp ODA cho Việt Nam 14
1.2.2. Một số nhà tài trợ tiêu biểu 15
1.3. Tình hình giải ngân ODA 20
2. Tình hình sử dụng vốn ODA 22
2.1 Cơ cấu sử dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển 23
2.2. Vốn ODA phân bổ theo ngành 23
2.3 Vốn ODA phân bổ theo vùng lãnh thổ. 26
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA 35
1. Các chính sách và giải pháp thu hút ODA: 37
2. Các chính sách và biện pháp về sử dụng và quản lý ODA: 38
3. Phổ biến thông tin về ODA 39
4. Theo dõi và đánh giá 39
KẾT LUẬN 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9248 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc và Xin-ga-po.
1.2.1.2.Các nhà tài trợ đa phương gồm:
+ Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ gồm có: Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait.
+ Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ gồm có: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF),Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Tình hình cam kết của 10 nhà tài trợ hàng đầu dành cho Việt Nam được thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Biểu 1: Tình hình cam kết của 10 nhà tài trợ hàng đầu giành cho Việt Nam
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
1.2.2. Một số nhà tài trợ tiêu biểu
Tổng số vốn ký kết theo các hiệp định, thỏa thuận tài trợ là 42,399 tỷ USD trong đó Nhật Bản, Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á là 3 nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam, cụ thể là:
Nhật Bản là nước cung cấp viện trợ phát triển lớn nhất cho Việt Nam, chiếm trên 30% tổng cam kết viện trợ của các nước cho Việt Nam. Hiện nay, viện trợ của Nhật Bản dành cho các nước bị giảm sút do kinh tế Nhật Bản phải đối mặt với khó khăn kéo dài. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước ưu tiên nhận viện trợ của Nhật Bản.
Chính sách mới của phía Nhật Bản về cung cấp ODA cho Việt Nam trong các năm tới sẽ tập trung vào các lĩnh vực sau:
Thúc đẩy tăng trưởng bao gồm các lĩnh vực: Cải thiện môi trường đầu tư; Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và khu vực tư nhân; Giao thông; Năng lượng điện; Viễn thông; Phát triển nguồn nhân lực; Cải cách kinh tế bao gồm cả cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Cải thiện mức sống và điều kiện xã hội bao gồm các lĩnh vực: Giáo dục; Y tế; Phát triển nông thôn; Phát triển đô thị; Môi trường; Cải thiện mức sống và điều kiện xã hội.
Tăng cường thể chế bao gồm các lĩnh vực: Cải thiện hệ thống Luật pháp và Cải cách hành chính.
Viện trợ không hoàn lại
Từ khi nối lại viện trợ phát triển năm 1992 đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện nhiều loại hình viện trợ không hoàn lại khác nhau cho Việt Nam như: Viện trợ không hoàn lại chung; Hợp tác kỹ thuật dạng dự án; Nghiên cứu phát triển; Cử chuyên gia; Đào tạo cán bộ Việt Nam tại Nhật Bản; Cung cấp trang thiết bị; Viện trợ phi dự án... với tổng trị giá khoảng hơn 1.4 tỷ USD.
Ngoài ra, thông qua chương trình hợp tác kỹ thuật, Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ lập các qui hoạch tổng thể phát triển các ngành như điện, giao thông, nghiên cứu khả thi, lập thiết kế chi tiết, khảo sát về môi trường..., đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý tại Nhật Bản, cử chuyên gia tư vấn, người tình nguyện sang Việt Nam làm việc...
Tín dụng ưu đãi
Từ khi Chính phủ Nhật Bản chính thức nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam tháng 11/1992 cho đến hết tài khoá 2006 (tháng 3/2007), hai Chính phủ đã ký tất cả 106 hiệp định vay tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản. Tổng số tín dụng, bao gồm cả tín dụng ưu đãi thường niên và tín dụng đặc biệt đồng Yên, tín dụng Miyazawa mà phía Nhật Bản đã cam kết cho đến nay là 1318.6 tỷ Yên (tương đương 12 tỷ USD) để triển khai thực hiện các công trình và chương trình phát triển kinh tế lớn của nước ta trong các lĩnh vực: năng lượng, giao thông vận tải, nông nghiệp và phát triển nông thôn, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước, hạ tầng đô thị, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Nhiều dự án nói trên đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của ta như đường số 5, các cầu trên quốc lộ 1, hệ thống thông tin cứu hộ ven biển, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ, cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, đường 10, 18, cảng Cái Lân , Dự án đại lộ đông - tây TP.HCM và hầm Thủ Thiêm theo tiến độ sẽ hoàn thành vào quí 1-2010 với tổng mức đầu tư 9800 tỉ đồng bằng nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản.
Thực hiện cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Thủ tướng Nhật Bản về việc Chính phủ Nhật Bản xem xét tài trợ cho 3 dự án ưu tiên của Việt Nam là dự án Phát triển Khu công nghệ cao Hòa Lạc, xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam và xây dựng đường sắt cao tốc Bắc - Nam, thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đó phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai một số công tác chuẩn bị như sau.
Dự án Phát triển khu công nghệ cao Hòa Lạc
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu tháng 3/2007 JICA đó cử đoàn vào thực hiện việc cập nhật Quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghệ cao Hòa Lạc. Báo cáo giữa kỳ đã hoàn thành và đến tháng 10/2007 sẽ đưa ra báo cáo cuối kỳ. Báo cáo giữa kỳ đó xác định một số dự án hạ tầng ưu tiên cần tiến hành đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và ODA. Phía Nhật Bản đề nghị sớm xác định các dự án nào sẽ sử dụng ODA của Chính phủ Nhật Bản, trên cơ sở đó tiến hành lập báo cáo khả thi để Chính phủ Nhật Bản xem xét tài trợ vốn trong tài khóa 2008.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phía Nhật Bản đó có đề xuất ý tưởng xây dựng Khu công nghệ cao Hoà Lạc trở thành trung tâm đặc biệt có sức lan toả trong phạm vi cả nước và bao gồm các chức năng đào tạo, nghiên cứu, sản xuất ứng dụng và tuyên truyền giáo dục. Phía Việt Nam hoan nghênh đề xuất của phía Nhật Bản đồng thời nhấn mạnh việc xác định chức năng của Khu công nghệ cao Hoà Lạc cần tham khảo thêm mô hình của các nước khác trên Thế giới.
Trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, JBIC đó đồng ý xem xét tài trợ cho dự án xây dựng đường vành đai 3 (đoạn nối từ đầu đường cao tốc Láng - Hòa Lạc đến cầu Thanh Trì) nhằm mục đích phục vụ cho việc phát triển Khu cụng nghệ cao Hòa Lạc. Hiện nay phía JBIC đang tích cực phối hợp với các cơ quan phía Việt Nam hoàn tất các công tác chuẩn bị để cấp vốn cho dự án trong tài khóa 2007.
Hiện nay các công ty của Nhật Bản rất quan tâm đầu tư vào Khu công nghệ cao Hoà Lạc và đề nghị áp dụng quy chế Tối huệ khi đầu tư vào Khu công nghệ cao Hoà Lạc bao gồm ưu đãi về thuế, về lao động, đơn giản hóa các thủ tục...
Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – Nam
Hiện nay cơ quan JICA của Nhật bản đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để giúp xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông Việt Nam bao gồm cả việc xây dựng báo cáo tiền khả thi cho các đoạn có ưu tiên cao thuộc tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam.
Ngày 25/4/2007, JBIC và Bộ Giao thông vận tải đó ký Biên bản về việc JBIC cung cấp hỗ trợ kỹ thuật hình thành dự án (SAPROF) cho việc xây dựng thiết kế chi tiết cho việc xây dựng đoạn đường bộ cao tốc Bắc - Nam (đoạn T.P. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây).
Dự án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc – Nam
Hiện nay cơ quan JICA của Nhật Bản đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để giúp xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông Việt Nam bao gồm cả việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Dự kiến Báo cáo cuối kỳ sẽ được hoàn thành vào tháng 10/2009.
Việc nghiên cứu xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển giao thông Việt Nam sẽ tập trung xem xét quan hệ giữa các loại hình giao thông (đường bộ, đường sắt, đường hàng không), so sánh giữa kế hoạch hiện đại hóa hệ thống đường sắt hiện có với kế hoạch xây dựng tuyến đường mới.
Ngân hàng thế giới ( WB) : đã nối lại quan hệ với Việt Nam từ tháng 10 năm 1993. Hiện nay có 36 dự án vốn vay ODA với tổng trị giá 3850.6 triệu USD đang được thực hiện. Các dự án của WB chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: năng lượng (25%), nông nghiệp (23%), nâng cấp đô thị (15%), giao thông (14%), quản lý kinh tế (8%), giáo dục (7%), y tế (6%), Công nghệ thông tin (2%)...
Về tiến độ giải ngân, mặc dù một số dự án đã có những cải thiện nhưng nhìn chung tỷ lệ giải ngân còn thấp so với với khu vực. Tính trong tổng số hơn 6 tỷ USD tổng cam kết tài trợ của WB từ trước tới nay, Việt Nam hiện mới chỉ giải ngân được hơn 3 tỷ USD.
Về hiệu quả thực hiện, theo đánh giá của WB, các dự án thực hiện nhìn chung có hiệu quả. Năm 2004 Việt Nam được đánh giá là 1/3 nước đứng đầu về hiệu quả thực hiện dự án, đặc biệt khi xét tới những tác động đem lại của dự án tới giảm nghèo, cải cách chính sách và thể chế. Sự hỗ trợ của WB cho Việt Nam đã mang lại những hiệu quả rất tích cực, một số dự án sử dụng vốn vay IDA sau khi hoàn thành đã bắt đầu phát huy hiệu quả như dự án Phục hồi và phát triển ngành điện, dự án phục hồi Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội – Vinh và TP. HCM- Cần Thơ, Hiện đại hoá hệ thống thanh toán Ngân hàng, Chương trình tín dụng giảm nghèo (PRSC),...
Về hoạt động hỗ trợ của WB trong giai đoạn 2007 – 2010, Chiến lược hỗ trợ quốc gia (CAS) đã được chuyển thành Chiến lược đối tác quốc gia giai đoạn 2007-2011 (CPS 2007-2011) thể hiện sự hướng tới một tầm cao mới trong quan hệ hợp tác giữa WB và Việt Nam. Nội dung của Chiến lược nhìn chung gắn kết chặt chẽ với Kế hoạch phát triển Kinh tế – xã hội 2006-2010 với mục tiêu hỗ trợ Chính phủ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của mình, đưa Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình vào năm 2010.
Ngân hàng thế giới đã xây dựng chiến lược hỗ trợ quốc gia cho Việt Nam. Trong quá trình thực hiện chiến lược đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của chính phủ và cộng đồng tài trợ nhằm xây dựng chương trình hỗ trợ phù hợp với chiến lược phát triển, chính sách ưu tiên của Việt Nam và thế mạnh của nhà tài trợ. Mục tiêu hỗ trợ trong thời gian tới nhằm giúp Việt Nam thực hiện thành công chương trình xóa đói giảm nghèo, tăng trưởng công bằng, trong đó tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên cụ thể như ổn định kinh tế vĩ mô và tính cạnh tranh, tăng cường khu vực tài chính, cải cách doanh nghiệp nhà nứoc, tăng cường năng suất lao động thông qua cải thiện hạ tầng cơ sở, thúc đẩy phát triển nông thôn, đầu tư cho con người, cải cách nền hành chính nhà nước, tăng tính công khai và sự tham gia của cộng đồng. Mức tài trợ dự kiến mỗi năm dành cho Việt Nam khoảng từ 300 đến 800 triệu USD.
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Mục tiêu hoạt động chính của ngân hàng là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội của các nước thành viên đang phát triển nhằm nâng cao mức sống dân cư trong vùng. Các mục tiêu chiến lược chủ yếu là thúc đẩy phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, cải thiện tình hình xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường. Ngân sách hoạt động của ADB gồm 2 nguồn: nguồn vốn đặc biệt (quỹ phát triển Châu Á, Quỹ hỗ trợ kỹ thuật và Quỹ đặc biệt Nhật Bản) và nguồn vốn thông thường (do các thành viên đóng góp và huy động trên thị trường tài chính quốc tế).
Từ khi nối lại quan hệ tài trợ vào tháng 10/1993 đến nay, ADB đã cung cấp cho Việt Nam khoảng 50 khoản vay với tổng số vốn 9.88 tỷ USD và các khoản viện trợ không hoàn lại vợi trị giá khoảng 80 triệu USD để thực hiện hơn 100 dự án hỗ trợ kỹ thuật. Ngoài ra, cũng dành một khoản vay cho khu vực tư nhân trị giá 30 triệu USD. Các khoản vay ưu đãi từ Quỹ phát triển Châu Á có thời hạn 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn, không lãi suất, chi phí quản lý 1%/năm.
Chiến lược hợp tác với Việt Nam là tập trung vốn hỗ trợ cho việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng xã hội, tăng cường thể chế và đào tạo nguồn nhân lực, coi trọng chương trình xóa đói giảm nghèo, hợp tác tiểu vùng và tiểu vùng Mê Kông mở rộng nhằm phối hợp sự nỗ lực chung của các nước trong tiểu vùng. Ngoài ra, ADB còn hỗ trợ vốn cho đầu tư tư nhân, cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh doanh trong kinh tế.
1.3. Tình hình giải ngân ODA
Tổng số vốn ODA đã giải ngân tính đến cuối năm 2009 là 25,718 tỷ USD bằng 60.66% tổng giá trị các hiệp định đã ký và chiếm khoảng 45,6% so với tổng số vốn đã cam kết.
Tính chất của các khoản giải ngân ODA phản ánh sự gia tăng liên tục về mức độ thực hiện các chương trình, dự án. Tổng mức giải ngân ODA không kể các khoản cho vay giải ngân nhanh với mục tiêu chung, cũng không ngừng tăng từ 248 triệu USD năm 1993 lên 1155 triệu USD năm 1998 và 1500 triệu USD năm 2000, năm 2009 là 3600 triệu USD.Các khoản giải ngân nhanh để giải quyết vấn đề cán cân thanh toán và điều chỉnh cơ cấu đã góp phần tăng mức giải ngân, đặc biệt là các khoản vay bằng tiền từ quỹ điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), chương trình tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC) của Ngân hàng thế giới (WB), chương trình nông nghiệp của ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và tín dụng hàng hóa từ quỹ Miyaza của Nhật Bản.
Các dự án đầu tư xây dựng thường có tốc độ giải ngân chậm hơn các dự án hỗ trợ kỹ thuật, do bị chi phối bởi một số nhân tố như thời gian chuẩn bị dự án dài, đặc tính phức tạp về kỹ thuật, địa bàn đầu tư trải rộng, vướng mắc ban đầu về giải phóng mặt bằng… Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Tuy nhiên các dự án loại này thường có tỷ trọng chi phí chuyên gia rất lớn (tới 60 – 70% giá trị dự án), hơn nữa chi phí này thường phát sinh ở ngoài Việt Nam. Kết quả này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì xét theo mức độ tập trung và phân tán, các dự án rút vốn nhanh thường là các dự án tập trung ở một địa phương hoặc một cấp quản lý, ví dụ như dự án của mọt doanh nghiệp,thực hiện tại một địa bàn hoặc nhập thiết bị cả gói. Trong khi các dự án rút vốn chậm là các dự án có nhiều hoạt động, nhiều cấp, nhiều ngành vì vậy cơ chế tổ chức dự án thường nhiều ban bệ và thủ tục quản lý nội bộ của dự án cũng khá rườm rà.
Kết quả của quá trình huy động vốn thể hiện tại biểu đồ dưới đây:
Biểu 2: Tình hình huy động vốn ODA của Việt Nam từ 1993-2009
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Tổng số vốn cam kết, ký kết và giải ngân theo các Hiệp định vay nợ, viện trợ liên tục tăng lên hàng năm, thể hiện sự ủng hộ của các nhà tài trợ đối với những nỗ lực cải cách của Việt Nam cũng như những kỳ vọng của họ về những bước cải cách tiếp theo, công tác tiếp nhận và quản lý các chương trình dự án của Việt Nam ngày càng được nâng cao.
Điều kiện cung cấp ODA ngày càng đa dạng. Có thể nói mỗi nhà tài trợ khi cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam đều đưa racác điều kiện tài trợ riêng của mình theo tình hình cụ thể các chương trình, dự án do phía Việt Nam đề xuất vàchính sách ưu tiên của các nhà tài trợ.
Phần lớn các Hiệp định vay ưu đãi đều có thời hạn vay dài (trên 30 năm) có thời hạn ân hạn (thời gian ân hạn dài nhất có thể lên tới 12 năm), mức lãi suất ưu đãi (dưới 1%/ năm), tập trung vào các nhà tài trợ lớn như Nhật Bản, ADB, WB.Còn lại là các khoản vay có thời hạn vay và thời gian ân hạn ngắn mức lãi suất bình quân từ 1,5-3,5%/năm. Điều đó có nghĩa là nghĩa vụ trả nợ gốc của các khoản vay này đã và đến hạn nhanh với khối lượng ngày càng tăng.
2. Tình hình sử dụng vốn ODA
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài, chính sách ưu tiên đầu tư với các chương trình dự án bằng nguồn vốn ODA của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua việc phân bổ sử dụng vốn ngày càng được chú trọng hơn, trong đó tập trung phần lớn vào việc khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn ODA giải ngân được đầu tư cho rất nhiều chương trình, dự án trải rộng khắp cả nước. Theo quy định hiện hành, chính sách ưu tiên sử dụng vốn ODA được quy định như sau:
- Nguồn vốn ODA không hoàn lại được tập trung ưu tiên sử dụng cho các chương trình và dự án thuộc các lĩnh vực: Y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình; Giáo dục và đào tạo; Các vấn đề xã hội (xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn và miền núi, cấp nước sinh hoạt…); Bảo vệ môi trường, môi sinh; Nghiên cứu các chương trình dự án phát triển (tổng quan, quy hoạch…); Hỗ trợ ngân sách; Hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước và một số lĩnh vực khác.
- Nguồn vốn ODA cho vay ưu đãi được ưu tiên sử dụng cho các dự án và chương trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc các lĩnh vực: Năng lượng; Giao thông vận tải, thông tin liên lạc; Thủy lợi; Cơ sở hạ tầngkhu công nghiệp; Xã hội (các công trìnhphúc lợi công cộng, y tế, giáo dục và đào tạo, cấp thoát nước…) và một số lĩnh vực khác.
Để có thể tìm hiểu cụ thể hơn tác động của vốn ODA đối với sự nghiệp phát triển đất nước trong thời gian qua, chuyên đề tập trung vào việc phân tích một số tiêu thức có liên quan đến cơ cấu sử dụng vốn sau đây:
2.1 Cơ cấu sử dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển
Trong thời gian qua, việc sử dụng vốn ODA đã được ưu tiên cao cho lĩnh vực đầu tư phát triển thông qua các dự án xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở quan trọng trong một số ngành của nền kinh tế - xã hội như: điện, giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy sản, giáo dục và đào tạo, y tế… Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006- 2010 đã xác định nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 2200 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2005), tương đương 140 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư khoảng 18%/năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 7,5-8%/năm.
Trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội nói trên, dự kiến nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng 35%, trong đó vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA trong 5 năm 2006-2010 dự kiến đạt trên 19 tỷ USD vốn cam kết, giải ngân dự kiến tăng từ 1,7USD năm 2005 lên 2,3 tỷ USD năm 2010. Tính chung nguồn vốn ODA dự kiến giải ngân trong 5 năm 2006- 2010 sẽ khoảng trên 11 tỷ USD. ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nguồn vốn ODA đã bổ sung 11,4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.2. Vốn ODA phân bổ theo ngành
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010. Năm lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong thời kỳ 1993-2009 phù hợp với những định hướng ưu tiên sử dụng vốn ODA nêu trên.
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn, giao thông nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác,.... đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Đây là nguồn vốn lớn và có ý nghĩa trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, khu vực tư nhân trong và ngoài nước trong giai đoạn phát triển ban đầu còn chưa mặn mà với đầu tư phát triển nguồn và lưới điện vì yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn chậm trong đó phải kể đến các dự án như Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ II công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Đại Ninh công suất 360 MW…
Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa như Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy.Hệ thống thông tin liên lạc ven biển, điện thoại nông thôn và internet cộng đồng... Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt được tài trợ bằng nguồn vốn ODA. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,... hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất thải rắn,…
Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia,..., tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Nhiều chương trình và dự án ODA hỗ trợ Việt Nam bảo vệ môi trường và phát triển bền vững như các chương trình trồng rừng và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; các chương trình và dự án xây dựng và bảo vệ các khu sinh quyển, rừng quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên,...
Ngoài ra, hơn 1 tỷ USD vốn ODA còn được sử dụng để hỗ trợ cho ngân sách thông qua các khoản vay và viện trợ không hoàn lại gắn với chính sách của WB, ADB, IMF và một số nhà tài trợ song phương như hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng, phát triển khu vực tư nhân, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước,..
Biểu 3: Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993-2009
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
2.3 Vốn ODA phân bổ theo vùng lãnh thổ.
Cho tới nay, tất cả các vùng trong nước đều được hưởng lợi từ nguồn vốn ODA đã được giải ngân. Nhiều chương trình , lĩnh vực thuộc nguồn vốn này đã được trải đều trên cả nước như: chương trình y tế cơ sở, chương trình tiêm chủng mở rộng; chương trình sinh đẻ có kế hoạch; chương trình phòng chống HIV; chương trình đường giao thông nông thôn; chương trình cấp nước sạch cho các thành phố thị xã các tỉnh….
Thời gian qua, chên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25860.doc