Chuyên đề Tổng quan về các nghiên cứu, nghiên cứu trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt vùng ven biển và hải đảo tại Việt Nam

MỤC LỤC

 

 

Trang

1. TỔNG QUAN .2

2. TỔNG QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU, ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.3

2.1. Hoàng Minh Quảng. 2009 “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ lọc màng để xử lý nước nhiễm mặn cấp cho sinh hoạt trong điều kiện Việt Nam”. đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD .3

2.1.1 Các phương pháp xử lý nước nhiễm mặn 3

2.1.2. Đề xuất dây chuyền công nghệ xử lý nước nhiễm mặn tại Đồng bằng Sông Cửu Long .5

2.2. Đặng Hữu Tuấn. 2008.”Một số giải pháp công nghệ xử lý nước cấp cho các cụm dân cư ven biển”, đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD .5

2.2.1. Tình hình cung cấp nước sạch các vùng nông thôn ven biển .5

2.2.2. Đề xuất một số công nghệ xử lý phù hợp .9

TÀI LIỆU THAM KHẢO.10

 

doc11 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2553 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Tổng quan về các nghiên cứu, nghiên cứu trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt vùng ven biển và hải đảo tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ----------------------------------------------------- HỒ SƠ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHCN ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC Nghiên cứu ứng dụng màng lọc nano trong công nghệ xử lý nước biển áp lực thấp thành nước sinh hoạt cho các vùng ven biển và hải đảo Việt Nam MÃ SỐ: ĐTĐL.2010T/31 BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ----------------------------------------------------- ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHCN ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC Nghiên cứu ứng dụng màng lọc nano trong công nghệ xử lý nước biển áp lực thấp thành nước sinh hoạt cho các vùng ven biển và hải đảo Việt Nam MÃ SỐ: ĐTĐL.2010T/31 Cơ quan chủ trì : TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG Chủ nhiệm đề tài : PGS.TS. TRẦN ĐỨC HẠ Thực hiện chuyên đề : TS. TRẦN THỊ VIỆT NGA KS. TRẦN HIẾU ĐÀ CHUYÊN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU, ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU TRONG LĨNH VỰC CẤP NƯỚC SINH HOẠT VÙNG VEN BIỂN VÀ HẢI ĐẢO TẠI VIỆT NAM HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM 2010 Cơ quan chủ trì : TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG Chủ nhiệm đề tài : PGS.TS. TRẦN ĐỨC HẠ MỤC LỤC Trang 1. TỔNG QUAN…………………………………………………….......................2 2. TỔNG QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU, ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU...........................3 2.1. Hoàng Minh Quảng. 2009 “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ lọc màng để xử lý nước nhiễm mặn cấp cho sinh hoạt trong điều kiện Việt Nam”. đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD………………………………………………………………………..3 2.1.1 Các phương pháp xử lý nước nhiễm mặn……………………………………3 2.1.2. Đề xuất dây chuyền công nghệ xử lý nước nhiễm mặn tại Đồng bằng Sông Cửu Long…………………………………………………………………………..5 2.2. Đặng Hữu Tuấn. 2008.”Một số giải pháp công nghệ xử lý nước cấp cho các cụm dân cư ven biển”, đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD…………………………….5 2.2.1. Tình hình cung cấp nước sạch các vùng nông thôn ven biển……………...5 2.2.2. Đề xuất một số công nghệ xử lý phù hợp…………………………………...9 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................10 1. TỔNG QUAN Nước là nhu cầu thiết yếu cho con người, động vật và cây cối. Không có nước cuộc sống trên trái đất không tồn tại. Từ thủa ban đầu của nền văn minh nhân loại, con người đã định cư giữa các nguồn nước, dọc theo sông suối, bên bờ hồ hoặc gần các nguồn nước ngầm tự nhiên. Song có nhiều cụm dân cư sống trong những vùng hiếm nước khiến họ phải thường xuyên tìm kiếm nước nơi xa chỗ ở và đôi khi phải dùng những nguồn nước bị ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người. Nước có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người nhưng nó phải là nguồn nước sạch. Ngược lại nếu nguồn nước đó bị ô nhiễm thì lại có tác hại rất lớn đối với sức khoẻ cộng đồng. Nguồn nước sông ngòi, ao hồ bị nhiễm chủ yếu do chất thải của con người và động vật. Việc ô nhiễm có lúc trở thành nguyên nhân truyền dịch bệnh rất nguy hiểm, có khi lan truyền gây tử vong cho nhiều người. Theo số liệu thống kê của tổ chức Y tế thế giới thì nước bẩn dùng cho sinh hoạt là nguyên nhân gây nên hơn 80% các loại bệnh tật của con người. Ở nước ta việc cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường đã được khởi động từ những năm 1958 do cố Bộ trưởng Bộ y tế Phạm Ngọc Thạch khởi xướng với phong trào "Ba công trình vệ sinh: giếng nước – hố xí – nhà tắm". Từ đó đến nay vấn đề nước sạch luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức thể hiện qua việc xây dựng các chương trình và kế hoạch cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn trong các giai đoạn 1985 – 1990, 1991 – 2000, 2001 – 2005. Đặc biệt trong những năm gần đây vấn đề đảm bảo cấp nước sạch được Chính phủ quan tâm một cách đặc biệt. Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng CSVN đã đề ra: "Cải thiện việc cấp thoát nước ở đô thị, thêm nguồn nước sạch cho nông thôn"góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một nhiệm vụ vừa quan trọng, vừa cấp bách. Chính phủ Việt Nam cũng đã có quyết định: nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là một trong bảy chương trình mục tiêu quốc gia. Đây là một quyết định rất quan trọng, là bước ngoặt nhằm xã hội hoá việc giải quyết cung cấp nước sạch. Chiến lược Quốc gia cấp nước sạch và Vệ sinh Nông thôn đã được soạn thảo nhằm tạo ra một khuôn khổ tổng thể về mục tiêu thuộc lĩnh vực này đến năm 2020 và hướng dẫn cách thức để đạt được mục tiêu đã đề ra. Đây là một tuyên ngôn ngắn gọn về những chính sách của Nhà nước và cách tiếp cận đối với cấp nước và vệ sinh nông thôn. Vùng nông thôn nước ta chiếm khoảng 80% dân số cả nước có nhu cầu nước sạch rất cao nhưng số lượng người dân được sử dụng nước sạch còn rất hạn chế, đặc biệt là các cụm dân cư ven biển nằm rải rác khắp và gắn bó mật thiết với các vùng nông thôn. Ở những khu vực nhỏ ven biển, điều kiện về nguồn nước rất hạn chế, nguồn nước ngầm và nước mặt bị nhiễm mặn, nguồn nước mưa khó thu gom nên việc đầu tư một hệ thống cấp nước đủ quy mô và tiêu chuẩn là nhu cầu chính đáng của người dân và phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Hiện nay nhiều dự án xây dựng công trình cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn do Nhà nước và quốc tế tài trợ như chương trìn Unicef, dự án của Chính phủ Nhật Bản (JICA), ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) ngân hàng thế giới (WB) đã và đang được triển khai ở các địa phương. Số lượng công trình do nhân dân tự xây dựng còn lớn hơn nhiều. Mặc dù vậy, mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu cấp nước sạch của toàn dân. Giải quyết triệt để vấn đề này là một thách thức không nhỏ đối với toàn xã hội. Nghiên cứu một số giải pháp công nghệ xử lý nước cấp cho các cụm dân cư ven biển vừa góp phần giải quyết nhu cầu chính đáng cho người dân vừa góp phần hiện thực hoá chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây cũng có thể xem là những gợi ý cho những người chịu trách nhiệm cung cấp nước sạch cho các cụm dân cư ven biển. Ở Việt Nam số lượng các nghiên cứu, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực cấp nước sinh hoạt vùng ven biển và hải đảo là chưa nhiều, sau đây xin giới thiệu hai đề tài nghiên cứu về vấn đề xử lý và cấp nước sinh hoạt cho vùng ven biển và hải đảo Việt Nam. 2. TỔNG QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU, ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU. 2.1. Hoàng Minh Quảng. 2009 “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ lọc màng để xử lý nước nhiễm mặn cấp cho sinh hoạt trong điều kiện Việt Nam”. đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD. 2.1.1 Các phương pháp xử lý nước nhiễm mặn Các phương pháp xử lý nước nhiếm mặn đều dựa trên nguyên tắc giảm lượng muối hoà tan trong nước đến hàm lượng cho phép đối với nước ăn uống gọi là khử mặn. Khử mặn có thể đạt được bằng các phương pháp: nhiệt, đóng băng, điện phân, lọc qua màng bán thấm, chiết ly, trao đổi ion…. Tuy nhiên 3 phương pháp chính được dùng là trao đổi nhiệt, điện thẩm tách và phương pháp lọc màng. Hình 1: sơ đồ công nghệ tách muối bằng phương pháp nhiệt và màng lọc. Xử lý muối bằng nhiệt: phương pháp dựa trên nguyên lý bay hơi của chất lỏng khi đạt đến áp suất bảo hoà. Cho dòng chất lỏng chứa hỗn hợp muối đi qua thiết bị bay hơi bằng nhiệt, tại đây dòng chất lỏng được cung cấp 1 lượng nhiệt để đun nóng. Khi chất lỏng đạt đến điểm sôi hơi nước sẽ bay hơi và được thu lại còn muối được giữ lại trong hỗn hợp dòng vào được đưa ra ngoài loại bỏ . Phương pháp xử lý nước bằng nhiệt bao gồm các phương pháp: bay hơi nhanh nhiều bậc tuần hoàn dung dịch muối thải, phương pháp chưng đa bậc hơi nén bằng nhiệt, và phương pháp chưng đa bậc hơi nén cơ học là các phương pháp được sử dụng rộng dãi. Hiện nay ngoài việc sử dung năng lượng truyền thống cho các biện pháp khử muối sử dụng nhiệt thì ngày nay người ta phát triển thêm một số phương pháp mới sử dụng năng sạch như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sóng hay tận hay tận dụng quá trình bay hơi tự nhiên. Xử lý muối bằng quá trình điện thẩm tách Điện thẩm tách là một quá trình màng lọc được điều khiển bởi lớp điện thế cho loại bỏ các ion tích điện từ dòng nước. Điện thẩm tách là quá trình điện hoá học chia cắt với ion truyền qua ion trao đổi màng lọc bởi một điện thế trực tiếp. Một pin ED cơ bản bao gồm anion qua lại thấm được và màng cation thấm được, nó cung cấp chia cắt cơ bản của ion dưới điện thế trực tiếp. Quá trình oxy hoá và khử xẩy ra trong ED. Theo công nghệ này nước biển hoặc nước lợ được bơm vào khoảng giữa các màng trao đổi ion với áp suất thấp, số lượng các màng có thể lên đến hàng trăm màng đặt song song và xen kẽ nhau (hình.2). Màng trao đổi cation là những màng chỉ cho phép các ion dương chuyển qua. Màng trao đổi anion chỉ cho phép các ion âm đi qua (Hình 3.3). Hình 2 Sự loại bỏ ion trong quá trình điện thẩm tách (Nguồn: H. El-Dessouky and H. Ettouny, “Study on water desalination technologies”, prepared for ESCWA in January, 2001) Trong quá trình màng điện thẩm tách, tạp chất được tách loại khỏi nước nhờ dòng điện. Dòng điện một chiều chuyển các ion qua màng để tạo ra dòng nước ngọt và dòng nước muối có nồng độ cao hơn. Màng hình thành một rào cản giữa dung dịch muối và “nước ngọt”. Phía màng có nồng độ muối cao hơn sẽ gây ra hiện tượng phân cực nồng độ, nhiễm bẩn hữu cơ, tạo cặn khoáng chất đá vôi và các kết tủa khác. Hình 3 Sự di chuyển các ion trong quá trình điện thẩm tách 2.1.2. Đề xuất dây chuyền công nghệ xử lý nước nhiễm mặn tại Đồng bằng Sông Cửu Long. Để đề xuất được 1 dây chuyền xử lý nước chúng ta phải dựa vào chất lượng nước đầu vào và sử dụng các biện pháp xử lý sơ bộ như mục 3.5 đã nêu. Tuy nhiên quá trình xử lý sơ bộ thông thường như: làm thoáng, oxy hóa, keo tụ, lắng lọc tác giả muốn làm rõ hơn các quá trình xử lý sơ bộ bằng lọc Ctridge, MF và NF, và cách sắp xếp thứ tự của chúng trong dây chuyền xử lý nước. Màng Catridge, có đường kính lỗ màng từ 5 – 20µm. Trong khi màng MF, NF lần lượt có kích thước lỗ màng là 10 – 0,05 µm và 0,002 – 0,001 µm. Như vậy màng Catridge cho chất tan có kích thước lớn nhất đi qua sau đó lần lượt đến MF và NF. Từ đó dẫn đến nguyên tắc sắp xếp màng lọc trong quá trình xử lý sơ bộ là Catridge sau đó đến MF rồi đến NF. 2.2. Đặng Hữu Tuấn. 2008.”Một số giải pháp công nghệ xử lý nước cấp cho các cụm dân cư ven biển”, đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD. 2.2.1. Tình hình cung cấp nước sạch các vùng nông thôn ven biển. - Giai đoạn trước 1980 trước khi triển khai chương trình nước sinh hoạt nông thôn do UNICEF tài trợ: Trong giai đoạn này các công trình cấp nước là các công trình cấp nước cổ truyền như: hồ, lu chứa nước mưa, giếng khơi thu nước ngầm mạch nông, giếng khoan khơi thu nước mặt ven hồ và giếng công cộng... đặc biệt là các công trình được xây dựng từ phong trào “cấp nước và vệ sinh nông thôn” do Bộ y tế phát động từ năm 1962. Trong số các công trình trên chỉ có một số giếng ở các hộ gia đình, hoặc công cộng bên cạnh chùa, nhà thờ có xây thành và bảo quản tốt nên chất lượng nước sạch hợp vệ sinh. Số giếng này chỉ khoảng 2% tổng số giếng cổ truyền quy đổi theo thống kê của Vụ vệ sinh môi trường Bộ y tế – tức khoảng 75.000 giếng phục vụ cấp nước sạch đạt yêu cầu cho 3.870.000 người dân nông thôn. Số giếng cổ truyền còn lại không đạt yêu cầu về chất lượng nước là do: - Chất lượng xây dựng không đúng kỹ thuật, không xây thành bao bọc bảo vệ. - Khi đào giếng gặp phải những mạch nước cứng, nước nhiễm mặn, nhiễm sắt, nước thải hoặc nhiễm bẩn bởi các chất hữu cơ - sản phẩm của nước thải sinh hoạt công nghiệp. Theo thống kê của ngành y tế, hầu hết các giếng khơi mạch nông ở nông thôn đều có chất lượng không đạt tiêu chuẩn. Nguyên nhân của hiện tượng này do các chất thải nông nghiệp và sinh hoạt đều không qua xử lý đã gây ô nhiễm nước bề mặt làm ảnh hưởng đến chất lượng nước tầng nông. b. Giai đoạn từ 1981 – 1994 (trước khi có chỉ thị 200TTg của Thủ tướng chính phủ) Trước ảnh hưởng to lớn của việc cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, hưởng ứng chương trình hành động của Liên hợp quốc về thập niên cung cấp nước uống và vệ sinh môi trường thế giới (1981 – 1990). Năm 1982 Chính phủ Việt Nam đã thành lập ủy ban quốc gia về nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường. Đồng thời Việt Nam chính thức gia nhập Chương trình nước uống và vệ sinh môi trường thế giới và tổ chức gia nhập Chương trình nước uống và vệ sinh thế giới và tổ chức Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) bắt đầu thực hiện trợ giúp chương trình mục tiêu nhân đạo cải thiện tình trạng cấp nước sinh hoạt nông thôn Việt Nam tại khóa 1982 – 1986 với mục tiêu nhân đạo là cải thiện tình trạng cấp đối với một số tiểu vùng thiếu nước trầm trọng. Năm 1982, chương trình đã triển khai các dự án đầu tiên có tính thử nghiệm về mô hình cấp nước với hộ nông dân tại một số vùng kinh tế, mới thuộc ba tỉnh: Minh Hải (Bạc Liêu và Cà Mau ngày nay), Kiên Giang và Long An, nhằm giải quyết khẩn cấp việc cấp nước sạch cho dân tại một số vùng kinh tế mới, đồng thời thăm dò, xác định của phương pháp thi công, các gải pháp kỹ thuật với các điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sau một năm thực hiện với nguồn nước sinh hoạt hoặc sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh. Từ kết quả này, năm 1984 được sự thỏa thuận của UNICEF, vùng dự án tiếp tục mở rộng ra 3 tỉnh phía Bắc: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và Hà Nam Ninh (nay là 6 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định và Hà Nam). Trên thực tế việc khoan giếng bằng tay đã tỏ ra thích hợp cho phần lớn vùng nông thôn Việt Nam thời kì này, khẳng định thành công của thời kì đầu tiên khai chương trình nước sinh hoạt nông thôn. Trên cơ sở những mô hình cấp nước có hiệu quả, được sự đồng ý của chính Phủ và chấp thuận của tổ chức UNICEF, chương trình được mở rộng ra nhiều tỉnh. Năm 1987 chương trình được mở rộng ra 7 tỉnh (nay là 13 tỉnh và thành phố): Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Ninh Thuận, Bình Thuận, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh đưa quy mô cấp nước lên 23 tỉnh, thành phố đồng thời vốn tài trợ của UNICEF cho chương trình được tăng nhanh qua mỗi năm. Năm 1990 có thêm 14 tỉnh tham gia chương trình, đó là địa phương: Tiền Giang, An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Trị, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Bình, Hải Hưng, Thái Bình, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn, Gia Lai – Kontum. Từ năm 1987 được sự đồng ý của Chính phủ, ngân sách địa phương đã góp phần hỗ trợ cho hoạt động của Chương trình cấp tỉnh, thành phố, huy động thêm nguồn vốn của người sử dụng đồng thời chủ trương thay thế hàng nhập khẩu, góp phần giảm được giá thành . Những yếu tố này đã làm tăng nhanh số lượng nguồn cấp nước qua các năm, cụ thể nêu trong bảng 1. Bảng 1. Kết quả thực hiện chương trình SHNT 1978 – 1990 Năm Vốn tài trợ của UNICEF (1000USD) Số nguồn cấp nước (nguồn) Năm 1987 1.125 2.415 Năm 1988 1.180 5.238 Năm 1989 2.175 8.375 Năm 1990 2.321 12.121 Đến hết năm 1990, sau hai tài khóa trợ giúp của UNICEF với tổng kinh phí tài trợ 15,095 triệu USD đã thực hiện được 33.487 giếng trên địa bàn 38 tỉnh, thành phố (tính theo tỉnh mới) đáp ứng cho khoảng 4 triệu nông dân nông thôn có nước sạch cho nhu cầu sinh hoạt. - Hưởng ứng tinh thần Hội nghị thượng đỉnh thế giới tại Niu Đê Li (tháng 9 năm 1990) và Công ước quốc tế về quyền trẻ em, cuối năm 1991 Chính phủ đã thông qua “Chương trình hành động quốc gia”, trong đó vấn đề cung cấp nước vệ sinh môi trường nông thôn đã được đặt thành một vấn đề cung cấp nước vệ sinh môi trường nông thôn được đặt thành một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. - Trên cơ sở mục tiêu đó, họat đọng của Chương trình cung cấp nước sinh hoạt nông thông tiếp tục được mở rộng. Năm 1991 có 28 tỉnh, thành phố tham gia, năm 1992 có 36 tỉnh và năm 1993 mở rộng tới 53 tỉnh, thành phố trong cả nước (nay là 61 tỉnh, thành phố). Từ năm 1994, ngân sách nhà nước đã hỗ trợ cho hoạt động của chương trình. Qua 4 năm thực hiện đã tổ chức lắp đặt và đưa vào sử dụng đảm bảo cung cấp nước sạch hợp vệ sinh với kinh phí gần 8,99 triệu USD và 119,46 tỷ đồng. Bảng 2: Kết quả thực hiện chương trình nước SHNT 1991 – 1994 Năm Số nguồn cấp nước Nguồn vốn UNICEF (USD) Nhà nước hỗ trợ (VNĐ) 1991 16.580 1.839.454 400.000.000 1992 13.410 1.361.198 200.000.000 1993 27.250 3.288.925 3.460.000.000 1994 30.750 2.497.769 15.400.000.000 Nhìn chung trong giai đoạn này, chương trình nước sinh hoạt vệ sinh nông thôn chủ yếu làm nhiệm vụ tiếp nhận viện trợ UNICEF chuyển về các tỉnh, huyện và xã với mục tiêu giúp đỡ người nghèo, trẻ em và phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi khó khăn bằng công nghệ cấp nước sinh hoạt truyền thống và đơn giản, chủ yếu là giếng khoan đường kính nhỏ lắp bơm áp dụng cho các vùng đồng bằng có nguồn nước ngầm: bể nước là lu chứa nước mưa, nước tự chảy cho vùng núi cao, núi đá vôi hoặc vùng nước nhiều phèn, nhiễm mặn. Công nghệ xử lý nước cũng rất đơn giản, chủ yếu là các phương pháp lọc cổ truyền như lọc chậm, lọc bằng cát. Việc mở rộng Chương trình trên địa bàn cả nước với các khu vực địa hình lãnh thổ khác nhau, giải pháp cấp nước bằng giếng khoan lắp bơm tay VN6 đã không còn thích hợp với các vùng không có nguồn nước ngầm hoặc nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn, vùng núi cao... Để mở rộng phạm vi này, chương trình đã chủ trương đa dạng hóa loại hình cấp nước phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng như: + Giếng khoan, đào giếng khơi lắp bơm tay, cải tạo giếng làng phục vụ cho một số hộ hoặc nhóm gia đình. + Xây dựng hệ thống cấp nước tập trung với 2 loại hình chính: + Hệ thống dẫn nước chảy: Đây là giải pháp cấp nước tập trung với nguồn nước mạch lộ của nước ngầm, hoặc suối ở vị trí cao hơn khu vực sử dụng nước. Nước được thu lại bằng hồ thu nước, làm sạch bằng các công trình xử lý (chủ yếu là dùng bể lọc chậm) và được dẫn bằng hệ thống kín nước phục vụ cho cụm dân cư hoặc có thể đưa đến tận hộ gia đình, loại hình phù hợp với vùng cao, vùng núi. * Hệ thống cấp nước sử dụng bơm dẫn: Là giải pháp cấp nước tập trung với nguồn nước ngầm hoặc nước mặt (như một nhà máy nước nhỏ cùng cấp nước cho hàng ngàn người). Nước sau khi xử lý được bơm lên tháp nước tạo áp lực hoặc bơm đẩy đi đến từng bể chứa hoặc từng hộ gia đình qua đồng hồ để thu tiền nước. Loại hình phù hợp với vùng đồng bằng đông dân cư. Các công nghệ cấp nước trên phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh tự nhiên tại các vùng nông thôn Việt Nam, nên đã được nhân dân tiếp thu và nhận rộng ở nhiều nơi. Từ năm 1982 – 1993, tổng kinh phí đầu tư cho cấp nước sinh hoạt nông thôn đạt 435 tỷ đồng Việt Nam, trong đó UNICEF viện trợ trên 260 tỷ đồng (chiếm 60%), ngân sách địa phương, người hưởng lợi tự đóng góp bằng tiền mặt, vật tư hoặc bằng công lao động ước tính khoảng 175 tỷ đồng (chiếm 40%) đã xây dựng trên 70.000 nguồn nước cấp cho gần 10 triệu người. - Giai đoạn từ năm 1995 đến nay: Năm 1994 Thủ tướng chính phủ đã có Chỉ thị 200/TTg về đảm bảo nước sạch – vệ sinh – môi trường nông thôn, năm 1998 Chính phủ đã quyết định Chương trình nước sạch vệ sinh môi trường là một trong bảy Chương trình mục tiêu Quốc gia và bàn giao cho Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý với mục tiêu đến năm 2005 đảm bảo 80% dân số nông thôn (khoảng hơn 60 triệu người) được sử dụng nước sạch, 50% hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, 30% số chuồng trại chăn nuôi và 10% số làng nghề có hệ thống xử lý chất thải. Từ khi trở thành chương trình mục tiêu quốc gia, vấn đề cấp nước nông thôn càng được nhiều cơ quan đoàn thể, các ngành, các cấp quan tâm và giải quyết. Nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước tăng nhanh qua các năm, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế ngày càng nhiều và nhất là sự đóng góp và tự xây dựng công trình cấp nước của chính người dân ngày càng lớn. Chính vì thế tỷ lệ số dân nông thôn được cấp nước sạch tăng rất nhanh, tính đến năm 2003 đã lên tới 54%. Nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước tăng dần từ 1999 đến 2003 như trong bảng 1.7 Bảng 3: Nguồn vốn chương trình nước SHNT 1999 – 2003 Năm Nguồn vốn UNICEF (USD) Trung ương hỗ trợ (VNĐ) 1999 1.234.780 59.400.000.000 2000 1.123.520 102.000.000.000 2001 1.454.870 162.000.000.000 2002 1.875.650 215.000.000.000 2003 1.332.250 236.000.000.000 Công nghệ cấp nước trong giai đoạn này chủ yếu là xây dựng các hệ thống cấp nước tập trung (tự chảy hoặc bơm dẫn) với công xuất từ 5 – 50m3/h. Ngoài ra cũng sử dụng nguồn nước từ các giếng khoan nhỏ đã có để xây dựng công trình nối mạng. Hệ cấp nước tập trung nhỏ (nối mạng) là loại hình tận dụng giếng khoan đường kính nhỏ, giếng đào, thay bơm tay bằng lắp bơm điện đưa lên tháp nước có thể tích nhỏ, độ cao từ (5 – 7m), dùng đường ống dẫn đến hộ gia đình, có lắp đồng hồ đo nước phục vụ khoảng (50 – 100) hộ gia đình. Loại hình này phù hợp với vùng dân cư ở tập trung như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Duyên Hải miền Trung. Những trường hợp hộ gia đình sống nhỏ lẻ không tập trung thì cấp bằng các thông tin cấp nước nhỏ lẻ như giếng đào, bể lọc chậm, lu chứa nước mưa... 2.2.2. Đề xuất một số công nghệ xử lý phù hợp Từ những căn cứ đã nêu trên, tác giả đề xuất áp dụng công nghệ xử lý nước cấp cho sinh hoạt sử dụng các loại bể lọc chậm, bể lọc nổi, bể lọc tự rửa. Các dây chuyền đề xuất như sau: Đề xuất phương án xử lý nước thô là nguồn nước mặt Đối với các khu vực ven biển việc khai thác và xử lý nước mặt thường dễ dàng hơn việc xử lý nước ngầm do nước ngầm thường bị nhiễm mặn hoặc khó khai thác. Một số mô hình công nghệ xử lý nước mặt được đề xuất như sau: 2.2.2.1. Công nghệ xử lý nước mặt bằng bể lọc chậm 2.2.2.2. Công nghệ xử lý nước mặt bằng lọc phá - lọc chậm 2.2.2.3. Công nghệ xử lý nước mặt với bể lọc nổi - bể lọc tự rửa 2.2.2.4. Công nghệ xử lý nước ngầm với dàn mưa – bể lắng - bể lọc tự rửa 2.2.2.5. Công nghệ xử lý nước ngầm với tháp làm thoáng – bể lọc nổi - bể lọc tự rửa: 2.2.2.6. Công nghệ xử lý nước ngầm sử dụng bể lọc vật liệu lọc nổi. 2.2.2.7. Dây truyền công nghệ xử lý nước ngầm với bể lọc nổi 2 đợt 2.2.2.8. Công nghệ xử lý sử dụng bể lọc nổi thay bể lắng TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ NN&PTNT (1998), Chương trình MTQG về Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 1998 2005. Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT (2000) , Chiến lược Quốc gia về cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn đến 2020. Chính phủ (1998), Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg ngày 3/12/1998 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Chương trình MTQG Nước sạch và VSMT nông thôn (2000), Qui hoạch tổng thể cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Việt nam đến năm 2010. Văn phòng Thường trực Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn (2002) , Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 5 năm (1999-2003) Nguyễn Văn Tín (1998), Nghiên cứu sử dụng bể lọc vật liệu lọc nổi trong dây truyền công nghệ khử sắt nước ngầm bằng phương pháp làm thoáng cho các trạm công xuất nhỏ, Luận án Tiến sĩ kỹ thuật, Bộ giáo dục và đào tạo. Hoàng Minh Quảng. 2009 “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ lọc màng để xử lý nước nhiễm mặn cấp cho sinh hoạt trong điều kiện Việt Nam”. đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD. Đặng Hữu Tuấn. 2008.”Một số giải pháp công nghệ xử lý nước cấp cho các cụm dân cư ven biển”, đề tài thạc sỹ kỹ thuật-ĐHXD.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổng quan về các nghiên cứu, đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt vùng ven biển và hải đảo tại việt nam.doc
Tài liệu liên quan